Một buổi sáng đầu tháng 7, điện thoại thuộc hộ công cộng nhà Luận bị tạp âm, Dung toan gọi Bưu điện, thì một người thợ lù lù đến cổng với đủ đồ nghề. Quân cảnh báo và Dung cho vào. Lúc đó Luân sửa soạn đi làm.
Người thợ sửa điện thoại, khi trật chiến nón bảo hộ lao động ra, Luân và Dung mừng rỡ: Sa.
- Em mang chỉ thị của A.07, nhưng chỉ thị miệng, em nói lại... Để cho tiện, anh cứ đi làm... em nói với chị...
Luân nhìn quanh, không có ai, vụt ôm ghì Sa, hai người rơm rớm nước mắt. Dung cũng không kiềm nổi xúc động.
Luân đi rồi, Sa vừa tháo máy vừa nói:
- Chị nghe cho kỹ... Ở ngoài đã biết vụ cháu Lý bị bắt cóc, biết cả điều kiện của John Hing. Các chú khen anh chị đối phó giỏi. Nhưng, thế nào anh chị cũng sẽ gặp hắn...
- Đây là nước cờ mới, quan trọng. Tốt nhất là chị gặp, còn anh thì không. Hắn cần một trong hai người thôi. Mà ta cũng chỉ cần một người đứng ra cam kết là đủ...
- Cam kết? – Dung ngắt lời Sa.
- Em không thể nói rõ hơn, bởi em chỉ học thuộc lòng chỉ thị... Chị nghe tiếp: Hắn đòi hỏi gì cũng suy tính mà trả lời, sao cho có lợi, kể cả nhận nhiệm vụ tình báo của chúng, nhưng không được hạ thấp động cơ, tức là không thể vì tiền mà vì quan điểm, như từ trước tới nay anh chị đã tỏ rõ. Chắc chắn hắn yên tâm hơn với chị mà vẫn còn e ngại anh. Đây là một bẫy rập nguy hiểm, anh chị nên hết sức tỉnh táo. Chúng có một số tài liệu về anh và sẽ khai thác, đó là những những nhận xét của Ngô Đình Nhu, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Y mà chúng lấy được và của chính cơ quan tình báo Mỹ. Ngay việc anh quan hệ tốt với một số nhà báo Mỹ có xu hướng độc lập như Robert Shaplen, Helen Fanfani cũng làm cho chúng lo ngại. Anh Luân bận tâm trước sự can thiệp sâu của Mỹ vào Việt Nam, đó là bận tâm chính đáng. Lãnh đạo cũng bận tâm như vậy. Song, không thể gạt bỏ sự can thiệp sâu của Mỹ, chỉ có thể làm nó diễn ra chậm, khó khăn, nhất là trên một cái nền càng bấp bênh càng tốt. Anh Luân cố gắng quan hệ kín đáo với một số tướng tá có thực quyền đồng thời tự giới thiệu như một nhà chính trị cởi mở, thông minh, biết đưa chủ nghĩa quốc gia đến thắng lợi bằng lối riêng thỏa mãn được mọi xu hướng. Đại Việt sẽ hoạt động mạnh song họ vấp nhiều trở ngại vì quá khứ riêng không lành mạnh, thiếu lực lượng bên dưới, không được các nhóm sĩ quan thích. Trước bọn Mỹ và các phe nhóm, thái độ chính trị của anh và chị không nhất thiết giống nhau. Chị nên lưu ý Mỹ vì khả năng chuyên môn, một cảnh sát chuyên nghiệp... Khi có biến động lớn, lãnh đạo sẽ trực tiếp gặp anh chị. Đó, tất cả những cái lãnh đạo dặn, em đảm bảo không bỏ sót điều nào...
Dung chăm chú nghe. Sa nói đều, tay không ngừng thao tác các mối dây của chiếc máy nói.
- Sau vụ bắt cóc, cháu Lý khỏe không hả chị?
- Cháu bị ốm mất mấy hôm, nay đã bình thường... Anh chị mong thần kinh cháu không bị tổn thương.
- Tụi nó hay làm trò khốn nạn!
- Làm sao các đồng chí biết rõ mọi chi tiết vừa rồi của chúng tôi?
Sa hấp hay mắt:
- Em đoán: ở đâu cũng có người của ta...
Cậu quay thử máy về tổng đài. Máy hoạt động bình thường.
- Em phải đi. Chưa biết lúc nào lại đến. Anh chị không cần gởi báo cáo, không cần hộp thơ, điện đài... Thời kỳ mới, phương pháp làm việc mới. Ngay anh Quyến cũng được chỉ thị không liên lạc với anh chị...
Dung thở dài, Sa ái ngại:
- Chị yên tâm... Và cậu nhắc câu vừa nói: Ở đâu cũng có người của ta.
Sa thu xếp đồ nghề vào túi.
- Bà chú ý đừng để dây bị ẩm... - Cậu ta nói lớn.
Dung trao cho Sa một xấp tiền, cậu nhận:
- Cám ơn bà!
- Đây cũng là bẫy rập nguy hiểm! – Luân lập lại lời dặn dò của lãnh đạo mà suy nghĩ mông lung.
- Em đoán: Tình báo Mỹ khi cần, hé ra cho các thế lực khác biết anh hay em, nhất là anh, quan hệ với họ để mượn tay các thế lực khác thanh toán ta. Quả là một bẫy rập nguy hiểm!
Luân rít dài hơi thuốc. Suy luận của Dung đúng quá.
- Em sẽ gặp John Hing...
Luân gật đầu. Muốn hay không, canh bạc đến hồi đòi tay chơi dấn sâu vào cơn sát phạt, dù phiêu lưu thế nào.
... John Hing tiếp Thùy Dung trong một biệt thự đường Công Lý.
Gian phòng khách thoáng, trưng bày theo lối mới: Salon nệm mousse, tủ rượu và kệ sách nhập từ Pháp. Tất nhiên, Dung biết chắc máy ghi hình và ghi âm đặt rất kín đáo đâu đó, John Hing cần những bằng chứng... Và Thùy Dung, trong chiếc sắc tay, máy ghi âm cực nhỏ cũng sẽ chạy khi cô chạm đến nó.
- Bà có thể dùng một chút rượu không?
- Cám ơn, tôi không dùng được rượu.
- Vậy, bà dùng nước ngọt?
- Cám ơn, ta nên đi vào câu chuyện. Tôi đến không để uống.
John Hing cười:
- Nếu vậy, chúng ta bắt đầu, và là người biết chủ động...
- Các ông bắt cóc con tôi và ra giá cho chúng tôi. Tôi thích sòng phẳng. Con tôi về nhà an toàn. Tôi đến để nghe điều kiện của các ông...
- Đúng, chúng tôi đã bắt cóc con bà... Thế, tại sao bà không dùng sức mạnh của bộ máy cảnh sát để giải thoát mà lại nhận đến gặp chúng tôi, nhất là con bà đã tự do?
- Nhà tôi đã hứa. Nhà tôi nói với ông: Hãy dẹp trò ngu xuẩn và hãy cư xử với nhau như người lớn...
John Hing cười ra vẻ sảng khoái.
- Chỉ vì một lời hứa?
Rồi y lẩm bẩm:
- Trò ngu xuẩn? Chớ vội kết luận...
- Tất nhiên, đó là trò ngu xuẩn và phần tôi, tôi muốn biết các ông định đẩy trò chơi tới đâu?
- Không phải trò chơi! – John Hing làm mặt ngiêm – Chúng ta thảo luận công việc đàng hoàng...
- Tôi đang nghe ông...
John Hing ngắm Dung. Trong một thoáng, y đã tiếc không chấp nhận mưu mẹo của Ly Kai – mưu mẹo hạ cấp thật, song trước mắt y là một thiếu phụ đẹp, quá đẹp...
- Bà đẹp, tôi phải nói điều đó...
Dung mỉm cười:
- Tôi tin là ông mời tôi đến không để nó những câu vô ích!
John trở lại tư thế vốn có của y...
- Một lời khen bình thường, không có gì quá đáng sẽ mở đầu cuộc trao đổi nghiêm chỉnh... Bà có quan hệ với Việt Cộng?
John Hing chờ một thay đổi nhỏ trên nét mặt của Thùy Dung; y thất vọng.
- Tôi muốn hiểu ông hỏi câu đó theo nghĩa nào?
- Ví dụ, bà liên lạc và nhận chỉ thị của họ...
- Tại sao tôi phải nhận chỉ thị của Việt Cộng? Ông John Hing, ông đã mở đầu cuộc trao đổi theo lối đánh bạc mà giới chuyên nghiệp gọi là “thấu cáy”. Tôi mong ông giữ lời hứa: ta nói chuyện nghiêm chỉnh.
- Bà do Cộng sản Bắc Việt phái vào... Tất nhiên, bà giữ liên lạc với họ...
Dung bật dậy, cầm sắc tay:
- Ta coi như chấm dứt ở đây. Tôi lầm vì ngỡ ông hiểu biết ít nhiều về tôi, về chúng tôi... Hóa ra...
John Hing bối rồi:
- Xin lỗi bà... Mời bà ngồi xuống... Bà xem những lời vừa rồi của tôi chỉ là đùa...
- Đùa, chúng ta đùa? Ông John Hing, ông bất lịch sự lắm. Địa bàn hoạt động của ông gần khắp các lục địa. Thế mà... - Dung dằn mạnh từng tiếng.
- Bà hãy ngồi xuống... Thú thật tôi đánh giá bà sai...
Dung ngồi xuống, nhưng cho thấy cô sẵn sàng bước ra khỏi nhà ngay tức khắc nếu John Hing không đi vào cốt lõi buổi gặp mặt.
- Vẫn câu hỏi đó, tôi đặt mục tiêu khác: bà có người trong hàng ngũ Việt Cộng không?
- Một câu hỏi còn mang đôi ý nghĩa. – Dung cười lạt – Tất nhiên, tôi phải nắm phương tiện làm việc. Ông quên tôi là nhân viên giữ trách nhiệm không thấp ở Tổng Nha cảnh sát quốc gia?
- Bà có bằng lòng chia sẻ với tôi hai điều: một là bà giúp tôi kinh nghiệm tổ chức xây dựng mạng lưới trong Việt Cộng; hai là bà sao cho tôi những tin tức từ nguồn của bà...
Dung làm ra vẻ suy nghĩ.
- Tôi không bao giờ keo kiệt... - John Hing hiểu phút do dự của Dung theo hướng khác.
- Đó lại thêm một bằng chứng ông chưa phải là người lớn... Tôi không bao giờ bán các tin mật cho ông...
- Tôi không thiếu tin mật đâu! – John Hing lại cười – Tôi chỉ cần tin mật của bà.
- Ông nên nói chính xác: ông cần tin tức do tôi cung cấp, còn độ mật chỉ là cái cớ...
- Thưa bà, bà quá thông minh... Nhưng, tại sao bà từ chối hợp tác với chúng tôi?
- Có lẽ bây giờ ông mới nói một câu thật. Tôi biết ông là ai... Và, tôi sẽ quyết định hợp tác hay không với các ông, với cơ quan của ông, khi chúng ta sòng phẳng về điều kiện...
- Thế thì, chẳng hạn Việt Cộng có thể mua vũ khí của chúng tôi không?
Dung hơi chới với. Cô chưa dự kiến John Hing đặt vấn đề kiểu đó.
- Tôi nghĩ là Việt Cộng có nguồn vũ khí riêng... - Cô hoãn binh, để nắm rõ ý đồ của đối phương.
- Tôi biết... Francisci là một nguồn...
- Francisci chỉ cung cấp cho các toán Fulro không thể đảm bảo cho một đạo quân...
- Tôi biết Trung Cộng chuyên chở vũ khí của Nga Xô quang cảng Sihanoukville...
- Mọi người đều biết...
- Nhưng, chúng tôi có thể cung cấp nhiều hơn về số lượng, nơi giao hàng cũng tiện...
- Chẳng hôm nay ông biến tôi thành lái súng?
- Bà Thùy Dung, bà quên rằng cuối cùng rồi ai quyết định vận mệnh của Nam Việt...
- Tôi chưa thể hứa... Tuy nhiên, tôi sẽ dọ qua người của tôi...
- Tốt!
- Thế là chúng ta đã bàn xong?
- Tạm thời... Bà nên nhớ những gì bà trao đổi với tôi hôm nay đã được lập biên bản.
- Biên bản bằng máy ghi âm và thu hình... Tôi hiểu!
- Cái cần hiểu hơn cà là chúng ta thỏa thuận và chỉ chúng ta biết các điều thỏa thuận đó... Tôi chờ kết quả của bà. Tôi đảm bảo: chừng nào bà không vi phạm sự thỏa thuận thì không ai đụng đến bà... đến gia đình bà...
- Quyền lực của các ông ghê ghớm đến thế? – Dung hỏi mỉa mai.
- Tôi nghĩ là bà hỏi một câu mà chính bà đã biết rõ. Ngay Tổng thống Kennedy, bà hiểu chứ, vẫn phải phục tùng, theo kiểu của ông ấy, ở Dallas.
Dung vận dụng tài đóng kịch: cô tỏ ra phần nào nao núng qua cái nhìn rụt rè người tiễn cô ra cửa.
- Bà hấp dẫn hơn bà Saroyan!
John Hing chìa tay nhưng Dung không bắt, cô lên xe chẳng đáp lại cái vẫy chào của John Hing. Cô mở công tắc, toan ấn ga thì John Hing đã thò đầu vào xe. Dung nghĩ liền phải đánh vỡ mặt tên này...
- Bà đừng nóng. – John Hing đoán được ý nghĩ của Dung. - Tôi quên không nhắn ông: Đại tá nên hành động theo lời khuyên của bà thôi!
- Và, ông sẽ cung cấp cho tôi lời khuyên đó! - Dung cho xe nổ.
- Bà cực kỳ thông minh... Đúng vậy. Chúng tôi cần đại tá!
John Hing vừa kịp rút đầu ra khỏi xe, chiếc xe của Dung vọt ra khỏi cổng...
°
Lần đầu tiên, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mac Namara tuyên bố công khai trước báo chí là Mỹ rất có thể mở rộng “một kiểu chiến tranh thích hợp” ra Bắc Việt. Trả lời các câu hỏi trong cuộc họp báo ngày 11-7-1964 sau chuyến thị sát Nam Việt trở về, Mac Namara giải thích rằng “nguyên nhân gây nên tình trạng bất ổn ở Nam Việt là do sự thâm nhập của Bắc Việt”. Một nhà báo vặn lại: tình trạng bất ổn ở Nam Việt bắt đầu từ vụ Phật giáo dẫn đến cái chết của Ngô Đình Diệm, rồi cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh, cách đánh giá nguyên nhân tình hình Nam Việt của Bộ trưởng thiếu thuyết phục. Mac Namara nổi cáu: Các nhà báo Mỹ có thiên hướng nghi ngờ chính phủ, nếu Bắc Việt không thâm nhập thì sao trong một thời gian ngắn quân Việt Cộng lên đến hàng vạn; không ngăn ngừa trước nguy cơ này thì không bao giờ Nam Việt ổn định... Một nhà báo khác bác bỏ lập trường của Bộ trưởng: sẽ càng thêm nhiều Việt Cộng hơn nếu Mỹ dính líu sâu vào Nam Việt là nơi mà tinh thần quốc gia phát triển mạnh; bài toán đặt ở khía cạnh khác – khía cạnh Nam Việt có một chính phủ được lòng dân. Đến đây, bộ trưởng quốc phòng Mỹ gần như điên tiết: tôi rất lạ là Bắc Việt Cộng sản thâm nhập cả vào hàng ngũ ký giả trên nước Mỹ! Người ta cười ồ, bộ trưởng đỏ mặt có thể vì câu nói hớ của mình cũng có thể vì quan cảnh họp báo không mấy thuận lợi đối với bước ngoặc của chính sách Mỹ ở Nam Việt àm ông ta có nhiệm vụ sửa soạn dư luận. Một nhà báo khác đặt câu hỏi: Mở rộng chiến tranh ra Bắc Việt nghĩa là như thế nào? Mac Namara lảng tránh: Tôi sẽ thông báo khi tình hình cho phép; mọi cái do Tổng thống quyết định. Một nhà báo khác nữa hỏi: Theo hiến pháp, những hành động như tuyên chiến với một quốc gia, Tổng thống phải trình cho Quốc hội, hiện nay, Quốc hội đang nghỉ hè, liệu Tổng thống Johnson dám tự mình quyết định không? Mac Namara trả lời: Tôi không phải là Tổng thống nên không thể nói gì hơn...
Một tuần lễ sau cuộc họp báo của Mac Namara, tại Sài Gòn lại nổ ra các cuộc biểu tình nhân ngày gọi là “quốc hận” 26-7 ký hiệp định Genève năm 1954 đình chỉ chiến sự ở Đông Dương. Khẩu hiệu: chống Cộng, chống Pháp.
Vài nhóm sinh viên dùng sơn bôi lên tượng đài “Tướng sĩ trận vong” do Pháp dựng trước đây, vài nhóm khác đập phá bên ngoài đại sứ quán Pháp, đốt vài cái xe. Chính quyền Quảng Trị tổ chức một cuộc biểu tình ở bờ sống Bến Hải...
Thế nhưng, cái đập mạnh dư luận là “Đêm không ngủ” do sinh viên, học sinh tổ chức tại trường đại học Văn Khoa. Ở đây, hai xu hướng đụng nhau, một là phe lớn tiếng đổ tội chia cắt đất nước cho Cộng sản và Pháp, một phe khác, đông hơn cướp diễn đàn, kết án “Mỹ và tay sai” mưu toan gây chiến tranh, mưu toan biến Nam Việt thành một bang của Mỹ. Tổng hội sinh viên ra tuyên bố không chịu trách nhiệm về các cuộc bạo động bài Pháp của một thiểu số ăn tiền của bọn phản động.
Cuộc dàn dựng của Nguyễn Khánh không thành công. Bởi vậy, khi Tổng thống Mỹ loan báo số quân Mỹ ở Nam Việt từ 16.000 lên 21.000, bố trí hệ thống cố vấn Mỹ đến cấp tiểu đoàn trong lực lượng Nam Việt thì sinh viên một số trường đại học Sài Gòn đột ngột mở hội thảo, công khai phản đối chính sách mới của Mỹ và phê phán gay gắt Nguyễn Khánh – nhiều diễn giả coi Nguyễn Khánh như Gia Long “cõng rắn cắn gà nhà”.
Phản ứng dây chuyền lan tận Duy Xuyên – một huyện của Quảng Nam, nơi năm 1955 xảy ra cuộc thảm sát những người kháng chiến do đảng Đại Việt nhân danh chế độ Ngô Đình Diệm thực hiện. Tại đây, chính quyền Quảng Nam đã phải giải tán một cuộc biểu tình lớn chống Nguyễn Khánh và bắt giam gần 2.000 người. Cả Phật giáo lẫn đảng Đại Việt đều lên tiếng phản đối.
°
St. MADDOX VÀ TURER JOY: CỬA ĐỘT PHÁ ĐI VÀO CHỐN VÔ TẬN.
Hélen Fanfani (Financial Affairs)
Sài Gòn, 9-8-1964
Tôi choàng thức dậy khi cả phố, vào giờ tấp nập nhất – 7 giờ sáng, vang lên tiếng còi báo động. Trong vòng một tuần lễ nay, người ta cố gắng cưỡng bức thành phố - bây giờ nhiều tiệm buôn, cắt tóc, may, giặt ủi, tiệm ăn và nhất là quán rượu kết hợp với khiêu vũ mang nhãn hiệu Mỹ - phải tự xem như sống trong thời chiến khi mà quân số Mỹ tăng thêm. Giới ngoại giao cùng nhất trí: thình thoảng, một quả mìn nổ tung một rạp hát, một quán rượu đông đặc lính Mỹ, ví dụ ngày 1-8 vừa rồi, tại nơi tụ tập các sĩ quan Mỹ đường Nguyễn Minh Chiếu: tuy nhiên hình thái chiến tranh lạ lùng ấy không chỉ mới mẻ, nó xuất hiện từ lâu và gây tổn thất nặng nề, so với những vụ đang xảy ra. Lịnh giới nghiêm do tướng Nguyễn Khánh ban hành ngày hôm qua – cấm mọi đi lại từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng – hoàn toàn không phải vì tình thế gay gắt thật sự. Trước đây hai hôm, tướng Nguyễn Khánh ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn trương khắp lãnh thổ Nam Việt, trong đó ông tái lập chế độ kiểm duyệt báo chí và cấm các cuộc hội họp dân chúng, trừ lý do tôn giáo.
Đòn chiến tranh cân não của tướng Nguyễn Khánh là bản phối âm với sự kiện được gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ”. Ngày 2-8, tuần dương hạm Maddox của Hải quân Hoa Kỳ, theo thông báo của bộ tư lệnh Mỹ, đang tuần tra thường lệ trên hải phận quốc tế thuộc vùng vịnh Bắc Bộ thì bị ba tiểu đỉnh Cộng sản Bắc Việt truy đuổi, bắn đại liên và phóng ngư lôi. Maddox bị một số thiệt hại. Phi cơ Mỹ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga can thiệp. Ngày hôm sau, cũng chính chiếc Maddox “bị một số thiệt hại” này cùng với chiến hạm Turner Joy lại bị các tiểu đỉnh Bắc Việt tấn công. Ngày 5-8 các tiểu đỉnh Bắc Việt đánh tiếp tàu chiến Mỹ. Tổng thống Johnson xuất hiện trên vô tuyến truyền hình – vị thầy cải chuyên nghiệp này đã thuyết phục dân chúng Mỹ rằng an ninh Mỹ bị đe dọa nghiêm trọng và sau đó, ông thuyết phục luôn Quốc hội Mỹ cho phép ông áp dụng mọi biện pháp cần thiết, kể cả vũ lực, để đối phó ở Đông Nam Á.
Hàng đàn máy bay chiến F.102 như chực sẵn lao xuống môt loạt địa điểm ven biển Bắc Việt: Gòn Gai, Tuần Châu, Hòn Mê, Hải Phòng, Kiến An, thậm chí Vinh... Có ngày, Mỹ sử dụng đến 64 phi xuất... Lời báo trước của bộ trưởng Mac Namara đi vào giai đoạn thực hiện. Sài Gòn đào công sự, hầm trú ẩn, nhưng những lao công chiến trường vừa xẻng đất vừa đùa. Cơ quan truyền thông đại chúng do chính phủ kiểm soát muốn dùng các hình ảnh “khẩn trương” để cân bằng với tiếng bom ầm ĩ phía bắc vĩ tuyến 17.
Mọi thủ đoạn trơ tráo đều tung ra và không một ai, nguyên thủ quốc gia Mỹ hay Việt Nam như chưa hề biết hổ thẹn là gì. Vài chiếc phóng ngư lôi của Bắc Việt lại có thể uy hiếp cả hạm đội số 7 của Mỹ, sự tưởng tượng dù bay bổng tới đâu cũng khó mà đạt tới. Nhất là, người ta chỉ chờ một phát súng lục bắn vào tuần dương hạm Maddox để phân bua: Nước Mỹ phải tự vệ. Kế hoạch phản ứng soạn trước – giới ngoại giao ở Sài Gòn gọi kế hoạch bằng cái tên thực chất: Mỹ leo thang chiến tranh. Không có vụ Maddox thì sẽ có vụ khác. Chẳng khó khăn gì gây môt khêu khích - cứ cho tàu chiến xâm nhập hải phận quốc gia có chủ quyền và khi quốc gia kia phản ứng, Mỹ hí hửng bắt được cái cớ. Chuyện của nhiều thế kỷ trước và Tổng thống Johnson sao chép gần như nguyên văn.
Thế là chiến tranh vượt khỏi lằn giới tuyến được hiệp định Genève công nhận.
Tướng Nguyễn Khanh có lý do phấn khởi: địa vị của ông có vẻ vững vàng hơn trước, Mỹ cần người như ông. Tuy vậy, báo chí địa phương giới thiệu một nhân vật khác. Trong bộ quần áo phi công chiến đấu, tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng cạnh một máy bay ném bom và khoe: ông ta vừa hoàn thành một phi vụ ném bom xuống Vinh kết hợp với không lực Mỹ. Nguyễn Khánh không chỉ đối phó với tướng Kỳ. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh quân khu I, tuyên bố đã sẵn sàng vượt sống Bến Hải.
Tổng thống Johnson chắc chắn toại nguyện. Ông thề dìm cả nước Việt Nam trong biển lửa, sự kiện Bắc Bộ mở màn theo ý ông. Ông chọc một lỗ thủng lớn để nước Mỹ tuông của cải và sinh mệnh. Maddox và Turner Joy quá nhỏ bé nhưng sẽ được nhắc lâu dài, bởi vì từ hai chiến hạm vô danh này, nước Mỹ lọt vào một không gian và thời gian đối thoại bằng vũ khí có thể nói là vô tận.
°
Thông cáo ngày 11-8 của Hội đồng quân đội cách mạng:
Xét công lao và tài năng nay thăng trung tướng Trần Thiện Khiêm lên quân hàm đại tướng.
Xét công lao và tài năng nay phong các đại tá có tên sau đây quân hàm chuẩn tướng: Nguyễn Đức Thắng, Vĩnh Lộc, Nguyễn Xuân Trang, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Văn Kiểm, Nguyễn Cao Kỳ.
Chủ tịch Hội đồng
Nguyễn Khánh.
°
Thông cáo của Hội đồng quân nhân cách mạng:
Ngày 16-8, Hội đồng quân nhân cách mạng đã họp toàn thể ở Vũng Tàu quyết định ban hành Hiến chương mới thay cho Hiến ước lâm thời số 2 ký ngày 7-2-1964. Do tình hình đất nước bước vào giai đoạn quyết liệt, Hội đồng quân đội cách mạng thấy rằng cần phải tập trung quyền lực vào những người đủ tài đức, ngỏ hầu tránh nạn phân tán làm suy yếu công cuộc kháng Cộng. Chủ tịch Hội đồng quân đội cách mạng phải kiêm luôn chức Quốc trưởng. Hội đồng nhất trí bầu Trung tướng Nguyễn Khánh đảm nhiệm cả hai chức vụ trên. Chủ tịch và Quốc trưởng Nguyễn Khánh được Hội đồng giao các quyền đặc biệt trong tình hình hiện nay: chọn lựa quốc hội gồm 100 nhân viên dân sự và 50 nhân viên quân sự, ban bố và thu hồi các sắc lệnh về tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, quyết định thành phần nội các, đề bạt và hạ cấp quân nhân từ cấp tướng trở xuống bất kỳ thuộc binh chủng nào.
°
Thông cáo của Bộ Thông tin:
Sau khi Hiến chương Vũng Tàu công bố, nhiều địa phương và đoàn thể gởi điện văn và kiến nghị: Nhiệt liệt hoan nghinh hiến chương ban bố đúng lúc, kính dâng trung tướng chủ tịch lời chúc mừng nồng nhiệt, nguyện đồng tâm nhất trí đoàn kết sau lưng Trung tướng, vị lãnh tụ tài ba của Việt Nam Cộng hòa.
Quốc trưởng Phi Luật Tân, Đại Hàn, Trung Hoa Dân quốc, gởi điện chúc mừng Trung tướng Nguyễn Khánh.
°
Điện mật:
Nơi nhận: Đại sứ M. Taylor – Sài Gòn.
Dư luận Mỹ không thuận lợi lắm về bản hiến chương mới ở Việt Nam và về vai trò của tướng Khánh. Tổng thống nhận được nhiều điện hoài nghi của các đồng minh. Cũng có một số nhân vật Sài Gòn gởi điện phản đối. Báo chí Mỹ sẽ lên tiếng, chắc chắn dấy lên làn sóng bất bình.
18.8.1964
Rusk.
°
Điện mật:
Nơi nhận: Ngoại trưởng D. Rusk – Washington.
Chúng tôi chưa hoàn toàn kiểm soát “vụ Vũng Tàu”. Sẽ báo cáo sau.
18.8.1964
M. Taylor.
°
Phó tổng thanh tra quân lực Việt Nam Cộng hòa, đại tá Nguyễn Thành Luân đến Cần Thơ, như lịch làm việc của cơ quan Tổng thanh tra thông báo với các cùng. Nhiệm vụ của Tổng và Phó tổng thanh tra đơn thuần chuyên môn: xem xét năng lực chiến đấu của quân đoàn và các đơn vị, ghi nhận kiến nghị của các Tư lệnh địa phưong và đơn vị về trang bị, về hậu cần...
Tướng Dương Văn Đức tiếp đại tá Luân. Lẽ ra, một sĩ quan phụ tá tư lệnh đã có đủ tư cách làm việc, nhưng chính tướng Đức muốn thông báo về mọi mặt của vùng IV mà ông hay phàn nàn là “đứa con út, ít được Bộ quốc phòng và Tổng tham mưu chiếu cố”.
Buổi họp chính thức không dài – chừng hai tiếng đồng hồ. Luân phải nghe cả một bảng cáo trạng của tướng Đức với lời lẽ mạnh mẽ về đủ loại khó khăn: thiếu quân số để đóng đồn hoặc hành quân, thiếu phương tiện vận tải, thiếu pháo và xe lội nước để có thể thọc sâu vào vùng đầm lầy, nhiều sông rạch, thiếu hải thuyền để đảm bảo an ninh từ Phú Quốc đến Nam Du, thiếu vật liệu xây dựng tuyến phòng ngự ngăn lính Cambốt dọc kinh Vĩnh Tế...
Sau buổi họp chính thức tướng Tư lệnh vùng mời cơm đại tá – cũng khá đông sĩ quan dự. Tiệc đến 8 giờ tối. Bởi nói chung đó cũng là nhà riêng của tướng Đức, cho nên tiệc tan, đại tá Luân ở lại “cụng tay đôi” với tướng Đức và anh sẽ nghỉ tại đây. Bàn ăn chỉ còn hai người – họ chuyển chỗ ra góc sân vắng vẻ – tướng Đức mới thật sự bộc lộ điều ông ấm ức.
- Thằng Khánh muốn làm tên độc tài. Hiến chương Vũng Tàu chính là “chiếu lên ngôi” của nó. Thằng đểu cáng hết chổ nói. Nó thị tất cả sĩ quan là con nít. Tôi quyết ăn thua đủ với nó...
- Ăn thua bằng cách nào? – Luân hỏi.
- Anh quên tôi là Tư lệnh vùng sao?
- Nhưng, như anh báo trong cuộc họp, quân của anh yếu...
- Đó là yếu với Việt Cộng chớ đâu có yếu với thằng Khánh.
Luân mân mê ly rượu, không hỏi thêm. Tướng Đức nóng tính, định làm gì thì không ai ngăn nổi. Chắc chắn ông ta sẽ động binh thôi. Song, liệu ông ta làm nên được cái gì không?
- Tại sao anh im lặng? Giữa tụi mình, giữ kẽ làm chi... - Đức hơi bực dọc.
- Tôi đâu có giữ kẽ. Tôi đang suy nghĩ... - Luân trả lời điềm đạm.
- Tôi liên kết được nhiều tay lắm... - Đức kề miệng vào tai Luân nói nhỏ.
- Các sĩ quan thuộc quyền anh biết ý định của anh không?
- Biết chung chung...
Luân thở dài, nghĩ bụng: Ông tướng ăn nói bạt mạng này chắc đã phun ráo kế hoạch với các sĩ quan chung quanh...
- Anh tin đi! Tụi nó một bụng với tôi...
- Anh đã hỏi một người bạn Mỹ nào chưa?
- Tại sao phải hỏi Mỹ?
- Trong hoàn cảnh của anh, muốn thành công, phải hỏi hai người: Mỹ và Việt Cộng.
- Mỹ thì tôi chưa hỏi. Còn Việt Cộng thì tôi hỏi rồi!
- Anh hỏi ai?
Tướng Đức trỏ vào ngực Luân:
- Hỏi anh! – Và ông cười ha hả.
- Ta bàn đại sự, anh đừng đùa... Tôi khuyên anh hỏi môt người Mỹ nào đó có vị trí mà anh tin...
- Tay cố vấn quân đoàn chắc chắn không phản đối tôi. Hắn đảm bảo tôi sẽ được ủng hộ.
- Ai ủng hộ?
- Tướng Westmoreland...
- Tôi chưa tin. Song, anh vẫn không thiếu cơ may nếu...
Luân bỏ lửng câu nói, nhấm nháp ly rượu.
- Nêu anh bắt được tướng Khánh và quả quyết hành động, không giống tướng Vĩ với đám Ngự lâm quân năm xưa...
- Ối! Thằng Vĩ là lính cậu. Tôi “phơ” ráo bọn sớm đầu tối đánh. – Giọng tướng Đức dứt khoát.
- Nhưng, còn một vấn đề nữa, quan trọng không kém: anh sẽ bố cáo với quốc dân về chính sách đối nội đối ngoại như thế nào?
Tướng Đức lắc lư cái đầu:
- Chuyện đó tôi chắc phải nhờ anh.
- Điều tối cần là một mặt kiên quyết với Nguyễn Khánh, một mặt khôn khéo với Mỹ. Phải làm cho người Mỹ thấy anh có thể chiến thắng được Việt Cộng mà không cần phải thêm quân Mỹ...
- Chà! Rắc rối quá... Tôi ghét thằng Khánh, quất cho nó hết phách láo. Cái thứ chính trị lôi thôi, nếu anh không giúp thì tôi cũng phải nhờ người khác giúp...
- Anh sẵn sàng chưa?
- Chưa thật sẵn sàng, phải chờ thêm một ít nữa...
- Chúc anh thành công! – Luân cụng ly với tướng Đức.
- Anh cụng ly với tôi không thấy phấn khởi lắm?
- Biết nói thế nào với anh đây... Mỗi người chọn con đường hành động riêng cho mình. Bao giờ cũng phải đặt ra nhiều giả thiết, nhiều tình huống với nhiều phương án thích hợp. Và chọn đúng thời cơ. Nguyễn Khánh ban bố Hiến chương Vũng Tàu là thời cơ. Thời cơ đó sẽ qua...
- Nhưng tôi phải bàn với tụi kia...
- Rất tiếc! Và, anh biết là tôi không có quân trong tay... - Luân nói gần như tâm sự với bạn bè.
- Tôi biết quá, đời nào tụi nó dám giao quân cho anh... Không sao. Anh chưa đến nỗi thất nghiệp đâu...
Hôm sau, Luân rời Cần Thơ. Anh buồn buồn:
- Tướng Đức chắc nổ ra được một cú giật gân, song không thể tạo bước chuyển biến. Ông ta không có hậu thuẫn chính trị và bản thân cũng không có đường lối chính trị... Và, quan trọng hơn hết, ông ta bỏ lỡ thời cơ.
Mấy ngày sau, tình hình chứng minh ý kiến của Luân là đúng đắn.