Thần thoại Hi Lạp kể lại rằng: Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn con của loài dây leo, dáng run rẩy của loài có hoa, nét mềm mại của các loài lau cồn, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của những chiếc lá,… để tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ. Thật nghịch lí rằng người phụ nữ lại phải chịu bao bất hạnh đắng cay dù họ là tinh túy của đất trời, vũ trụ. Vì lẽ đó, hình tượng người phụ nữ luôn là ám ảnh tâm hồn của những người nghệ sĩ. Theo dòng chảy của thời gian, ta nhớ mãi những câu ca than thân, bài thơ “Bánh trôi nước” , “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Tú Xương. Qua ba tác phẩm, ta phần nào thấy được những bi kịch, thiệt thòi, bất công và vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
Nhắc đến Hồ Xuân Hương, người ta thường nhắc đến bà Chúa thơ Nôm, nữ sĩ nổi loạn. Nổi bật trong sáng tác của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm với người phụ nữ, là sự đề cao, khẳng định vẻ đẹp của họ. “Bánh trôi nước”, “Tự tình” là hai bài thơ tiêu biểu cho thân phận người phụ nữ trong xã hội thời xưa. Còn nói đến Tú Xương, người ta thường hay nói tới ông Hoàng của thơ Nôm – một trong những đại diện xuất sắc nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Trong sáng tác của ông có hẳn một đề tài về người vợ rất phong phú về thể loại gồm văn, thơ, câu đối. Trong đó, “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất viết về đề tài người phụ nữ. Qua bài thơ, ta phần nào thấy được nỗi nhọc nhằn, vất vả cùng vẻ đẹp tâm hồn bà Tú – hình mẫu lí tưởng, đại diện cho người phụ nữ Việt Nam.
Người phụ nữ Việt Nam đã hiện lên qua nhiều câu thơ với hình ảnh người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh, đắng cay. Đầu tiên, ta phải kể đến đó là “Bánh trôi nước” – bài thơ tiêu biểu cho thân phận “ba chìm bảy nổi” của người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Với những vẻ đẹp như vậy, đáng lẽ ra người phụ nữ phải được sống một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng không, họ phải chịu nhiều những đắng cay, uất ức. Họ không làm chủ được số phận, không tự quyết định được hạnh phúc của mình, thân phận chìm nổi lênh đênh.
Trong xã hội phong kiến, với quan niệm trọng nam khinh nữ, người đàn bà luôn bị nhào nặn, xô đẩy cũng như những câu ca dao than thân xưa kia:
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
Không làm chủ được số phận của mình, duyên phận bẽ bàng, hạnh phúc dở dang, điều này được thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Tự tình” (Hồ Xuân Hương). Tuy xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn nhưng người con gái chịu cảnh lẻ loi, không kẻ đoái hòa, quan tâm:Trơ cái hồng nhan với nước non. Cô đơn, buồn tủi, thi sĩ đã dùng rượu để giải sầu nhưng trớ chêu thay, càng uống lại càng tỉnh trơ ra. Tìm đến rượu, thi sĩ chỉ còn biết tâm sự với trăng – người bạn tri kỉ muôn đời của những tâm hồn cô đơn, sầu tủi. Nhưng rồi thi sĩ cũng chỉ thấy: Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Vầng trăng nhạt nhòa như đồng điệu với tâm hồn của người nữ sĩ. Tuổi xuân đã sắp trôi qua, cuộc đời sắp sửa xế bóng mà tình yêu vẫn dang dở, chưa một lần chọn vẹn. Bi kịch chồng chất, nối tiếp nhau. Dù có vùng vẫy tìm mọi cách thoát khỏi bi kịch nhưng bi kịch vẫn đeo bám cuộc đời nữ sĩ.
Chính vì vậy mà bài thơ Tự Tình cuối cùng vẫn kết lại trong tâm trạng chán trường, ngao ngán:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Không ngao ngán, chán trường sao được khi mùa xuân của đất trời cứ trở đi, trở lại nhưng còn tuổi trẻ tình yêu thì một đi không trở lại. “Mảnh tình” đã nhỏ bẻ mong manh lại san sẻ thành ra ít ỏi. Cuối cùng chỉ còn có một tí con con, có cũng như không. Đó là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi với họ, hạnh phúc là chiếc chăn quá hẹp: Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Người phụ nữ Việt Nam không chỉ chịu nhiều đắng cau, uất ức mà họ cũng phải lam lũ, vất vả, nhọc nhằn để nuôi chồng con. Điều này đã được thể hiện rõ ràng qua lăng kính đầy yêu thương của Tú Xương trong bài thơ "Thương vợ”:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quẵng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò Đông.
Bà Tú hiện lên với hình ảnh người phụ nữ buôn bán nơi đầu sông cuối chợ, chỗ mom sông để kiếm đủ tiền, nuôi đủ “năm con với một chồng”. Buôn bán ở chốn ấy là hàng ngày phải đối mặt với nguy hiểm. Thấu hiểu phần nào nỗi cơ cực, nhọc nhằn của người vợ,
Tú Xương đã đồng điệu thân cò với người bà Tú:
Lặn lội thân cò khi quẵng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò Đông
Bắt nguồn từ cao dao, dân ca nhưng Tú Xương vẫn có sáng tạo rất tinh tế. Ca dao nói theo chiều thuận « thân có lặn lội » Tú Xương lại đảo ngược « lặn lội thân cò ». Ca dao đặt hình ảnh cái cò trong không gian vắng lặng, lộng gió thì Tú Xương để « thân cò » trong không gian, thời gian khi quẵng vắng, mênh mông, heo hút, rợn ngợp. Eo sèo mặt nước buổi đò Đông. Câu thơ gợi lên cảnh buôn bán chen chúc, xô đẩy nhau trên con thuyền mỏng manh, chênh vênh, cheo leo. Vì chồng, vì con, bà Tú bất chấp hiểm nguy, quên đi lời dặn dò ân cần của cha mẹ thuở nào: Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi. Những câu thơ thể hiện phần nào nỗi vất vả, cơ cực, khó khăn, nhọc nhằn của người phụ nữ Việt Nam thời xưa kia.
Tuy chịu nhiều lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, những người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ trong mình vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp. Đó là tấm lòng son sắt, thủy chung, cao khiết: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Thêm vào đó là bản lính mạnh mẽ, cứng cỏi, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh của người con gái:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đấm toạc chân mây đá mấy hòn
Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với những động từ, tính từ mạnh đã làm đặc tả sự phản kháng mãnh liệt, dữ dội đến mức như muốn “nổi loạn” của tâm hồn nữ sĩ. Hai câu luận mang đậm dấu ấn, bản lĩnh Xuân Hương: đó là một cá tính mạnh mẽ, táo bạo, không bao giờ chịu gục ngã trước hoàn cảnh, không bao giờ cúi đầu trước số phận. Hơn nữa, hai câu thơ không làm cho lòng người yếu mềm, bi lụy mà trái lại nó có sức cổ vũ người phụ nữ đứng dậy trong bi kịch của đời mình.
Họ không chỉ thủy chung, son sắt cùng bản lĩnh kiên cường mà còn là người tần tảo, chịu khó, hi sinh vì chồng vì con của mình:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Phép đếm «một …hai…năm…mười» như sự cơ cực, cay đắng chồng chất mà bà Tú phải gánh chịu. Dẫu thế, bà Tú nào có oán trách, kêu ca. Từng trải, hiểu đời, thương chồng, yêu con, trước sau bà Tú vẫn giữ đúng đạo nghĩa vợ chồng. “Âu đành phận”, “dám quản công”, đó không phải là sự cam chịu mà là thái độ bình thản, mãnh liệt, quyết liệt. Dù khó khăn, nhọc nhằn thế nào, bà Tú vẫ tự nguyện hi sinh vì chồng, vì con. Vậy là, bức chân dung của bà Tú – một người hình mẫu lí tưởng cho người phụ nữ Việt Nam đã hoàn thiện trong nét vẽ yêu thương, kính trọng của Tú Xương. Bà Tú tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt : đảm đang, tháo vát, tảo tần, chịu thương, chịu khó, hết lòng yêu thương chồng con. Đến đây, ta bỗng hiểu vì sao không chỉ có ông Tú mà bao thế hệ bạn đọc luôn yêu kính bà Tú.
Tóm lại, “Bánh trôi nước”, “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Tú Xương, mỗi bài thơ một cảnh ngộ, một nối niềm nhưng các tác phẩm đều khiên chúng cảm thương trước thân phận người phụ nữ, thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ. Chính sự gặp gỡ trong cảm xúc nhân văn đẹp đẽ của các nhà văn, nhà thơ đã tạo nên sức lâu bền của tác phẩm trong tâm trí người đọc.