- Xin lỗi, có phải bà Fremont không ạ?
Nàng quay lại, thấy mình đối diện với một thanh niên đang tươi cười giơ tay ra. Nàng nghĩ: “Anh chàng này chắc là dễ thương hơn ông bạn đồng hương đồ sộ của hắn”.
- Tôi xin tự giới thiệu tôi là: David Ben Ami, Ari đã trao cho tôi nhiệm vụ đón tiếp bà. Anh ấy sẽ tới đây trong vòng vài phút nữa. Theo lời anh, bà sẽ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trong cuộc “hành quân Gédéon”.
- “Hành quân Gédéon”?
- Đó là tên ngụy hóa của chương trình Ari. Chắc bà còn nhớ Kinh Thánh, sách Phán Xử? Gédéon phải mộ quân tiến lên chống lại quân Madianite. Ông ta chỉ lo chọn lựa ba trăm người thôi. Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi đã chọn trong số đó ba trăm người thôi. Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi đã chọn lựa ba trăm chiến binh trong khốn thay toàn là con nít - để chống lại người Anh.
Đã làm cho mình cứng cỏi sẵn đề phòng một buổi chiều khó khăn, Kitty hơi cảm thấy yếu lòng trước lòng tử tế biểu lộ rõ của chàng trai này. Đêm xuống, một cơn gió mát cất lên làm tung các làn bụi. Nàng mặc áo khoác và nhìn về khối nhà đối diện, nơi hình dáng cao lớn của Ari vừa xuất hiện khỏi các lều.
Hai người chào nhau trong im lặng. Kitty co thắt người lại trong chờ đợi sự va chạm mà nàng đã từng cảm thấy trong lần gặp gỡ ban đầu, ngước nhìn Ari một cách lạnh lùng. Nàng muốn làm cho Ari hiểu là nàng đến đây cốt để chấp nhận sự thách đố, và nhất quyết mình sẽ là người thắng.
Khối 57 chứa hầu hết là những người già và những người Do Thái chính thống. Hai hàng lều đầy ngẹt những người bẩn thỉu và rách rưới. Ben Ami cắt nghĩa tại vì thiếu nước nên không thể có việc rửa ráy gọi là tắm rửa. Ngoài ra thực phẩm cũng thiếu thốn. Những người bị lưu giữ suy yếu đi rõ rệt, vẻ ngơ ngác hay tức giận, họ đều như bị những bóng ma của một quá khứ ghê khiếp theo đuổi hành hạ.
Họ ngừng lại nơi cửa vào của một chiếc lều lớn được dùng làm giáo đường. Bất chợt, Kitty phân biệt được trong bóng tối một nhóm người cao tuổi đang lắc người và đọc kinh bằng tiếng hébreu. Nàng chú ý nhất tới một bậc trưởng lão, dơ bẩn một cách đặc biệt, đang lần đọc bằng một giọng the thé những lời than van.
David Ben Ami nằm lấy tay nàng kéo đi, nói nhỏ:
- Cụ già này cố nói với Thượng đế rằng ông bao giờ cũng sống một cuộc đời đạo hạnh, đã tuân theo các giáo điều, tôn trọng giáo pháp, theo đúng từng lời chỉ dạy giữa muôn ngàn thử thách khó khăn. Ông cầu xin Thượng đế cứu xét cho...
Ben Canaan ngắt lời:
- Những xác người này vẫn chưa hiểu rằng sự cứu rỗi của họ chỉ tới qua một đấng cứu thế bằng thép: một lưỡi lê gắn trên nòng súng.
Tay Ari xiết chặt, tàn bạo lấy cổ tay nàng:
- Cô có biết thế nào là một Sonderkommando không?
David phản đối:
- Đừng, anh Ari...
- Sonderkommando là một người mà tụi quốc xã bắt phải làm việc ở bên trong các lò thiêu xác. Tôi mong sẽ có dịp cho cô thấy một trong những ông già của chúng tôi: Ông đã ở Buchewald và một ngày nọ chính ông đã phải lấy những xương tàn của các con ông từ lò thiêu xác để chở đến xưởng làm phân bón bằng xe bù-ệt. Thưa bà Fremont, bà có cái gì ghê hơn ở trong các nhà thương ngoại ô của bà?
Nàng thoáng buồn nôn. Rồi một cơn giận trỗi dậy làm cho nàng thắng được phút yếu đuối đó. Nàng nói, gây gổ:
- Tôi thấy quả thực ông không chịu lùi trước bất cứ cái gì. Tất cả các phương tiện đều tốt cho ông...
-... Để chứng tỏ cho bà thấy những kẻ này đang tuyệt vọng đến thế nào? Rất đúng!
Đối diện nhau, hai người nhìn thẳng vào mắt nhau khiêu khích. Sau cùng Ari nhún vai nói:
- Bà muốn tới thăm khu nhi đồng hay bà muốn đi về ngay?
- Tôi tới khu đó vì đằng nào tôi cũng tới đây rồi.
Họ tới khu nhi đồng bằng cách vượt cây cầu bắc qua hàng rào kẽm gai. Bệnh viện: Phòng người lao; phòng còi đẹt, đều đầy ngẹt người, khu bệnh tổng quát, nơi những người bệnh da vàng kinh niên lẫn lộn với các kẻ lở chốc không thể chữa nổi.
Một căn nhà dài khác các cửa đóng kín sau đó những thiếu niên ngơ ngác nhìn quanh quẩn không biết mỏi. Họ đi vào giữa hai dãy lều, David chua chát nói nhỏ:
- Khu trường học.
Cả một thế hệ trẻ đã cắp sách đi học trong các ghetto, các trại tập trung cùng những đổ nát hoang tàn. Nhiều đứa bé mồ côi không biết đến cả ý nghĩa của hai chữ “gia đình”. Những chiếc đầu cạo trọc quá nhiều chấy rận, những khuôn mặt in những dấu vết của một nỗi sợ hãi không thể xóa nhòa, những thân thể như chĩu nặng vì những bộ đồ rách rưới. Và khắp mọi nơi chỉ thấy nụ cười khẩy im lìm của một tuổi thơ sống sót nhờ phép nhiệm mầu, nhờ mưu kế và gian xảo.
Ra khỏi khu, Kitty dừng lại nói:
- Tôi nhận thấy các ông có một ban nhân viên y tế hữu hạng, và phòng nhi đồng được tiếp tế đầy đủ.
Ari nói giọng đầy gây gổ:
- Không phải là do người Anh đâu. Họ chẳng cung cấp cái gì cả. Tất cả cái gì chúng tôi có đều do từ đồng bào của chúng tôi.
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là các ông không thiếu gì cả, dù đó là Trời hay Quỷ cho. Tôi tới đây chỉ vì tuân theo lương tâm, lương tâm của một công dân Hoa Kỳ. Bây giờ tôi an lòng rồi. Vậy tôi đã có thể ra về.
David bắt đầu nói:
- Xin bà Fremont hãy nghe...
Ari là:
- Vô ích David, chú phí nước bọt vô ích. Có những người chỉ trông thấy người Do Thái là đã thấy khó chịu rồi. Phiền chú đưa bà Fremont về.
David và Kitty bước đi. Nàng vội vã, lo lắng sớm rời khỏi trại, gặp lại Mark và quên tất cả chuyện đáng thương này. Đột nhiên nàng dừng lại. Trong chiếc lều rộng nàng vừa đi qua, đưa ra một chuỗi cười trẻ thơ, một âm thanh bất thường trong khung cảnh buồn thảm này, tò mò Kitty lắng tai nghe. Bên kia vách lều, một thiếu nữ đang đọc cao giọng. Nàng có giọng rất êm ái và dễ thương. David nói:
- Đó là một cô gái đặc biệt. Nàng đã làm được một công việc phi thường với những đứa bé đáng thương này.
Kitty tiến lên, vén tấm bạt che lối vào lều. Thiếu nữ đang quay lưng lại. Nàng đang ngồi trên một thùng gỗ. Lũ trẻ ngồi bao quanh. Hai mươi cặp mắt sáng nhìn ngắm Kitty và David với một sự tò mò ngay thẳng. Thiếu nữ đứng dậy tươi cười chào hai người.
Đột nhiên Kitty sững người, mắt nhìn không chớp như bị xúc động mạnh, không thốt một tiếng, nàng quay lưng bước ra. Đứng trước lều, nàng do dự như đang chịu một phân vân đau dớn. Sau cùng nàng thì thào.
- Thiếu nữ này... Tôi muốn nói chuyện với em đó... Nhưng một mình thôi...
Ari đã tiến lại chỗ hai người. Chàng nói với David:
- Đưa cô bé đó đến trường. Chúng tôi đợi trong phòng đầu.
Ari đưa Kitty vào căn buồng của một nhà tiền chế, đóng cửa lại và thấp ngọn đèn dầu. Kitty bất động, tái xanh, giữ im lặng. Ari nói thẳng:
- Cô gái này chắc làm bà nhớ tới một người nào.
Nàng vẫn tiếp tục im lặng. Chàng quay đầu lại, nhìn qua cửa sổ thấy David và thiếu nữ đang đi qua sân. Nhún vai, chàng bước ra ngoài.
Cửa lại mở ra. Chậm chạp và rụt rè, thiếu nữ bước vào. Kitty, tâm hồn căng thẳng, dò xét cái khuôn mặt vừa xa lạ vừa quen thuộc một cách kỳ dị ấy, cố chống lại ước muốn ôm cô gái vào trong tay. Nàng nói, ngập ngừng:
- Tôi là Katherine Fremont. Em có biết tiếng Anh không?
- Dạ có, thưa bà.
Nàng dễ thương làm sao? Kitty không chống lại được thêm nữa. Bằng một cử chỉ vụng trộm, nàng vuốt má thiếu nữ rồi lại vội vã bỏ tay xuống.
- Tôi... tôi muốn... tôi vui sướng được quen biết với em. Tên em là gì?
- Karen Hansen Clément.
- Em bao nhiêu tuổi?
- Thưa bà, đúng mười sáu tuổi.
- Hãy gọi tôi là Kitty. Hình như em coi sóc trẻ con trong trại...
- Em chỉ cố làm chúng giải khuây thôi.
- Tôi thấy việc làm đó thật đẹp. Em hiểu chứ, tôi là điều dưỡng, tôi có ý định... Tôi sắp tới làm việc ở đây, trong trại này, khi ấy... Tôi muốn biết chuyện đời của em. Ước muốn đó không làm phiền em chứ?
- Không hề gì đâu, thưa bà... Xin lỗi, thưa cô Kitty. Em gốc từ Đức, nói cho đúng hơn là từ Cologne. Nhưng em đã rời bỏ thành phố ấy từ lâu lắm rồi...