Patch đang đứng sau tôi, bàn tay đặt trên hông tôi, cơ thể anh hoàn toàn thả lỏng. Anh cao một mét tám năm và có vóc dáng săn chắc, khỏe mạnh đến mức ngay cả chiếc quần jean rộng thùng thình và chiếc áo phông cũng không che giấu nổi. Mái tóc anh đen thẫm như màn đêm, đôi mắt cũng đen thăm thẳm. Nụ cười quyến rũ nơi anh gợi nhắc đến những rắc rối, nhưng tôi đã quyết định rằng không phải rắc rối nào cũng là không tốt.
Trên đầu chúng tôi, pháo hoa bung nở trên bầu trời đêm, vẩy từng luồng sắc màu xuống Đại Tây Dương. Đám đông liên tục thốt lên những tiếng “ồ” “à”.
Đã cuối tháng Sáu, bang Maine đang bước vào hè, chào mừng sự khởi đầu của hai tháng đầy ánh nắng mặt trời, cát, và khách du lịch với những túi tiền nặng trịch. Tôi đã đăng ký một khóa học hè – môn Hóa học – và chủ định để Patch độc chiếm phần thời gian rảnh rỗi còn lại của tôi.
Sở cứu hỏa đang tổ chức bắn pháo hoa trên một bến tàu cách bãi biển chỗ chúng tôi đứng chưa đến hai trăm thước, và tôi cảm thấy mỗi cú bắn như làm rung chuyển cả đám cát dưới chân tôi. Những con sóng thi nhau xô vào bãi biển dưới chân đồi, và tiếng nhạc hội hè ngân vang vui vẻ. Mùi kẹo bông, bỏng ngô và thịt nướng thơm lừng trong không khí, khiến bụng tôi kêu réo nhắc rằng tôi chưa ăn gì từ bữa trưa.
“Em sẽ ăn một cái hamburger pho mát,” tôi bảo Patch. “Anh muốn ăn gì không?”
“Không em à.”
Tôi mỉm cười. “Sao nào, Patch, cưng đang đùa em đấy à?”
Patch hôn lên đỉnh đầu tôi. “Anh chưa muốn ăn. Anh sẽ đi mua hamburger pho mát cho em. Ở lại ngắm pháo hoa nốt cưng nhé.”
Tôi ngoắc tay vào một cái đỉa quần của anh để ngăn anh lại. “Cảm ơn anh, nhưng em sẽ đi mua. Em không thể chịu được cái cảm giác tội lỗi.”
Patch nhướng mày đầy nghi vấn.
“Lần cuối cô nhân viên bán hàng ở quầy hamburger để anh trả tiền là khi nào hả?”
“Mới đây thôi.”
“ Chưa bao giờ thì có. Cứ ở lại đây đi. Nếu cô ta nhìn anh, em sẽ dằn vặt suốt đêm mất.”
Patch mở ví và rút ra một tờ hai mươi đô-la. “Boa cho cô ta một khoản kha khá nhé.”
Đến lượt tôi nhướng mày. “Có phải anh đang cố chuộc lại tất cả những lần anh ăn miễn phí không đấy?”
“Lần trước khi anh trả tiền, cô ta đã đuổi theo anh và nhét tiền vào túi quần anh. Anh chỉ đang cố tránh một sự đụng chạm sờ mó như thế nữa thôi mà.”
Nghe như là dựng chuyện, nhưng vì tôi đã quá hiểu Patch, nên điều đó có lẽ là sự thật.
Tôi dõi mắt lùng tìm khúc đuôi của hàng người như rồng rắn đang ôm vòng quầy bán hamburger, và thấy nó nằm gần lối vào của trò vòng quay ngựa gỗ trong nhà. Nhìn hàng người dài dằng dặc ấy, tôi đoán chắc mình phải chờ mười lăm phút mới mua được thức ăn mất. Một quầy hamburger cho cả bãi biển. Chẳng giống kiểu Mỹ chút nào.
Sau vài phút sốt ruột chờ đợi, khi đang nhìn quanh có lẽ là lần thứ mười vì buồn chán, tôi thấy Marcie Millar đứng sau tôi hai người. Marcie và tôi học cùng nhau từ thời mẫu giáo, và hơn mười một năm qua, tôi đã nhẵn mặt nó đến mức chẳng buồn nhớ. Vì nó, cả trường đã thấy nội y của tôi nhiều hơn mức cần thiết. Ở trường cấp hai, việc làm thường xuyên của Marcie là ăn cắp áo lót từ tủ để đồ trong phòng thể dục của tôi và đính nó lên bảng tin bên ngoài văn phòng chính, nhưng thi thoảng nó sáng tạo hơn và dùng cái áo lót đó như một vật thể trung tâm ở căng tin - cả hai bầu ngực áo cỡ A của tôi đều được đổ đầy pudding vani và trên đỉnh của nó còn được cắm thêm
những quả mứt anh đào. Xuất sắc, tôi biết. Váy của Marcie nhỏ hơn hai cỡ và ngắn hơn cả chục phân. Tóc nó màu hung đỏ, và thân hình như một que kem – chỉ cần quay nghiêng người là người ta hầu như chẳng còn nhìn thấy nó đâu nữa. Nếu có một bảng ghi tỉ số theo dõi những lần thắng và thua giữa chúng tôi, tôi chắc chắn Marcie sẽ gấp đôi điểm tôi.
“Chào,” tôi nói, vô tình bắt gặp ánh mắt nó và chẳng còn cách nào khác ngoài việc cất tiếng chào cộc lốc nhất.
“Chào,” nó đáp lại với giọng nói tỏ vẻ lịch sự.
Nhìn thấy Marcie ở bãi biển Delphic tối nay cũng giống như đang chơi trò Bức tranh này có điểm gì không ổn? Bố Marcie là chủ của một đại lý Toyota ở Coldwater, gia đình nó sống trong một khu thượng lưu, và gia đình Millar rất hãnh diện vì là những công dân duy nhất của Coldwater được hoan nghênh vào Câu lạc bộ du thuyền Harraseeket đầy uy tín. Ngay lúc này, có lẽ bố mẹ Marcie đang ở Freeport, lướt thuyền buồm và ăn món cá hồi.
Ngược lại, Delphic là một bãi biển “ổ chuột”. Ý nghĩ về một câu lạc bộ du thuyền quả là nực cười. Nhà hàng duy nhất ở đây chính là cái quầy hamburger màu trắng với lựa chọn của bạn là nước xốt hay mù tạt. Vào một ngày may mắn, có thể có thêm cả khoai tây chiên nữa. Những trò giải trí thú vị ở đây chỉ có điện tử xèng và ô tô điện đụng đầu và khi trời tối, bãi đỗ xe được biết đến là nơi bán nhiều ma túy hơn bất cứ hiệu thuốc nào.
Đây không phải nơi mà ông bà Millar muốn con gái mình đặt chân tới.
“Cái hàng này có thể xê dịch chậm đến mức nào nữa, hả mọi người?” Marcie gọi với lên phía trên. “Vài người ở đây đang chết đói rồi này.”
“Chỉ có một nhân viên bán hàng ở quầy thôi,” tôi bảo nó.
“Thế à? Họ nên thuê nhiều nhân viên hơn chứ. Theo luật cung cầu.”
Căn cứ vào điểm trung bình, Marcie là người cuối cùng nên nhắc đến môn kinh tế.
Mười phút sau, tôi đã tiến sát quầy hamburger đến mức nhìn thấy cả chữ Mù Tạt viết bằng bút dạ màu đen trên cái chai màu vàng. Sau lưng tôi, Marcie liên tục đổi chân và thở dài.
“Đói chết đi được,” nó phàn nàn.
Anh chàng đứng trước tôi trong hàng trả tiền và mang đồ ăn đi.
“Một hamburger pho mát và một Coke,” tôi nói với cô bán hàng.
Trong khi cô ta làm bánh cho tôi, tôi quay lại Marcie. “Cậu đi với ai đấy?” Tôi thực sự chẳng quan tâm lắm đến chuyện nó đi cùng ai, bởi vì chúng tôi không có người bạn chung nào cả, tôi chỉ hỏi thế theo phép lịch sự. Vả lại, hàng tuần nay Marcie cũng không công khai làm gì khiếm nhã với tôi, và mười lăm phút qua chúng tôi đứng cạnh nhau tương đối yên bình. Có lẽ đây là sự khởi đầu của thời kỳ đình chiến. Những chuyện cũ đã trôi vào dĩ vãng.
Marcie ngáp dài, như thể nói chuyện với tôi còn đáng chán hơn việc đứng đợi trong hàng và nhìn vào gáy người khác. “Không có ý gì đâu, nhưng tôi không có hứng thú nói chuyện. Tôi có cảm tưởng như mình đã đứng xếp hàng đến năm tiếng đồng hồ rồi ấy, chờ đợi một con nhỏ hậu đậu rõ ràng không thể làm hai cái bánh hamburger một lúc.”
Cô bán hàng đang lúi húi bóc những miếng thịt đã chế biến sẵn khỏi lớp giấy bao, nhưng tôi biết cô ta có nghe thấy lời Marcie nói. Có lẽ cô ta cũng căm ghét công việc của mình. Có lẽ cô ta đã bí mật nhổ vào miếng thịt khi quay lưng lại phía chúng tôi. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hết ca làm việc, cô ta đi ra ô tô và khóc.
“Bố cậu không phản đối việc cậu đến bãi biển Delphic chơi à?” Tôi hỏi Marcie, khẽ nheo mắt. “Có thể làm tổn hại đến thanh danh nhà Millar đấy.
Nhất là khi bố cậu đã được nhận vào Câu lạc bộ du thuyền Harraseeket.”
Vẻ mặt Marcie đanh lại. “Tôi nghĩ bố cậu chẳng bận tâm chuyện cậu đến đây đâu. Ồ, đợi đã. Đúng rồi. Ông ấy chết rồi mà.”
Tôi lập tức chết lặng khi nghe thấy lời nó nói. Sau đó là cảm giác phẫn nộ trước sự tàn nhẫn của nó. Nỗi tức giận dâng lên nghẹn ứ trong cổ họng tôi.
“Sao thế?” Nó nhún một bên vai. “Ông ấy chết rồi. Đó là sự thật. Cậu muốn tôi nói dối về chuyện đó à?”
“Tôi đã từng làm gì có lỗi với cậu hay sao?”
“Việc cậu có mặt ở trên đời này đã là đắc tội với tôi rồi.”
Sự vô tâm của nó khiến tôi tức phát điên – đến mức tôi không thèm “phản pháo”. Tôi chộp lấy chiếc bánh hamburger pho mát và cốc Coke trên quầy, đặt vào đó tờ hai mươi đô-la. Tôi rất muốn quay lại ngay với Patch, nhưng đây là chuyện giữa tôi và Marcie. Nếu bây giờ tôi xuất hiện trước mặt Patch, chỉ thoáng nhìn vẻ mặt tôi là anh sẽ biết có chuyện gì đó không ổn. Tôi không cần phải lôi anh vào chuyện này. Sau một thoáng tự trấn tĩnh lại, tôi thấy một cái ghế băng ngay gần quầy hamburger và lập tức ngồi xuống đó một cách duyên dáng nhất có thể, không muốn cho Marcie cái quyền phá hỏng buổi tối của tôi. Điều duy nhất khiến khoảnh khắc này tệ hơn là biết rằng nó đang quan sát, thỏa mãn vì đã nhét tôi vào cái hố đen của sự tủi hờn. Tôi cắn một miếng bánh, nhưng cảm thấy mùi vị của nó thật đáng sợ. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là thịt của một sinh vật đã chết. Những con bò bị chết. Người cha đã mất của tôi.
Tôi quẳng cái bánh vào thùng rác và cất bước, cố nuốt nước mắt.
Tôi khoanh chặt tay, vội vã đi về phía nhà vệ sinh ở cuối bãi đỗ xe, hy vọng có thể giấu mình sau cánh cửa của một buồng vệ sinh nào đó trước khi nước mắt trào ra. Bên ngoài nhà vệ sinh nữ đã có một hàng dài chờ đợi, nhưng tôi cố len được qua cửa và đến đứng trước một trong những tấm gương bám bụi. Ngay cả khi đứng bên dưới một cái bóng đèn lờ mờ, tôi vẫn có thể nhận ra đôi mắt mình đỏ hoe và mọng nước. Tôi thấm ướt một cái khăn giấy và lau mắt. Marcie bị làm sao vậy nhỉ? Tôi đã làm gì có lỗi với nó để nó đối xử với tôi như thế này?
Tôi hít mấy hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, rồi nhún vai, tự xây nên một bức tường gạch trong đầu và đặt Marcie ở bên ngoài bức tường ấy. Việc gì tôi phải quan tâm đến lời nó nói chứ? Tôi thậm chí còn không ưa nó cơ mà. Ý kiến của nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó hỗn hào và tự coi mình là trung tâm của vũ trụ và chuyên chơi xấu người khác. Nó không biết tôi, và hoàn toàn không biết bố tôi. Chẳng đáng phải khóc vì những lời thoát ra từ cái miệng lưỡi độc địa của nó.
Bỏ qua đi nào, tôi tự nhủ.
Đợi cho đến khi mắt bớt đỏ, tôi mới rời nhà vệ sinh. Tôi len qua đám đông, tìm Patch, và thấy anh đang chơi trò ném bóng, quay lưng về phía tôi. Rixon đứng cạnh anh, có lẽ đang cược rằng Patch không thể ném đổ một con ky nặng trịch. Rixon là một thiên thần sa ngã chơi với Patch từ lâu, họ thân nhau như anh em vậy. Patch không giao thiệp với nhiều người lắm, càng chẳng mấy tin tưởng ai, thế nhưng nếu có một người biết tất cả những bí mật của anh, người đó hẳn là Rixon.
Cách đây hai tháng, Patch cũng là một thiên thần sa ngã. Sau đó anh đã cứu mạng tôi, rồi được trả lại đôi cánh và trở thành thiên thần hộ mệnh của tôi. Bây giờ anh đã ở bên phe chính diện, nhưng tôi thầm cảm nhận được rằng mối quan hệ của anh với Rixon và thế giới những thiên thần sa ngã có ý nghĩa hơn nhiều. Mặc dù không muốn thừa nhận, nhưng tôi cảm thấy anh hối hận trước quyết định biến mình thành thiên thần hộ mệnh cho tôi của các tổng lãnh thiên thần. Xét cho cùng, đó không phải là điều Patch muốn.
Anh muốn trở thành con người.
Điện thoại của tôi réo vang, lôi tôi ra khỏi những suy nghĩ ấy. Đó là nhạc chuông dành cho cô bạn thân Vee, nhưng tôi để hộp thư thoại nhận cuộc gọi của nó. Tôi thấy áy náy khi mơ hồ nhận ra đó là cuộc gọi thứ hai của nó mà tôi đã tránh trong ngày hôm nay. Tôi bao biện cho tội lỗi của mình với ý nghĩ rằng tôi sẽ gặp nó vào sáng sớm mai. Trong khi đến tận tối mai tôi mới được gặp Patch. Tôi đã dự định sẽ tận hưởng trọn vẹn từng phút giây bên anh.
Tôi nhìn Patch ném quả bóng vào một cái bàn có sáu con ky xếp gọn gàng, lòng tôi xao xuyến khi chiếc áo phông của anh hơi nhích lên, lộ ra một mảng da trần. Từ lâu tôi đã biết cơ thể Patch rất cân đối, rắn chắc. Lưng anh cũng phẳng nhẵn và hoàn hảo, những vết sẹo hồi anh còn là thiên thần sa ngã đã được thay thế bằng đôi cánh - thứ mà tôi và tất cả những người bình thường khác không trông thấy được.
“Năm đô-la cược rằng anh không thể làm lại điều đó,” tôi nói, tiến đến phía sau Patch.
Patch ngoảnh lại và cười. “Anh không muốn tiền của em, thiên thần ạ.”
“Này này, hai cô cậu, hãy nói chuyện đứng đắn một chút,” Rixon nói.
“Cả ba con ky còn lại,” tôi thách Patch.
“Phần thưởng là gì?” Patch hỏi.
“Chết tiệt,” Rixon nói. “Không thể đợi cho đến khi các cậu ở riêng bên nhau à?”
Patch trao cho tôi một nụ cười bí ẩn, rồi khẽ ngả người ra sau, ôm quả bóng sát vào ngực. Anh hạ vai phải xuống, vung cánh tay và dùng hết sức ném quả bóng về phía trước. Một tiếng cạch! vang lên và cả ba con ky còn lại đều bị đổ khỏi bàn.
“Ái chà, giờ thì cậu gặp rắc rối rồi, gái ạ,” Rixon hét lên với tôi qua tiếng hò reo của một nhóm người đang đứng xem, vỗ tay và huýt sáo cổ vũ cho Patch.
Patch dựa lưng vào quầy trò chơi và nhướng mày với tôi. Điệu bộ đó có nghĩa: Trả nợ đi.
“Anh may mắn đấy,” tôi nói.
“Anh sắp gặp may thì đúng hơn.”
“Chọn một phần thưởng đi,” chủ quầy trò chơi nói như quát vào mặt Patch, rồi cúi xuống nhặt những con ky bị rơi.
“Con gấu màu tím,” Patch nói, và nhận được một con gấu bông gớm ghiếc với bộ lông màu tím nhạt. Anh giơ nó ra cho tôi.
“Tặng em à?” Tôi nói, áp tay lên ngực.
“Em thích những thứ phế phẩm mà. Ở cửa hàng tạp hóa, em luôn lấy những cái hộp bị lõm. Anh đã để ý thấy điều đó.” Patch móc ngón tay vào cạp quần tôi và kéo tôi lại gần. “Đi khỏi đây thôi.”
“Anh định đi đâu?” Nhưng trong lòng tôi thấy ấm áp và bối rối, vì tôi biết chính xác Patch có ý gì.
“Nhà em.”
Tôi lắc đầu. “Không được. Mẹ em ở nhà mà, chúng ta có thể đến nhà anh,” tôi gợi ý.
Chúng tôi đã hẹn hò được hai tháng, vậy mà tôi vẫn chưa biết Patch sống ở đâu. Không phải là tôi chưa từng thử đề nghị đến nhà Patch. Quen nhau được hai tuần đã là đủ để mời nhau đến nhà chơi rồi, đặc biệt là khi Patch sống một mình. Hai tháng là quá lâu. Tôi đang cố kiên nhẫn, nhưng sự tò mò của tôi cứ ngáng trở tôi. Tôi chẳng biết gì về những chi tiết riêng tư, bí mật trong cuộc sống của Patch, chẳng hạn như màu sơn tường nhà anh. Liệu cái mở hộp của anh chạy bằng điện hay bằng tay. Anh tắm bằng loại xà phòng của hãng nào. Ga trải giường của anh bằng cotton hay bằng lụa.
“Để em đoán nhé,” tôi nói. “Anh sống trong một cái trại bí mật trong một khu vực phức tạp của thành phố.”
“Thiên thần.”
“Bồn rửa nhà anh chồng chất bát đĩa chưa rửa? Sàn nhà vương vãi đồ lót bẩn? Nó kín đáo và riêng biệt hơn căn nhà của em nhiều.”
“Đúng vậy, nhưng câu trả lời vẫn là ‘không’”.
“Rixon đã thấy nhà anh chưa?”
“Rixon không thể không biết.”
“Còn em thì không biết cũng được hay sao?”
Môi Patch mím lại. “Biết nhiều không phải là tốt đâu.”
“Nếu em biết nhà anh, anh sẽ phải giết em sao?” Tôi đoán.
Patch ôm tôi và hôn lên trán tôi. “Gần đúng như vậy. Mấy giờ em phải có mặt ở nhà?”
“Mười giờ. Mai là em bắt đầu học hè rồi.” Thế đấy, dạo gần đây mẹ tôi đã kiêm thêm một công việc bán thời gian là tìm mọi cơ hội để chia rẽ tôi và Patch. Nếu tôi đi chơi với Vee, tôi có thể kéo dài “giờ giới nghiêm” tới mười rưỡi. Tôi không trách gì mẹ tôi khi bà không tin tưởng Patch – trước đây tôi cũng từng có cảm giác giống bà – nhưng tôi sẽ thấy thoải mái hơn nhiều nếu thi thoảng bà nới lỏng sự cảnh giác của bà một chút.
Chẳng hạn như tối nay. Hơn nữa, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra với tôi đâu. Khi mà bên tôi luôn có một thiên thần hộ mệnh như thế này.
Patch nhìn đồng hồ. “Đến lúc về rồi.”
10:04, Patch quay đầu xe trước cửa căn nhà trại và đỗ xe cạnh hòm thư. Anh tắt động cơ và đèn pha, để chúng tôi chìm vào bóng tối của vùng quê yên bình. Chúng tôi cứ ngồi như thế một lúc trước khi anh cất lời, “Sao em yên lặng thế, thiên thần?”
Tôi giật mình. “Em yên lặng ấy hả? Đang mải nghĩ linh tinh thôi.”
Nụ cười nửa miệng hiện lên trên khuôn mặt Patch. “Nói dối. Có chuyện gì vậy?”
“Anh giỏi đấy,” tôi nói.
Nụ cười của Patch tươi hơn. “Rất giỏi mới đúng.”
“Em đã chạm trán Marcie Millar ở quầy hamburger,” tôi thừa nhận. Chẳng việc gì phải giữ những rắc rối cho riêng mình. Rõ ràng chúng vẫn còn đang âm ỉ trong lòng tôi. Mặt khác, nếu tôi không thể nói với Patch, tôi còn có thể nói với ai được chứ? Hai tháng trước, chúng tôi đã quấn lấy nhau trong những nụ hôn ngẫu hứng trong ô tô, ngoài ô tô, dưới khán đài, và trên bàn ăn. Chúng tôi còn dính vào nhau trong những cái vuốt ve, mái tóc rối bù và son môi bị lem nhem. Nhưng bây giờ nó còn hơn thế nhiều. Tôi cảm thấy tâm hồn như gắn liền với Patch. Tình cảm của anh có ý nghĩa với tôi hơn hẳn một trăm người quen bình thường khác. Khi bố tôi mất, ông đã để lại một sự trống rỗng khổng lồ bên trong tôi, nó đe dọa gặm nhấm cả tâm hồn và cơ thể tôi. Sự trống rỗng vẫn còn đó, nhưng vết thương lòng không còn sâu như trước nữa. Tôi thấy không ích gì khi cứ mãi mắc kẹt ở quá khứ, trong khi bây giờ tôi đã có tất cả những gì tôi muốn. Và tôi phải cảm ơn Patch vì điều đó. “Nó ‘quan tâm’ tới em đến mức nhắc em rằng bố em đã chết.”
“Em có muốn anh nói chuyện với cô ta không?”
“Nghe cứ như trong phim Bố già ấy.”
“Sao hai người lại mâu thuẫn với nhau như vậy?”
“Vấn đề là thế đấy. Em cũng không biết nữa. Trước đây bọn em thường giành nhau xem ai là người lấy được hộp sữa sô-cô-la cuối cùng trong giờ ăn trưa. Rồi một ngày, hồi cấp hai, Marcie bước vào trường và xịt chữ “con điếm” lên tủ để đồ của em. Nó còn không thèm làm một cách lén lút. Cả trường đều chứng kiến cảnh đó.”
“Tự nhiên cô ta nổi khùng lên như vậy hả? Không có lý do gì sao?”
“Phải.” Ít nhất thì tôi cũng chẳng biết cái lý do đó là gì.
Patch vén một lọn tóc của tôi ra sau tai. “Ai thắng trong ‘cuộc chiến’ này?”
“Marcie, nhưng cũng không hoàn toàn đâu.”
Patch mỉm cười. “Cố lên, Cọp.”
“Và còn điều này nữa. Con điếm ư? Ở trường cấp hai, em thậm chí còn chưa hôn ai bao giờ. Đáng lẽ Marcie phải xịt chữ đó lên tủ để đồ của nó mới đúng.”
“Em bắt đầu có vẻ tức tối rồi đấy, Thiên thần ạ.” Patch lướt ngón tay bên dưới quai áo hai dây của tôi, khiến người tôi như có một luồng điện chạy qua. “Anh cá là anh có thể giúp em quên đi chuyện về Marcie.”
Tầng trên của căn nhà trại đang sáng đèn, nhưng vì không thấy mặt mẹ tôi áp sát vào ô cửa sổ nào, nên tôi cho rằng chúng tôi vẫn còn thời gian. Tôi cởi đai an toàn và nhoài người sang phía Patch, tìm đến môi anh trong bóng tối. Tôi thong thả hôn anh, thưởng thức vị mặn mòi trên làn da của anh. Sáng nay anh đã cạo râu, nhưng chân râu trên cằm anh vẫn cọ vào cằm tôi ram ráp. Miệng anh mơn man trên cổ tôi, lưỡi anh nhẹ nhàng lướt trên da tôi, tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Nụ hôn của anh chuyển xuống bờ vai trần của tôi. Anh gạt dây áo của tôi xuống và lướt môi anh dọc theo cánh tay tôi. Lúc đó, tôi muốn gần gũi bên anh hết mức có thể. Tôi không bao giờ muốn anh rời đi. Tôi cần anh trong cuộc đời tôi lúc này, ngày mai, và ngày hôm sau nữa. Tôi cần anh như thể tôi chưa bao giờ cần ai cả.
Tôi nhoài người lên táp lô, ngồi kẹp gọn cặp đùi anh. Tôi trườn đôi tay trên ngực anh, níu lấy cổ anh và cuộn anh lại gần. Đôi tay anh ôm tròn eo bụng tôi, khóa chặt tôi vào, và tôi nằm gọn sâu hơn trong lòng anh.
Theo bản năng, tôi luồn tay mơn trớn da thịt anh dưới lớp áo sơ mi, thích thú trước cái cảm giác hơi ấm của cơ thể anh lan truyền vào lòng bàn tay tôi. Ngay khi những ngón tay tôi chạm vào vị trí nơi trước đây là những vết sẹo trên lưng anh, một tia sáng lóe lên trong sâu thẳm tâm trí tôi. Một màn tối tăm đen kịt bỗng chốc bị thứ ánh sáng chói mắt xé toạc. Giống như đang quan sát một hiện tượng thiên văn trong vũ trụ cách xa hàng triệu dặm. Tôi cảm thấy tâm trí mình bị hút vào Patch, vào hàng nghìn ký ức riêng tư được lưu trữ trong đó, đột nhiên tôi cảm thấy anh cầm lấy tay tôi và dịch nó thấp xuống một chút, xa khỏi vị trí nơi cánh của anh nối với lưng, và mọi thứ lập tức trở lại bình thường.
“Em được đấy,” anh thì thầm, môi anh khẽ khàng mơn man môi tôi khi anh nói.
Tôi khẽ cắn môi dưới của anh. “Nếu anh có thể nhìn thấy quá khứ của em chỉ bằng cách chạm vào lưng em, anh cũng sẽ thấy khó mà cưỡng lại cám dỗ đó.”
“Không có điều đó thì anh cũng đã thấy rất khó khăn khi không chạm vào em rồi.”
Tôi cười, nhưng vẻ mặt tôi mau chóng trở lại nghiêm túc. Cho dù tập trung đến mức nào, tôi cũng khó mà nhớ lại được cuộc sống của tôi trước khi có Patch là như thế nào. Ban đêm, khi nằm trên giường, tôi có thể nhớ rõ âm sắc trầm trầm trong tiếng cười của Patch, cách nụ cười của anh khẽ nhếch sang phía bên phải, cái chạm tay của anh - ấm áp, dịu dàng và dễ chịu trên da tôi. Nhưng phải nỗ lực rất lớn tôi mới có thể nghĩ đến những ký ức trong mười sáu năm qua của tôi. Có lẽ vì những ký ức đó quá nhạt nhòa khi so sánh với Patch. Hoặc có lẽ vì chúng cũng chẳng có gì tốt đẹp.
“Đừng bao giờ xa em nhé,” tôi nói với Patch, móc một ngón tay vào cổ áo anh và kéo anh lại gần.
“Em là của anh, Thiên thần ạ,” anh thì thầm, mơn man phần xương hàm dưới của tôi khi tôi ngửa cổ lên, mời gọi anh hôn tôi. “Em có anh vĩnh viễn.”
“Hãy chứng tỏ với em là anh thực sự nghĩ thế đi,” tôi nghiêm trang nói.
Anh quan sát tôi một lúc, rồi đưa tay ra sau cổ và tháo sợi dây chuyền bạc anh đã đeo từ ngày tôi gặp anh. Tôi không biết chiếc dây chuyền ấy từ đâu ra, hoặc nó quan trọng thế nào, nhưng tôi cảm thấy nó rất có ý nghĩa với anh. Đó là món đồ trang sức duy nhất anh đeo trên người, và anh vẫn luôn giấu nó dưới áo sơ mi, sát trên da anh. Tôi chưa bao giờ thấy anh cởi nó ra.
Anh đưa tay ra sau gáy tôi, đeo sợi dây chuyền cho tôi. Sợi kim loại đáp xuống da tôi, vẫn còn mang hơi ấm từ cơ thể anh.
“Vật này được trao cho anh hồi anh còn là một tổng lãnh thiên thần,” anh nói. “Để giúp anh phân biệt được sự thật và sự dối trá.”
Tôi khẽ chạm vào nó, kính sợ trước tầm quan trọng của nó. “Nó còn có tác dụng không?”
“Với anh thì không.” Anh lồng những ngón tay anh vào tay tôi và lật tay tôi lại để hôn lên đốt ngón tay của tôi. “Giờ đến lượt em đấy.”
Tôi tháo một chiếc nhẫn đồng nhỏ xíu khỏi ngón giữa của bàn tay trái và đưa nó cho anh. Một hình trái tim được khắc bằng tay ở mặt dưới phẳng nhẵn của chiếc nhẫn.
Patch cầm lấy cái nhẫn, lặng lẽ ngắm nghía nó.
“Bố em đã cho em chiếc nhẫn này một tuần trước khi ông bị giết,” tôi nói.
Patch ngước lên. “Anh không thể nhận nó được.”
“Đây là thứ quan trọng nhất với em. Em muốn anh giữ nó.” Tôi cụp những ngón tay của anh lại, để chúng nắm lấy chiếc nhẫn.
“Nora.” Patch ngần ngại. “Anh không thể nhận nó.”
“Hãy hứa với em là anh sẽ giữ nó. Hãy hứa với em là sẽ không bao giờ có chuyện gì xảy ra giữa chúng ta.” Tôi nhìn chằm chằm vào mắt anh, không để anh ngoảnh đi. “Em không muốn phải xa anh. Em không muốn chuyện này kết thúc.”
Đôi mắt Patch đen thăm thẳm, bí ẩn hơn cả một triệu bí mật chồng chất lên nhau. Anh nhìn xuống chiếc nhẫn trong tay mình, từ từ lật nó lại.”
“Hãy hứa với em là anh sẽ không bao giờ ngừng yêu em,” tôi thì thầm.
Anh gật đầu, dù rất khẽ khàng.
Tôi cầm lấy cổ áo anh và kéo anh lại gần tôi, hôn anh say đắm, gắn kết lời hứa giữa chúng tôi. Tôi đan những ngón tay vào tay anh, cạnh sắc của chiếc nhẫn cứa vào lòng bàn tay chúng tôi. Dường như những gì tôi làm vẫn chưa mang tôi lại đủ gần bên anh, bao nhiêu cũng là không đủ. Chiếc nhẫn hằn sâu hơn trong lòng bàn tay tôi, cho đến khi tôi chắc chắn nó làm trầy da tôi. Một lời thề máu.
Khi tôi nghĩ ngực mình sắp nổ tung vì nghẹt thở, tôi buông anh ra, ngả trán vào trán anh. Tôi nhắm mắt, hơi thở làm vai tôi nhô lên từng nhịp. “Em yêu anh,” tôi thì thầm. “Nhiều hơn những gì em nghĩ.”
Tôi chờ anh đáp lời, nhưng anh chỉ ôm tôi chặt hơn, như muốn che chở tôi. Anh ngoảnh mặt về phía khu rừng bên kia đường.
“Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi.
“Anh nghe thấy tiếng gì đó.”
“Là em đang nói em yêu anh đấy mà.” Tôi nói, mỉm cười khi tôi di nhẹ ngón tay trên môi anh.
Tôi chờ anh cười đáp lại, nhưng mắt anh vẫn dán chặt vào rừng cây, lúc ấy đang quăng những cái bóng lập lòe xuống mặt đất khi những cành cây đu đưa theo cơn gió.
“Ngoài đó có gì thế?” Tôi hỏi, nhìn theo ánh mắt anh. “Một con sói à?”
“Có gì đó không ổn.”
Tôi bỗng sợ đờ người, và tuột xuống khỏi lòng anh. “Anh bắt đầu làm em sợ rồi đấy. Là gấu à?” Chúng tôi chưa nhìn thấy gấu đã hàng năm trời nay, nhưng căn nhà trại nằm ở rìa thị trấn, và bọn gấu vẫn thường lang thang đến gần thị trấn sau kỳ ngủ đông khi chúng đói và đi tìm thức ăn.
“Bật đèn pha và nhấn còi đi,” tôi nói. Tôi vẫn dán mắt vào khu rừng, quan sát sự chuyển động. Tim tôi nhảy dựng lên khi nhớ lại lần tôi và bố tôi nhìn qua cửa sổ của căn nhà trại để quan sát một con gấu lắc lư ô tô nhà tôi vì ngửi thấy mùi thức ăn bên trong.
Đằng sau tôi, đèn ở hiên bật lên. Tôi không cần quay lại cũng biết mẹ tôi đang đứng ở cửa, cau mày và nhịp nhịp chân.
“Cái gì thế?” Tôi hỏi Patch lần nữa. “Mẹ em đang ra ngoài này. Liệu bà có được an toàn không?”
Anh khởi động xe và chuẩn bị cho chiếc Jeep chuyển bánh. “Vào nhà đi. Anh cần làm một việc.”
“Vào nhà? Anh đùa đấy à? Chuyện gì đang xảy ra thế?”
“Nora!” Mẹ tôi gọi, bà đi xuống những bậc thềm, giọng cáu kỉnh. Bà dừng lại cách chiếc Jeep độ một mét rưỡi và ra hiệu cho tôi hạ kính cửa xe xuống.
“Patch?” Tôi hỏi lại.
“Anh sẽ gọi cho em sau.”
Mẹ tôi giật cửa xe ra. “Chào Patch,” bà chào cộc lốc.
“Cô Blythe.” Anh bối rối gật đầu.
Bà quay sang tôi. “Con về muộn bốn phút đấy.”
“Hôm qua con về sớm bốn phút mà.”
“Không có chuyện bù trừ thời gian đối với giờ giới nghiêm đâu. Vào nhà. Ngay.”
Tôi không muốn đi cho đến khi nào Patch trả lời tôi, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác, tôi đành bảo anh, “Nhớ gọi cho em đấy nhé.”
Anh gật đầu một cái, nhưng chỉ cần nhìn vào mắt anh, tôi cũng biết những ý nghĩ của anh đang ở đâu đâu. Ngay khi tôi vừa ra khỏi xe, đứng trên mặt đất vững chãi, chiếc Jeep vọt đi, không thèm tốn thời gian để gia tăng tốc độ. Ắt hẳn anh đang rất nóng lòng muốn đến nơi anh định đến.
“Khi mẹ đặt ra giờ giới nghiêm cho con, mẹ muốn con tuân thủ nó,” mẹ tôi nói.
“Con muộn có bốn phút thôi mà mẹ,” tôi nói, giọng tôi gợi ý rằng bà có thể đang làm quá lên.
Bà nhìn lại tôi với ánh mắt bất đồng. “Năm ngoái bố con đã bị giết. Vài tháng trước, chính con cũng suýt chết. Mẹ nghĩ mẹ có quyền bảo bọc con.” Bà bước cứng nhắc về phía ngôi nhà, tay khoanh trước ngực.
Được thôi, tôi là một đứa con gái vô tâm, vô tính. Tôi hiểu ý bà rồi.
Tôi quay lại nhìn hàng cây ở lề đường bên kia. Chẳng có gì bất thường. Tôi đợi một cảm giác ớn lạnh ập đến, cảnh báo tôi rằng ở đó có một cái gì đó, một thứ tôi không thể trông thấy, nhưng tôi chẳng cảm thấy gì cả. Một cơn gió mùa hè ấm áp thổi qua, tiếng ve kêu râm ran. Khu rừng trông thật bình yên dưới ánh trăng bàng bạc.
Patch chẳng trông thấy gì trong rừng cả. Anh ngoảnh đi chỉ vì tôi đã nói ra ba từ cực kỳ quan trọng, cực kỳ ngớ ngẩn, chúng đã buột ra khỏi miệng tôi trước cả khi tôi kịp ngăn cản chúng. Tôi đã nghĩ gì vậy? Không. Lúc này Patch đang nghĩ gì nhỉ? Anh lái xe đi vì muốn thoái thác câu trả lời sao? Tôi dám chắc tôi biết câu trả lời. Và tôi dám chắc điều đó giải thích cho lý do vì sao tôi bị bỏ lại và nhìn chằm chằm vào đuôi chiếc xe Jeep của anh như thế này.