Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box)

Chương 10: “MƯỜI HAI CHẤT DƠ DÁY”

“Khi thấy những vòm cổng vàng, có lẽ bạn đang trên đường đếnnhững cánh cửa ngọc của thiên đường.”

 

– Bác sĩ William Castelli

Mấy chương trước đã đề cập đến những loại thảo mộc, thực phẩm, và thực phẩm bổ sung bạn nên sử dụng. Giờ là những mục bạn cần tránh. Tôi đặt tiêu đề cho chương này là “Mười hai chất dơ dáy” vì nó mô tả chi tiết 12 loại thực phẩm/độc tố có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng nếu tiêu thụ hoặc ăn thường xuyên. Trên thực tế, một vài trong số chúng có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng kể cả nếu chỉ thỉnh thoảng hấp thụ/ăn.

Có thể loại bỏ hoàn toàn các chất này được không? Chắc là không, nhưng ít nhất bạn sẽ biết những chất nào là tồi tệ nhất, bởi thực phẩm và độc tố là những thành phần liên quan mật thiết tới ung thư. Thực tế, một báo cáo của trường Y tế Cộng đồng đại học Columbia đã ước tính 95% các loại ung thư là do chế độ ăn uống và môi trường độc hại. Tạp chí Pharmaceutical Research (Nghiên cứu Dược) năm 2008 đã tổng kết rằng tốc độ gia tăng ung thư phụ thuộc 90-95% vào cuộc chiến hằng ngày giữa chất gây ung thư trong môi trường và các tác nhân chống ung thư tự nhiên – những yếu tố làm giảm bớt ảnh hưởng của chất gây ung thư trong cơ thể của bạn.

Dưới đây là một vài số liệu thống kê đáng chú ý:

 

·         Có hơn 80.000 hóa chất được sản xuất ở Bắc Mỹ.

·         Hơn 3.000 hóa chất được cho vào thực phẩm của chúng ta.

·         Hơn 10.000 dung môi hóa học, chất nhũ hoá và chất bảo quản được sử dụng trong chế biến thực phẩm.

·         Hơn 1.000 hóa chất mới được đưa ra mỗi năm.

Chương này thực sự là một dạng “buffet” các loại thực phẩm và các chất độc cần tránh thật xa nếu bạn bị ung thư! Phần đầu mang tên “Thực phẩm Franken” và phần cuối mang tên “Độc tố kinh hoàng”.

Thực phẩm Franken

Phần này được mang tên “Thực phẩm Franken” bởi vì nếu bạn để ý, tất cả các loại thực phẩm được nói tới đều đã bị thay đổi trạng thái tự nhiên hoặc chứa những thành phần đã bị thay đổi. Các thành phần của năm loại thực phẩm trong phần này không chỉ chứa rất ít giá trị dinh dưỡng, mà còn đưa vào cơ thể bạn một lượng rất lớn các độc tố gây ung thư. Thực tế này sẽ khiến chúng ta thấy chúng thực sự “khó nuốt”.

1. “Chất béo giả”

(Chất béo chuyển hóa & Dầu hydro hóa)

“Chất béo chuyển hóa” được sản xuất bằng cách cho thêm hydro vào dầu thực vật để tạo ra chất béo dạng rắn, vì thế còn được gọi là dầu “hydro hóa” hoặc “hydro hóa một phần”. Chất béo chuyển hóa có trong thực phẩm chiên rán, bơ thực vật, đồ nướng, bim bim, bánh quy, và bánh rán. Ngay cả bánh xốp nướng “lành mạnh” ít béo và các sản phẩm ngũ cốc ăn liền cũng có thể chứa chất béo chuyển hóa. Rắc rối là, ngay cả với số lượng nhỏ, chất béo chuyển hóa cũng không tốt cho chúng ta. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chúng liên quan đến việc làm trầm trọng thêm bệnh tim, mức cholesterol, và cả ung thư nữa.

Theo bác sĩ Brian Olshansky, giáo sư tại đại học Iowa: “Vấn đề của các axit béo chuyển hóa là cơ thể bạn không biết phải làm gì với chúng. Axit béo chuyển hóa có thể giúp bảo quản thực phẩm để giữ vị ngon, nhưng cơ thể bạn không thể phá vỡ và sử dụng chúng một cách đúng đắn. Chất béo bình thường rất mềm và dễ tác động, nhưng các axit béo chuyển hóa lại là loại chất béo cứng đầu có thể tích tụ trong cơ thể và gây ra rối loạn. Công thức hóa học của axit béo chuyển hóa liên quan đến việc đưa các nguyên tử hydro vào vị trí sai khác. Giống như chế tạo nhựa.”

Để sản xuất hàng loạt và phân phối các loại thực phẩm dùng nhiều dầu, các nhà sản xuất thực phẩm cố tình làm thay đổi thành phần hóa học của dầu, nhằm mang lại “thời hạn sử dụng” dài hơn. Một vấn đề khác đối với nhiều thực phẩm chế biến là chúng không chỉ được chiếu xạ, mà còn được làm ra từ thực phẩm biến đổi gen. Xét đến bim bim ngô, chúng ta biết sản phẩm này chắc chắn được làm từ ngô biến đổi gen, sau đó được chế biến bằng chất béo chuyển hóa, rồi tiếp nữa là chiếu xạ. Sau tất cả các bước này, món ăn được đóng gói trong túi bên ngoài ghi: “Hoàn toàn Tự nhiên” (All Natural). Xin đừng bị lừa… chẳng có gì là “tự nhiên” trong bim bim ngô.

Trong những năm 1950, bác sĩ Johanna Budwig đã chứng minh rằng những chất béo hydro hóa bị thay đổi hóa tính này (mà bà gọi là chất béo “giả tạo”) tiêu diệt màng tế bào. Bà đã chứng minh rằng các loại chất béo và dầu ăn được hydro hóa này làm ngưng điện trường của tế bào và làm chúng ta dễ mắc các bệnh giai đoạn cuối và mãn tính.

Trong chất béo lành mạnh có mây điện tử quan trọng cho phép các chất béo liên kết với ô-xy. Chất béo ô-xy hóa lành mạnh có khả năng liên kết với protein và nhờ quá trình đó, chúng trở nên tan được trong nước. Tính chất tan trong nước này rất quan trọng cho tất cả các quá trình tăng trưởng, phục hồi tế bào tổn thương, tái tạo tế bào, hoạt động của não và hệ thần kinh, chức năng thần kinh cảm giác, và tăng cường năng lượng. Trên thực tế, toàn bộ quá trình sản xuất năng lượng của chúng ta dựa trên chuyển hóa lipid. Hydro hóa phá hủy đám mây điện tử quan trọng, và kết quả là những chất béo “giả tạo” không còn liên kết với ô-xy hoặc với protein được nữa. Những chất béo này ngăn chặn tuần hoàn, gây tổn hại cho tim, ức chế tái tạo tế bào, và cản trở dòng chảy tự do của máu và bạch huyết.

Ba trong số các loại thực phẩm phổ biến nhất có chứa chất béo chuyển hóa là các loại bánh rán, khoai tây chiên. Bánh rán chẳng khác gì những cục toàn đường, chất béo chuyển hóa và bột mì. Chúng không có giá trị dinh dưỡng. Hầu hết khoai tây chiên đều ngập trong chất béo chuyển hóa đến độ gần như không còn lại chất dinh dưỡng nữa. Một vài công ty cố gắng làm cho chúng “lành mạnh” hơn bằng cách loại bỏ các chất béo chuyển hóa, nhưng tất cả bánh rán, khoai tây chiên đều được nấu chín trong dầu ăn chứa acrylamide gây ung thư.

Hóa chất acrylamide được sử dụng trong công nghiệp để sản xuất một số loại nhựa và cũng được hình thành khi gia nhiệt tinh bột. Và hãy đoán xem… ba loại thực phẩm có tỉ lệ acrylamide đặc biệt cao là bánh rán, khoai tây chiên miếng và khoai chiên lát. Theo EPA (Cục bảo vệ môi trường Mỹ), chỉ được phép có 0,12 microgam acrylamide trong nước uống cho mỗi khẩu phần. Đáng báo động là 6 ounce (170 gam) suất khoai tây chiên tại tiệm ăn nhanh chứa đâu đó khoảng 50-70 microgam acrylamide. Tức là từ 400 đến 600 lần giới hạn của EPA! Tôi nghe nhiều bác sĩ nói rằng khoai tây chiên tệ cho sức khỏe của bạn hơn cả thuốc lá. Và tôi đồng ý.

Với thực tế chúng đã được chứng minh là gây ra rất nhiều vấn đề về sức khỏe, tại sao các nhà sản xuất thực phẩm vẫn tiếp tục sử dụng các chất béo chuyển hóa? Câu trả lời dễ hiểu và đơn giản: tiền. Các chất béo chuyển hóa kéo dài đáng kể thời hạn sử dụng của các loại thực phẩm chế biến.

2. Đường, Xi-rô và Nước ngọt có ga

Tôi quyết định gộp ba món này lại vì chúng thường “đi cùng nhau” trong xã hội “nuốt chửng” của chúng ta, bất chấp những gì bạn nghe được từ ngành công nghiệp đường và những nỗ lực của họ để ngăn cản sự phát tán các thông tin kết nối chính xác đường tinh chế với bệnh mạn tính. Đường, xi-rô đường ngô nhiều fructose (high-fructose corn syrup – HFCS) và nước ngọt có ga đều phải nằm trong danh mục “cấm kị” nếu bạn muốn có sức khỏe tối ưu.

Hãy nhớ rằng, các tế bào ung thư phát triển nhờ hô hấp kỵ khí. Nói cách khác, chúng lên men đường. Nếu bạn từng làm rượu vang, bạn sẽ biết quá trình lên men đòi hỏi có đường. Có rất nhiều liệu pháp dinh dưỡng cho bệnh nhân ung thư, nhưng không có một liệu pháp nào cho phép thực phẩm giàu carbohydrate hay cho phép đường, bởi vì đường nuôi dưỡng tế bào ung thư.

Tôi đã chứng kiến HFCS đột chiếm các kệ thực phẩm của chúng ta. Nó có mặt trong hầu hết mọi thứ chúng ta ăn ngày nay, bao gồm bánh mì, bánh kẹo, nước ngọt có ga, bột yến mạch, nước xốt thịt nướng, nước xốt cà chua, mứt, sữa chua, sô-cô-la sữa, bánh nhân mứt, ngũ cốc, và vân vân. Nhưng HFCS có phải là một sự thay thế tốt cho đường không? Nói ngắn gọn là “Không.” Một vài tháng trước, tôi nhớ đã nhìn thấy quảng cáo về HFCS, thông điệp chính trong đó là HFCS được làm từ ngô, không có thành phần nhân tạo, có cùng lượng calo như đường, và ăn được. Quảng cáo đó thật lố bịch vì xuyên tạc toàn bộ sự thật và hoàn toàn thiếu sự tôn trọng chỉ số IQ của người đọc.

Sự thật là HFCS không thực sự tồn tại ở bất cứ đâu trong tự nhiên. Nó là sản phẩm được làm ra bằng cách sử dụng các enzyme (hai tự nhiên, một tổng hợp) để tăng hàm lượng đường fructose của xi-rô ngô đến khoảng 90%. Siêu HFCS này sau đó được pha “loãng” với xi-rô ngô glucose 100% để thêm vào thực phẩm của chúng ta. Khi nuốt HFCS vào, nó đi thẳng vào gan, bộ phận biến chất lỏng chứa đường thành chất béo. Theo Bộ nông nghiệp Mỹ, HFCS làm suy giảm crôm của cơ thể, một chất quan trọng trong việc vận chuyển glucose từ máu vào tế bào. Sự suy giảm này kết hợp với việc tuyến tụy quá tải thường xuyên sẽ dẫn đến bệnh tiểu đường.

Có phải HFCS được làm từ ngô không? Đúng, hoàn toàn đúng là HFCS được làm từ ngô, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Dầu diesel sinh học cũng được làm từ ngô, nhưng bạn không muốn ăn dầu diesel sinh học! Điểm mấu chốt là khởi đầu từ một chất tự nhiên an toàn không đương nhiên tạo ra các sản phẩm phái sinh an toàn. Hãy ngẫm nghĩ về điều này một chút. Nông dân cho bò ăn gì khi họ muốn vỗ béo chúng để bán? Đó là ngô, tất nhiên rồi! Vậy, nếu bạn muốn trông giống như một con bò, điều bạn phải làm là ăn nhiều ngô và phụ phẩm của ngô, kể cả HFCS.

Và vấn đề còn tồi tệ hơn, có hai nghiên cứu độc lập gần đây – một công bố trên Tạp chí Environemental Health (Sức khỏe môi trường) và một được thực hiện bởi Viện Nông nghiệp và Chính sách Thương mại của Mỹ (Institute for Agriculture and Trade Policy – IATP) – đã tiết lộ thực tế là HFCS có thể có chứa thủy ngân. Và nếu vẫn còn chưa đủ, thì đây, hơn 86% ngô ở Mỹ hiện nay là ngô biến đổi gen (xem chương kế tiếp về biến đổi gen – GMO)!

“Nhưng tại sao bác sĩ không cảnh báo tôi về HFCS?” Nên nhớ là cách đây không quá lâu, các bác sĩ còn được các công ty thuốc lá trả tiền để chấp thuận thuốc lá. Thế nên, không có gì ngạc nhiên khi một số bác sĩ không biết gì về sự nguy hiểm của HFCS, mặc dù thực tế đó là kiến thức vô cùng cơ bản.

Một lon nước ngọt có ga chứa gần 13 muỗng cà phê đường, hầu hết trong đó là fructose từ HFCS. Một lý do khác nữa để tránh nước ngọt có ga là chúng có độ pH khoảng 2,0, điều này sẽ góp phần làm tăng tính axit. Theo bác sĩ James Howenstine trong cuốn A Physician’s Guide to Natural Health Products That Work: “Trong một thí nghiệm thú vị, đường từ nước giải khát có khả năng làm tổn hại năng lực ăn và tiêu diệt vi khuẩn lậu của tế bào máu trắng trong bảy giờ… Nước giải khát còn chứa một lượng lớn phốt pho, và khi được bài tiết, phốt pho lại rút canxi trong xương. Những người sử dụng nhiều nước ngọt sẽ bị loãng xương và tổn thương động mạch.”

Vào năm 1951, bác sĩ Clive McCay, nhà dinh dưỡng học Hải quân tại Viện nghiên cứu Y học Hải quân đã phát hiện răng người bị mềm đi và tan trong một thời gian ngắn sau khi nhấp uống một ngụm Coca Cola. Ông khẳng định tính axit của nước giải khát cola gần giống như dấm, chỉ có điều được che đậy bằng hàm lượng đường.

Và nếu bạn cho rằng nước ngọt ăn kiêng sẽ tốt hơn, hãy nghĩ lại. Nước ngọt kiêng thường có độ pH thấp hơn nước ngọt bình thường, và chúng cũng chứa chất ngọt nhân tạo có hại như đường hóa học aspartame. Nếu bạn muốn làm ngọt thực phẩm, tôi khuyên dùng cỏ ngọt stevia, đó là loại thảo mộc ngọt hơn đường 300 lần. Tác dụng y dược của nó gồm điều hòa lượng đường trong máu, ngăn ngừa tăng huyết áp, điều trị các rối loạn về da, và ngăn ngừa sâu răng. Các nghiên cứu khác cho thấy nó cũng là tác nhân kháng khuẩn và chống vi-rút tự nhiên. Vì vậy, không những làm cho thực phẩm ngon hơn, stevia còn thực sự tốt cho bạn! Đối với bệnh nhân ung thư, đường dứt khoát là “cấm kị”. Nếu bạn ghét ung thư, hãy bỏ đói nó. Nếu bạn thường xuyên uống nước ngọt có ga, hãy cố thay thế bằng nước. Loại bỏ đường, HFCS, và nước ngọt có ga ra khỏi chế độ ăn uống là một trong những cách dễ nhất để cải thiện sức khỏe của bạn ngay lập tức.

3. Các excitotoxin

(Bột ngọt – MSG & Đường hóa học – Aspartame )

Excitotoxin là gì? Đây là những chất, thường là các axit amin, phản ứng với các thụ thể đặc hiệu (nơ-ron) trong não, dẫn đến sự hủy diệt của một số loại tế bào não. Con người thiếu hàng rào máu-não ở vùng dưới đồi, điều này cho phép các excitotoxin đi vào não và gây tổn thương. Như mô tả trong cuốn sách của bác sĩ Russell Blaylock, Excitotoxins: The Taste that Kills (Excitotoxin: Vị ngon chết người) thì tính chất của chúng đúng như cái tên: độc tố kích thích tế bào não đến chết!.

Không có giống chuột béo phì tự nhiên, nên các nhà khoa học phải tạo ra chúng. Họ tạo ra sinh vật béo phì này bằng cách tiêm monosodium glutamate (MSG) cho chúng khi chúng vừa được sinh ra. Lượng MSG làm tăng gấp ba lượng insulin mà tuyến tụy tạo ra, khiến cho chuột bị béo phì. MSG tạo ra tổn thương ở vùng dưới đồi, điều này dẫn tới những sự phát triển bất thường, bao gồm béo phì, vóc dáng thấp bé và các vấn đề về sinh sản. MSG cũng cho thấy nó giết chết tế bào não cũng như gây đau đầu, buồn nôn, đau nửa đầu, trầm cảm, và các vấn đề về tim. Thật không may, MSG thường được ngụy trang dưới những tên gọi khác; do đó, có thể bạn sẽ không phát hiện được nó trong danh sách thành phần.

Một số từ đồng nghĩa với MSG là “protein glutamate” hoặc “chiết xuất men axit glutamic” hoặc “men dinh dưỡng gelatin” hay “protein rau quả thủy phân”. Chúng che dấu MSG dưới nhiều cái tên khác nhau để đánh lừa người tiêu dùng. Các công ty thực phẩm biết MSG có thể làm tăng hương vị, mùi thơm và tăng mức độ chấp nhận đối với các sản phẩm thực phẩm thương mại, do đó, thật khó tin là họ sẽ ngừng sử dụng phụ gia tiêu diệt não này trong thực phẩm cung cấp cho chúng ta. Hãy lướt nhanh vào bếp của bạn và kiểm tra chạn thức ăn và tủ lạnh. Bạn sẽ nhận thấy MSG có trong tất cả mọi thứ: xúp, đồ chiên, mì khô, hamburger, nước xốt, nước rưới salad, dầu ngô, nước dùng,…

Aspartame (đường hóa học) cũng là một excitotoxin, và nó đã được chứng minh là làm giảm trí thông minh và ảnh hưởng đến trí nhớ ngắn hạn. Tin hay không tùy bạn, aspartame đã một lần nằm trong danh sách hóa chất chiến tranh sinh học mà Lầu Năm Góc trình lên Quốc hội Mỹ! Nó được tạo thành từ hai axit amin và methanol (cồn gỗ). Mặc dù các nghiên cứu thử nghiệm cho thấy nó vô cùng độc hại cho não, chính phủ Mỹ đã ỉm đi thực tế này, và nó đã chính thức được phê chuẩn như một phụ gia thực phẩm sử dụng trong nước ngọt năm 1983. FDA đã phớt lờ những khiếu nại về các cơn đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, co giật, rối loạn, nhìn mờ, và một loạt các phản ứng tiêu cực khác với aspartame.

Một vài năm trước đây, chúng ta được xem một phim tài liệu về aspartame nhan đề Sweet Misery (Bất hạnh ngọt ngào). Thật tuyệt vời… và đáng lo ngại. Bạn có thể xem đoạn quảng cáo và xem năm phút đầu tiên ở đây: www.aspartamekills.com. Phần sau của cuốn sách này sẽ dành nguyên một chương phơi bày sự gian lận xung quanh aspartame.

4. rBGH/ Natri Nitrat

Năm 1994, Monsanto và FDA giới thiệu rBGH (recombinant bovine growth hormone – hoóc môn tăng trưởng tái tổ hợp cho bò) vào thị trường. Đây là loại thuốc có tác dụng mạnh về mặt di truyền học, thuốc này khi tiêm vào bò sữa sẽ buộc chúng phải sản xuất nhiều sữa hơn đến 25%. Khi bò được tiêm rBGH, việc sản xuất sữa được kích thích, nhưng không trực tiếp. Sự hiện diện của rBGH trong máu bò kích thích sản xuất hoóc môn khác gọi là Insulin-Like Growth Factor (IGF). Chính IGF này kích thích sản xuất sữa.

IGF là một hoóc môn protein tự nhiên xuất hiện trong cả bò và người. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng IGF ở bò có tính chất hóa học giống hệt với IGF ở người. Việc sử dụng rBGH làm tăng nồng độ IGF trong sữa bò, nhưng IGF không bị phá hủy qua thanh trùng. Vì IGF năng động ở người và làm cho các tế bào phân chia, nên việc tăng IGF trong sữa đặt ra câu hỏi rõ ràng là liệu nó có gây phân chia và tăng trưởng tế bào không thích hợp, dẫn đến sự tăng trưởng của các khối u hay không.

Kể từ khi rBGH xuất hiện trên thị trường vào năm 1994, mọi nước công nghiệp phát triển trên thế giới (trừ Mỹ) đều cấm sử dụng chất này. Thực tế là rBGH chưa bao giờ được thử nghiệm thỏa đáng trước khi FDA cho phép nó ra thị trường. Một thử nghiệm tiêu chuẩn của các sản phẩm sinh hoá và thuốc cho thú mới sản xuất đòi hỏi 24 tháng thử nghiệm với vài trăm con chuột. Nhưng rBGH đã thử nghiệm chỉ trong 90 ngày trên 30 con chuột. Nghiên cứu trên chuột trong thời gian ngắn này đã được trình lên FDA nhưng chưa bao giờ được công bố. FDA từ chối cho phép bất cứ ai bên ngoài cơ quan xem xét các dữ liệu thô từ nghiên cứu cắt xén này, với lý do việc đó sẽ “làm tổn hại vô phương cứu chữa” cho Mosanto.

Vào tháng 2 năm 1997, hai phóng viên tin tức kỳ cựu của Fox TV tại Tampa, Florida, đã bị sa thải vì từ chối làm nhẹ đi báo cáo điều tra rằng rBGH có thể thúc đẩy ung thư ở những người uống sữa bò được xử lý rBGH. Monsanto đã ép Fox TV giảm nhẹ nội dung chương trình truyền hình nhiều kỳ này, đề nghị trả tiền cho hai phóng viên nếu họ rời khỏi đài và giữ im lặng về báo cáo của mình, nhưng họ đã từ chối và bị sa thải. Ngày 2 tháng 4 năm 1998, họ nộp đơn kiện đài truyền hình này. Sau năm tuần xét xử và sáu giờ nghị án, tòa kết thúc ngày 18 tháng 8 năm 2000, bồi thẩm đoàn tòa án bang Florida nhất trí xác định Fox “đã hành động có chủ định và cố ý làm sai lệch hoặc bóp méo thông tin của nguyên đơn về rBGH.” Bồi thẩm đoàn quyết định phạt 425.000 USD Mỹ cho những thiệt hại. Tại sao Monsanto quyết tâm bắt các phóng viên im lặng đến như thế?

Đây là lý do. Năm 1998, lần đầu tiên các nhà khoa học Canada đã thu thập được đầy đủ các nghiên cứu của Monsanto. Họ choáng váng khi nhận ra FDA thậm chí chưa bao giờ nhìn đến các dữ liệu gốc của Monsanto, mà đây là tài liệu cơ quan này dựa vào để thẩm duyệt. Khi xem xét các dữ liệu, các nhà khoa học mới biết các nghiên cứu “bí mật” của Monsanto cho thấy rBGH gây ra ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tuyến giáp ở chuột trong phòng thí nghiệm!

Vào tháng 8 năm 2008, hãng dược phẩm quốc tế Eli Lilly đã đồng ý mua rBGH từ Monsanto. Đây dường như là một quyết định đặc biệt vào thời điểm đó. Quái lạ, tại sao bộ phận thú y của Eli Lilly (Elanco) lại trả 300 triệu USD cho một loại thuốc mà các công ty khác chắc chắn sẽ không muốn dính líu tới? Khi đó, tôi bắt đầu kết nối các đầu mối lại với nhau. Thời còn đi học, tôi đã đọc được câu chuyện về chủ một cửa hàng bán vỏ xe ô-tô bị bắt vì “vạch xước” hàng trăm xe. Đúng là một cách tăng trưởng kinh doanh đặc biệt! Eli Lilly đã thực hiện chiến lược bán thuốc tương tự như việc vạch xước ô-tô và sau đó được trả tiền để sửa chữa chúng!

Bạn thấy đấy, Eli Lilly cũng bán thuốc ung thư. Vì vậy, trong khi Eli Lilly bán ra thuốc kích sữa (rBGH) là nguyên nhân gây ung thư, họ cũng đang lên kế hoạch “đến giải cứu” với các thuốc khác để “điều trị” ung thư do rBGH vừa gây ra. Đúng là một kiểu kinh doanh “hai mang” hoàn hảo. Nhưng đó chưa phải là tất cả… mọi chuyện thậm chí còn tốt hơn nữa cho Eli Lilly. Bò được cho dùng rBGH có tỷ lệ bị viêm vú cao hơn nhiều. Bạn đoán thử xem. Eli Lilly hớn hở bán thuốc kháng sinh điều trị nhiễm trùng. Cùng lúc đó, Eli Lilly cười sung sướng suốt đoạn đường đến ngân hàng.

Natri nitrat (NaNO3) và họ hàng gần của nó là natri nitrit (NaNO2) là chất bảo quản bạn thấy có trong rất nhiều các loại thịt chế biến. Những thứ như salami; các loại xúc xích pepperoni, hot dog, bologna; thịt đùi lợn muối, thịt lợn xông khói (thậm chí gà tây xông khói); thức ăn chăn nuôi (một lý do nữa để chỉ ăn thịt bò ăn cỏ) và thịt heo đóng hộp đều thường chứa natri nitrit. Đó là thành phần giúp cho thịt có màu “đỏ hồng” thay vì màu xám tự nhiên khi bị ôi. Nó làm thịt trông “tươi” ngay cả khi ở trên kệ hàng tháng trời.

Hầu như tất cả các loại thịt chế biến đều được sản xuất với natri nitrit, bất chấp thực tế nó là tiền chất của hóa chất gây ung thư gọi là nitrosamine. Rất nhiều bằng chứng cho thấy nitrosamine là chất gây ung thư cho người. Ví dụ, nitrosamine trong thuốc lá là một trong những hóa chất gây ung thư chính trong các sản phẩm thuốc lá. Hãy nhớ rằng, khi ăn xúc xích hun khói (bologna) hay xúc xích có tiêu (pepperoni) hoặc thịt xông khói (bacon) là bạn cũng đang ăn natri nitrit, nó sẽ hình thành nitrosamine, thúc đẩy phát triển tế bào ung thư. Trở lại những năm 1970, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã cố gắng cấm natri nitrit nhưng thất bại do những nỗ lực vận động hành lang của ngành công nghiệp chế biến thịt.

Bạn có cần các con số thống kê không? Đại học Hawaii đã tiến hành một nghiên cứu kéo dài bảy năm trên gần 200.000 người. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng những người tiêu thụ thịt chế biến có 67% nguy cơ gia tăng ung thư tuyến tụy so với những người tiêu thụ ít hoặc không ăn thịt (www.naturalnews.com/007024.html). Tôi không nói các sản phẩm từ thịt là xấu, như tôi đã trao đổi về thịt bò ăn cỏ. Thế nhưng hầu như tất cả thịt chế biến và thịt từ bò được tiêm rBGH… là rất kinh khủng! Một trong những nguyên nhân là natri nitrit. Và đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng trôi.

5. Đậu nành

Theo hầu hết các chuyên gia y tế, đậu nành là thực phẩm tự nhiên, đa năng, tốt cho tim, cải thiện sức khỏe hiệu quả nhất trên Trái đất. Đậu nành là cây trồng thu hoa lợi lớn nhất ở Mỹ, và nó đang được ca tụng ngất trời là có vô số lợi ích cho sức khỏe. Tuy nhiên, theo bác sĩ William Wong: “Đậu nành độc hại. Chấm hết!” Trong bài viết nhan đề: “Soy: The Poison Seed” (Đậu nành: Hạt độc hại), bác sĩ Wong đưa ra một số lý do tại sao đậu nành lại độc hại. Đậu nành chứa hai isoflavone (chất giống như estrogen) về cơ bản là chất diệt sâu bọ có sẵn trong đậu nành. Ông đặt câu hỏi: “Nếu chúng giết bọ rệp, liệu chúng có tốt cho người không?” Một câu hỏi hay.

Theo chuyên gia dinh dưỡng, tiến sĩ Mary Enig: “Lý do có quá nhiều đậu nành ở Mỹ là vì họ (ngành công nghiệp đậu nành) bắt đầu trồng đậu nành để chiết xuất dầu, và dầu đậu nành đã trở thành một ngành công nghiệp rất lớn. Và khi đã đạt đến nguồn cung dầu lớn như hiện nay, họ còn lại rất nhiều protein đậu nành tồn đọng, và vì không thể cho động vật ăn hết, nên người ta đã phải tìm một thị trường khác.” Thị trường khác mà họ đã tìm thấy chính là: công chúng Mỹ vô cùng ngây thơ. Sau hàng chục triệu USD dành cho quảng cáo, một chiến dịch tuyên truyền khiến cho Hitler cũng chỉ là tay mơ, cùng hoạt động vận động hành lang dữ dội với FDA, xấp xỉ 75% người tiêu dùng Mỹ giờ đây tin rằng các sản phẩm từ đậu nành là tốt lành.

Nếu bạn cho rằng những phát biểu về sức khỏe liên quan tới đậu nành có vẻ tốt đến không tưởng thì có lẽ bạn đúng. Đậu nành chứa phytin, là chất loại bỏ các khoáng chất thiết yếu như sắt, kẽm, magiê trước khi chúng được hấp thụ. Đậu nành còn chứa chất ức chế trypsin – nên nhớ trypsin rất thiết yếu trong việc nhận ra và tiêu hóa cả protein lẫn tế bào ung thư. Đậu nành cũng chứa hemagglutinin là chất thúc đẩy hiện tượng vón cục làm cho các tế bào máu đỏ kết lại với nhau. Những tế bào máu kết tụ không thể hấp thụ ô-xy đúng cách để phân phối đến các mô của cơ thể. Ngoài ra, một số sản phẩm từ đậu nành còn có hàm lượng nhôm cao, một nguyên nhân gây bệnh Alzheimer.

Điểm mấu chốt về đậu nành là: đậu nành không phải là một dạng protein hoàn chỉnh, nó có chứa một số chất độc hại và thậm chí các chất gây ung thư, và hầu hết đậu nành ở Mỹ là sản phẩm biến đổi gen. Theo bác sĩ Wong: “Mọi ý kiến trái với những thực tế nêu trên đều được những người khổng lồ trong kinh doanh nông sản Monsanto và Archer Daniels Midland trả tiền. Khi hiểu biết của công chúng về sự thao túng của họ đối với công luận và FDA được mở toang, hy vọng sẽ có những vụ kiện cỡ lớn chống lại những kẻ này. Họ ngàn lần xứng đáng bị như thế!” Xem chương 20 để có thêm thông tin về những mối hiểm họa từ đậu nành.

“Độc tố kinh hoàng”

Những độc tố liệt kê trong phần này có ở khắp mọi nơi, nên hãy cẩn thận! Thực tế là, có thể viết cả một cuốn sách để nói về những chất độc hại trong môi trường và thực phẩm, nhưng tôi quyết định chỉ đề cập đến một số các độc tố phổ biến nhất.

6. Amiăng

Hơn 30 triệu tấn amiăng dưới các dạng khác nhau đã được khai thác trong thế kỷ trước. Amiăng là một trong những hiểm họa cho môi trường phổ biến nhất trên thế giới và có trong hơn 3.000 sản phẩm được sản xuất ra. Nó được sử dụng rộng rãi từ những năm 1950 đến những năm 1970. Amiăng thực ra là một họ các khoáng chất có thể se thành sợi và sau đó dệt thành dạng vải. Do không cháy, nên nó được sử dụng rất nhiều trong công nghiệp cách nhiệt ở vai trò vật liệu chống cháy. Vấn đề phát sinh khi vật liệu cũ đi và giòn, thải sợi vào không khí, sau đó chúng ta hít phải các sợi này vào phổi. Amiăng sẽ không cháy, cũng không hòa tan khi vào trong cơ thể. Sợi bị vướng trong phổi và các cơ quan khác, sau đó kích thích các mô, gây thương tích và cuối cùng để lại sẹo.

Có ba bệnh phát sinh do hít phải sợi amiăng: bệnh bụi phổi amiăng (asbetosis), u trung biểu mô (mesothelioma) và ung thư phổi.

Bệnh bụi phổi amiăng phát sinh khi sợi amiăng được hít vào và bị giữ lại trong phổi. Đáp lại, cơ thể cố gắng hòa tan sợi bằng cách sản xuất ra một loại axit. Không những không phá hủy được sợi, axit lại tạo sẹo ở mô phổi. Rốt cuộc sẹo có thể trở nên nghiêm trọng đến nỗi phổi không thể hoạt động được nữa. U trung biểu mô là ung thư mô bên ngoài của phổi. Ung thư này chỉ liên quan đến amiăng. Thời gian từ lúc tiếp xúc đến khi các bệnh này biểu hiện là 15 đến 40 năm.

Các nguồn amiăng chính là tấm cách nhiệt sàn nhà, trần nhà, ống dẫn khí sưởi và ống dẫn nước từ những năm 1950 đến năm những 1970. Mặc dù việc sử dụng amiăng trong các tòa nhà văn phòng đã chấm dứt từ hơn 30 năm trước, hàng triệu nhân viên văn phòng vẫn đang phải làm việc trong những tòa nhà cũ có chứa amiăng cách nhiệt. Ước tính hơn 50% các tòa nhà chọc trời ở Mỹ vẫn còn chứa amiăng. Cả hai tòa Tháp đôi bị sập vào ngày 9/11/2001 cũng có đầy amiăng.

Thực tế, Mỹ là một trong số ít các quốc gia chưa đặt lệnh cấm amiăng – nó vẫn còn là thành phần trong hàng ngàn sản phẩm. Đúng thế, thật đáng ngạc nhiên, bất chấp đã biết rõ những rủi ro về sức khỏe, amiăng vẫn không bị cấm ở Mỹ. Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng (CPSC) đã từ bỏ nỗ lực cấm các sản phẩm amiăng vào năm 1979, chuyển trách nhiệm sang EPA. Năm 1989, EPA đã cố gắng ra một lệnh cấm, nhưng đến năm 1991, tòa án phúc thẩm lưu động Mỹ lần thứ năm lật lại quyết định này. Âm ỉ và nguy hiểm, amiăng len lỏi qua “những vết nứt” của hệ thống bảo vệ người tiêu dùng trong gần 30 năm.

Kết quả là amiăng vẫn cư trú sâu trong nền thương mại Mỹ và hầu như không ai để ý. Mặc dù thực tế các chuyên gia y tế cho rằng amiăng gây tổn hại cho thêm 250.000 nhân mạng nữa ở Mỹ trong vài thập kỷ tới bởi amiăng vẫn đang được sử dụng như một thành tố trong vô số các sản phẩm hằng ngày khác nhau, từ má phanh cho đến tấm lợp trần nhà. Nhập khẩu các sản phẩm có chứa amiăng cũng đang gia tăng. Điểm mấu chốt là hầu như tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi, giới tính đều tiếp xúc với amiăng do sự phổ biến của nó. Chỉ có thời gian sẽ cho biết những ảnh hưởng độc hại cho sức khỏe xuất phát từ chất gây ung thư nguy hiểm này.

7. Florua

Đầu năm 2010 có một vụ phun trào núi lửa lớn ở Iceland. Hiện nay, động vật ở miền nam Iceland có nguy cơ bị ngộ độc florua nếu chúng hít hoặc ăn phải tro từ núi lửa phun trào. Ngộ độc florua có thể dẫn đến xuất huyết nội, tổn thương xương dài hạn, và rụng răng. Theo BBC News (ngày 19/4/2010): “Florua trong tro tạo nên axit trong dạ dày động vật, bào mòn ruột và gây xuất huyết. Nó cũng bám vào canxi trong máu và sau khi tiếp xúc nhiều trong khoảng thời gian mấy ngày sẽ làm cho xương dễ vỡ, thậm chí gây ra vỡ răng.”

Phần đông mọi người không bao giờ “kết nối” giữa bi kịch những con vật này bị ngộ độc do một sự kiện tự nhiên, với việc chúng bị ngộ độc do chủ ý của con người vì hằng ngày tiếp xúc quá nhiều florua. Việc cho thêm florua vào nước máy bắt đầu vào những năm 1940, nhưng trái với quan niệm phổ biến, florua không hề chấm dứt hiện tượng sâu răng. Các nghiên cứu khoa học thực sự chứng minh florua gây độc thần kinh và gây ra những vấn đề như dị tật bẩm sinh, ung thư và loãng xương. Florua cũng hủy hoại hệ miễn dịch, tiêu hóa, hô hấp cũng như thận, gan, não, và tuyến giáp.

Số ra năm 1936 của tạp chí American Dental Association (Hiệp hội Nha khoa Mỹ) đã khẳng định nồng độ florua 1 ppm (1 phần triệu) độc hại như thạch tín và chì. Hiện có hơn 500 nghiên cứu đã được bình duyệt ghi nhận những tác động bất lợi của florua, từ ung thư đến tổn thương não. Chưa hết, các thành phố trên khắp nước Mỹ mua sản phẩm này và đưa vào hệ thống cấp nước công cộng. Bác sĩ Charles G. Heyd, cựu chủ tịch AMA, tuyên bố: “Tôi kinh hoàng trước viễn cảnh sử dụng nước như một dạng chất dẫn thuốc. Florua là chất độc có tính ăn mòn sẽ gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng về lâu dài. Mọi nỗ lực sử dụng nước theo cách này đều rất đáng trách.”

Không có bằng chứng khoa học florua là phụ gia có lợi cho nước, và trong thực tế có quá nhiều bằng chứng khoa học chứng minh chắc chắn florua có hại. Nó thực sự làm cho răng sâu và vỡ! Điểm mấu chốt là tất cả các cơ quan y tế liên bang của Mỹ đã biết những thực tế này từ nhiều năm rồi, nhưng bị những quyền lợi chính trị của các nhà sản xuất vũ khí hạt nhân, nhôm, và phốt-phát phong tỏa, buộc phải giữ bí mật. (Xem Chương 16 để biết thêm thông tin về những hiểm họa từ florua.)

8. Thủy ngân

Bạn có biết hầu hết cá chúng ta ăn đều chứa thủy ngân? Tại sao? Vì mỗi năm có hàng ngàn tấn thủy ngân được thải vào không khí do ô nhiễm và chất thải. Cuối cùng, nó tích tụ trong hơi nước, nước và đất. Nó cũng tích tụ trong chuỗi thức ăn, vì vậy mỗi con cá hấp thụ thủy ngân ở những con cá khác và các sinh vật nó ăn. Cá càng lớn, thủy ngân mà nó hấp thụ càng nhiều. Cá mập, cá kiếm, cá kình, cá thu, cá chẽm, cá cờ, cá bơn, hàu, cá hồi, và cá ngừ là những loại chứa lượng methyl thủy ngân cao nhất.

Theo bác sĩ Joseph Mercola: “Độc tố methyl thủy ngân có thể dẫn đến dị cảm, trầm cảm, và mờ mắt. Ở bào thai và trẻ sơ sinh, nó cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tập trung, ngôn ngữ, kỹ năng thị giác-không gian, trí nhớ và điều phối. Ước tính có gần 6.000 trẻ em mỗi năm sinh ra có nguy cơ về vấn đề thần kinh do tiếp xúc với methyl thủy ngân trong bụng mẹ.”

Do hiện tượng nhiễm thủy ngân, Cục bảo vệ môi trường (EPA) đã ban hành những cảnh báo y tế về lượng cá tiêu thụ. Tài liệu “Got Mercury? Calculator” (Tính hàm lượng thủy ngân) tại www.gotmercury.org có thể giúp bạn xác định lượng và loại hải sản an toàn cho bạn và gia đình. Chỉ cần nhập trọng lượng của bạn, loại hải sản, số lượng và nhấn nút tính. Công cụ tính toán trực tuyến sẽ cho bạn biết liệu mức tiêu thụ của bạn có vượt quá giới hạn an toàn EPA quy định cho thủy ngân hay không.

Thế còn loại thủy ngân được trám trong miệng bạn thì sao? Hỗn hợp thủy ngân trám răng có chứa khoảng 50% thủy ngân. Ban đầu, Hiệp hội Nha Khoa Mỹ (ADA) phủ nhận việc thủy ngân trám răng bay hơi, sau đó được hấp thụ vào cơ thể chúng ta. Nhưng trong những năm gần đây, khi phải đối mặt với rất nhiều nghiên cứu cho kết quả ngược lại, ADA thừa nhận rằng thủy ngân trám răng giải phóng ra hơi thủy ngân cực kỳ độc hại.

Bạn có biết thủy ngân mà các nha sĩ sử dụng để sản xuất vật liệu trám răng amalgam được xếp vào loại vật liệu nguy hiểm cho phòng khám nha khoa không? Bạn có biết, vì được xem như chất thải nguy hại, nên thủy ngân trám răng khi được gỡ bỏ bắt buộc phải được xử lý phù hợp với các quy định của OSHA liên bang Mỹ? Mấy năm vừa qua, Charlene và tôi đã gỡ bỏ tất cả các trám răng thủy ngân. Tôi khuyên bạn nên làm như vậy. Giống như thủy ngân, các kim loại nặng khác (như thạch tín, chì, nhôm, và catmi) rất phổ biến trong nhiều khu vực môi trường có thể tích tụ trong các mô mềm của cơ thể và có thể gây ra vô số các bệnh thoái hóa, kể cả ung thư. Những kim loại nặng này có trong nước uống của chúng ta, trong cá, vắc xin tiêm chủng, thuốc trừ sâu, kem chống mồ hôi, vật liệu xây dựng, và hợp chất trám răng, vân vân. Xem chương 18 để biết thêm thông tin về sự nguy hiểm của thủy ngân.

9. Độc tố nấm

Độc tố nấm là các chất độc sinh ra từ một số loại nấm mốc nhất định có chủ yếu trong ngũ cốc và hạt, gây ra một loạt các vấn đề về sức khỏe ở người. Ngô thường bị nhiễm fumonisin và aflatoxin (cả hai được biết đến vì tác động gây ung thư). Một nghiên cứu năm 1993 cho thấy 24 loại nấm khác nhau được tìm thấy trong lạc, bao gồm cả aflatoxin. (Costantini, A. Etiology and Prevention of Atheroscler-Osis, Fungalbionics series, 1998-1999). Cây nấm cũng chứa độc tố nấm.

Tôi không khuyên bạn loại bỏ đậu phộng (lạc) hoàn toàn, vì chúng là nguồn cung cấp chất xơ, vitamin E, kali, axit folic, kẽm và magiê rất tốt. Lạc cũng chứa resveratrol (chất có trong nho đen), flavonoid, và các chất chống ô-xy hóa, tất cả đều có lợi cho sức khỏe và ngày càng được chứng minh giúp bạn ngăn chặn nhiều loại bệnh. Điều cốt lõi trong tiêu thụ lạc là phải đảm bảo chúng là hữu cơ và được trồng ở vùng đất khô và không có lịch sử sử dụng aflatoxin, chẳng hạn như ở New Mexico. Gia đình tôi rất thích bơ lạc, vì thế chúng tôi mua Maranatha Peanut Butter, đây là sản phẩm hữu cơ và sử dụng lạc Valencia từ đất khô cằn của New Mexico; do đó, chúng không nhiễm aflatoxin, thuốc trừ sâu, và hóa chất.

Nấm linh chi, nấm hương và nấm gà mái rừng đã được chứng minh là sở hữu các đặc tính chống ung thư, vì vậy tôi không phản đối nấm ăn. Thành phần hoạt tính chống ung thư ở những loài nấm này là một loại đường đa phân tử polysaccharide gọi là beta-glucan – phân tử đường lớn được tạo thành từ nhiều phân tử đường nhỏ nối chuỗi với nhau gắn với axit amin. Loại đường phức này kích thích hoặc điều chỉnh hệ miễn dịch bằng cách kích hoạt các tế bào miễn dịch như đại thực bào và tế bào T hỗ trợ (helper T-cell), cũng như gia tăng mức globin miễn dịch để tạo ra một đáp ứng miễn dịch tăng cường đối với các tế bào lạ, dù là vi khuẩn, vi-rút, hay các tế bào khối u.

Thành thật mà nói, tất cả mọi thứ là động vật hoặc thực vật đều có thể bị mốc. Ngũ cốc, hạt, trái cây, trà, cà phê, thảo dược, và rau, tất thảy đều có thể bị mốc. Khi các sinh vật đang sống, các loại nấm mốc có thể bị giữ không cho thâm nhập, nhưng ngay sau khi chúng chết thì hiện tượng lên mốc bắt đầu. Trước tiên là lên mốc và sau đó là hoạt động của vi khuẩn; đây là nhân tố làm mọi thứ phân hủy sinh học. Nếu không có quá trình mốc và phân rã, đường phố Fort Worth vẫn sẽ chất đầy phân ngựa từ thời còn ngựa và xe ngựa, còn ao hồ của chúng ta thì sẽ chẳng thể bơi được vì đầy cá chết. Tuyệt đối không cách nào bạn có thể loại bỏ hoàn toàn độc tố nấm ra khỏi chế độ ăn uống của mình. Tuy nhiên, dưới ánh sáng công trình tiên phong của bác sĩ Tullio Simoncini, liên quan đến mối liên kết có thể có giữa nấm với ung thư, tôi khuyên bạn giảm tối đa lượng độc tố nấm bạn ăn vào. Điều này chắc chắn là tốt cho bạn. Và đây là tin tốt lành cho các đầu bếp: nếu bạn tự nướng bánh, bạn có thể kéo dài thời gian bánh mì không mốc bằng cách thêm một chút vitamin C vào bột nhào. Nó cũng sẽ làm bánh mì nở nhiều hơn. Bạn cũng có thể làm tương tự khi nấu cơm.

10. Hợp chất clo hữu cơ (sản phẩm phụ của clo)

Khí clo là vũ khí sử dụng trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới và là chất độc thần kinh rất độc đã bị cấm bởi các điều luật về chiến tranh quốc tế. Phổi không thể lọc được clo, nó đi vào nhanh hơn ô-xy, ngay lập tức ngấm vào máu khi được hít vào, và nếu đủ nồng độ sẽ gây tử vong tức thời. Như nhà sinh học phân tử Joe Thornton giải thích: “Không có công dụng nào của clo được coi là an toàn.” Tuy nhiên clo hóa lại được coi là một trong những tiến bộ lớn nhất từng có trong y tế cộng đồng và vệ sinh, hầu như được chấp nhận rộng rãi là phương pháp ưa chuộng để làm sạch nước.

Hầu hết nước uống ở Mỹ đến từ nguồn nước mặt, tức là nước hồ hoặc sông. Những hồ và sông này thường giàu chất hữu cơ vô hình sinh ra từ lá mục và tảo. Trong lúc khử trùng, clo gắn ngẫu nhiên với vật chất hữu cơ này, tạo thành hàng ngàn hóa chất mới gọi là “clo hữu cơ” (organochlorine). Các hợp chất clo hữu cơ không được tìm thấy trong tự nhiên tại bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng một khi chúng được hình thành bằng cách kết hợp clo với chất hữu cơ, chúng cực kỳ độc hại và rất vững chắc. Phần lớn trong số chúng không phân hủy sau hàng trăm năm.

Các clo hữu cơ dễ dàng được hấp thu vào cơ thể chúng ta và được lưu trữ trong các tế bào chất béo, nơi chúng tích tụ. Theo nhà sinh học phân tử Joe Thornton: “Khử trùng bằng clo hầu như luôn luôn gia tăng độ độc hại.” Ngày càng có nhiều các nghiên cứu phát hiện ra mối liên hệ giữa nước uống khử trùng bằng clo và ung thư ở người. Nghiên cứu ung thư giá trị nhất là tuyển tập 10 nghiên cứu dịch tễ riêng rẽ về nước uống khử trùng bằng clo và ung thư, được biết đến với tên gọi nghiên cứu Morris. Những nghiên cứu này phát hiện các sản phẩm phụ trong nước khử trùng bằng clo là nguyên nhân cho 9% ung thư bàng quang và 15% ung thư trực tràng ở Mỹ. Điều này có nghĩa là thêm 10.000 ca tử vong mỗi năm chỉ từ bệnh ở hai bộ phận cơ thể đó.

Theo Hội đồng Chất lượng Môi trường Mỹ (US Council of Environmental Quality): “Nguy cơ ung thư ở những người uống nước khử trùng clo cao hơn những người uống nước không chứa clo 93%.” Tiếp xúc kéo dài cũng cho thấy dẫn đến những dị tật bẩm sinh, các vấn đề về hệ miễn dịch, và rối loạn sinh sản.

Mặc dù khử trùng nước góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng clo hữu cơ hình thành trên toàn cầu, nhưng ảnh hưởng của nó tới sức khỏe con người lại chiếm tỷ lệ lớn hơn vì thời gian tiếp xúc với nước khử trùng bằng clo thường kéo dài và liên tục. Nước khử trùng clo được dẫn thẳng vào nhà người sử dụng. Nhưng các clo hữu cơ trong nước uống của chúng ta chỉ là đỉnh của tảng băng trôi! Clo hữu cơ độc hại nhất là dioxin, đó là hóa chất ăn mòn nhân tạo khủng khiếp nhất được biết đến. “Dioxin” là thuật ngữ chung cho hàng trăm hóa chất sinh ra trong các quá trình xử lý công nghiệp có sử dụng clo và biện pháp đốt. Thật đáng lo ngại, nó có chu kỳ bán rã hơn một trăm năm khi rỉ vào đất hoặc ngấm vào hệ thống nước. Dioxin là thành phần gây hại nhất trong chất độc da cam, chịu trách nhiệm cho hơn nửa triệu ca dị tật bẩm sinh ở Việt Nam!

Một dự thảo báo cáo do EPA Mỹ công bố ra quần chúng vào tháng 9 năm 1994 đã mô tả rõ dioxin là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Năm 1997, Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư (một bộ phận của Tổ chức Y tế Thế giới) công bố loại dioxin có tác dụng mạnh nhất hiện được coi là chất gây ung thư Nhóm 1, tức là “chất đã xác định có gây ung thư cho người.” Tất nhiên, EPA cho rằng ở mức thấp dioxin vẫn “an toàn”.

Cho phép tôi đặt một câu hỏi. Nếu dioxin rất an toàn, tại sao các Ban quản lý Cựu chiến binh lại phải thanh toán tự động cho một loạt những đòi hỏi bồi thường, trong đó bao gồm nhiều trường hợp với các loại ung thư, máu trắng, bệnh gan, bệnh tim, bệnh tiểu đường và Parkinson? Người nộp thuế Mỹ đang thanh toán hóa đơn cho cựu chiến binh bị ảnh hưởng chất độc da cam với chi phí ước tính lên tới trên 40 TỶ USD trong thập kỷ tiếp theo! Tôi trịnh trọng đề nghị Dow và Monsanto (hai nhà sản xuất chất độc da cam hàng đầu) phải trả tiền cho tất cả các thiệt hại… chứ KHÔNG phải người nộp thuế Mỹ.

Ngoài ung thư, dioxin có thể gây ra những rối loạn về sinh sản và phát triển, tổn thương gan, mụn da, phát ban da, rối loạn sắc tố da, v.v. 93% lượng phơi nhiễm dioxin của một người Mỹ điển hình đến từ các sản phẩm thịt và sữa. Ở cá, các chất độc này tích tụ sinh học theo chuỗi thức ăn, thế nên nồng độ dioxin trong cá cao gấp 100.000 lần so với môi trường xung quanh. Các nguồn dioxin chính là ngành công nghiệp sản xuất giấy, công nghiệp sản xuất nhựa, và các lò đốt chất thải clo hóa.

Nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rõ ràng mối liên hệ giữa các clo hữu cơ và ung thư vú. Những phân tích chất béo ở vú của phụ nữ bị ung thư vú phát hiện ra rằng DDT, cùng các chất phái sinh của nó – DDE và PCB, và các chất ô nhiễm clo hữu cơ khác quả thực tập trung trong chính các mô ung thư, trái ngược với các mô không ung thư xung quanh. Các loại clo hữu cơ thường không chỉ rõ ràng là độc hại, mà chúng còn sở hữu cả hoạt tính giống như của estrogen. Nói cách khác, chúng bắt chước estrogen. Những hóa chất hoạt động giống estrogen gọi là xenoestrogen (nghĩa là “estrogen lạ”) và tàn phá theo nhiều cách. Tiếp xúc đầu tiên và nguy hiểm nhất của nữ giới với chúng có thể là ở trong bụng mẹ. Xenoestrogen có liên quan đến ung thư vú cũng như gia tăng những bất thường về sinh dục ở nam giới, trong đó có ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tinh hoàn.

11. Các chất gây ô nhiễm dạng nhựa

Khi bạn ăn hoặc uống những thứ đựng trong đồ nhựa, hay nếm, ngửi, mặc, ngồi lên… những vật dụng ấy, nhựa sẽ thâm nhập vào bạn. Thực tế, nhựa nhiễm vào thức ăn, thức ăn nhiễm vào cả nhựa và cơ thể bạn. Vì vậy, đúng theo nghĩa đen, bạn là những gì bạn ăn, uống và hít thở. Chúng ta trở thành “người nhựa”.

Chai nước được làm từ nhiều loại nhựa, chẳng hạn như polycarbonate (PC), polyethylene terephthalate (PET), polypropylene (PP), polyethylene mật độ cao (HDPE), polyethy-lene mật độ thấp (LDPE), polyvinyl clorua (PVC hoặc nhựa vinyl), và những thứ khác. Bisphenol-A (BPA) là một monome được sử dụng trong quá trình tổng hợp nhựa PC, keo epoxy, nó cũng là vật liệu tổng hợp và chất ổn định nhiệt trong PVC.

Danh sách các sản phẩm có chứa BPA rất dài, vì nó đã đi sâu vào các sản phẩm của xã hội hiện đại. Nhựa PC nền BPA được sử dụng làm lớp phủ răng cho trẻ em để ngăn ngừa sâu răng, lớp phủ lon kim loại để ngăn chặn kim loại tiếp xúc với thực phẩm; nó còn được dùng làm hộp đựng thức ăn, giá kệ tủ lạnh, bình sữa cho bé, chai nước, đồ đựng nước trái cây, sữa, nước, bình đựng có thể tái sử dụng chứa nước trái cây, sữa, nước, đĩa chịu nhiệt trong lò vi sóng, và dụng cụ ăn uống.

Khi nhựa cũ dần đi, thì BPA bị rỉ ra. Những thí nghiệm với chuột chứng minh rằng tiếp xúc ở mức độ thấp với BPA trong thời kỳ bào thai dẫn đến ung thư vú ở những con trưởng thành cũng như gây kháng insulin. Trong một nghiên cứu nhỏ về sau, các nhà nghiên cứu Nhật Bản phát hiện mức BPA cao hơn ở phụ nữ có tiền sử sảy thai lặp đi lặp lại.

BPA chỉ là một trong danh sách dài các chất gây ô nhiễm có trong nhựa, danh sách này dài đến mức phải có riêng một cuốn sách mới có thể nghiên cứu thấu đáo. Điểm mấu chốt là BPA (và các chất ô nhiễm dạng nhựa khác) vô cùng độc hại và có mặt ở khắp mọi nơi! Điều này có nghĩa là, gần như cả cuộc đời, bạn nằm trong tầm ảnh hưởng của BPA hoặc một hình thức nhựa độc hại khác.

Phthalate là chất làm dẻo dùng để làm cho các sản phẩm nhựa mềm dẻo hơn và cũng để kéo dài tuổi thọ của nước hoa. Mỗi năm, có khoảng bốn triệu tấn phthalate được sản xuất trên toàn thế giới. Phthalate được công nhận là chất độc hại theo luật môi trường, nhưng các công ty lại được tự do sử dụng trong mỹ phẩm.

Một số phthalate phổ biến và những sản phẩm chứa chúng:

 

·         Di-ethyl Phthalate (DEP): bàn chải đánh răng, chi tiết trong ô tô, công cụ, đồ chơi, bao bì thực phẩm, thuốc trừ sâu, thuốc diệt muỗi, aspirin, sơn móng tay, nước hoa, keo xịt tóc.

·         Di-n-butyl phthalate (DBP): nhựa tổng hợp, dung môi cho thuốc nhuộm, dung môi cho Mỹ phẩm, sơn móng tay, vỏ đóng gói thực phẩm, nước hoa, kem làm mềm da, keo xịt tóc, thuốc diệt côn trùng.

·         Benzyl butyl phthalate (BBP): chất làm dẻo trong keo, ván sàn PVC, đồ đánh bóng gỗ,…

Cái mùi xe mới, đặc biệt mạnh sau khi xe để ngoài nắng trong một vài giờ, là mùi của phthalates tỏa ra từ bảng đồng hồ nhựa bị nóng. Sau đó, khi nguội đi vào buổi tối, phthalate ngưng tụ, tạo thành một lớp phủ dầu trên mặt trong của kính chắn gió. Theo luật Superfund, chỉ cần thải vào môi trường 10 pound DBP (khoảng bốn kg) là đã phải báo cáo với cơ quan môi trường. Song, ngành công nghiệp Mỹ phẩm bỏ hàng ngàn tấn DBP vào sơn móng tay mỗi năm mà không có thủ tục kiểm tra an toàn hay báo cáo cho bất cứ ai.

Nhưng “Tại sao?”, bạn có thể thắc mắc. Nhiều quyết định then chốt của tòa án nhằm thi hành Đạo luật Kiểm soát Chất độc hại 1976 (TSCA) đã cơ bản khóa tay EPA. Bạn thấy đấy, EPA phải chứng minh được “nguy cơ gây hại bất hợp lý” tới sức khỏe con người trước khi có thể loại bỏ một hóa chất ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, họ không thể chứng minh nguy cơ gây hại bất hợp lý mà trước đó không tiến hành các nghiên cứu về an toàn, nhưng việc này lại bị nghiêm cấm cho đến khi chứng minh được là phơi nhiễm “có thực” hoặc “đáng kể”, đang xảy ra. Vì vậy, nó là cái vòng luẩn quẩn, người ta gần như không bao giờ có thể chứng minh phơi nhiễm là đáng kể hoặc đang xảy ra bởi vì có được các dữ liệu phơi nhiễm là điều vô cùng khó khăn. Nói đơn giản, EPA không thể kiểm soát một hóa chất cho đến khi phát hiện ra rủi ro dựa trên những dữ liệu mà pháp luật Mỹ gần như cấm thu thập. Điều này thật vô lý, phải vậy không?

Phụ nữ đang mang thai, cho con bú hoặc đang định mang thai cần quan sát và tránh tất cả các sản phẩm chăm sóc cá nhân có chữ phthalate trên nhãn. Các nguồn chính của phthalate là bao bì nhựa, chai nhựa, hộp đựng thực phẩm bằng nhựa, sơn móng tay, và Mỹ phẩm. Phthalate đã được chứng minh là chứa lượng estrogen có tác dụng tai hại lên tinh hoàn và gây dị tật bẩm sinh. Chúng cũng có thể gây ung thư, gây tổn hại hệ nội tiết, và đặc biệt nguy hiểm cho trẻ em.

Bạn đã nghe nói về benzen chưa? Gần 300.000 người mỗi năm tiếp xúc với benzen ở nơi làm việc. Benzen là hydrocarbon thơm và là hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (volatile organnic compound – VOC) sinh ra do đốt cháy các sản phẩm tự nhiên. Nó là thành phần của các sản phẩm có nguồn gốc từ than đá và dầu mỏ và có trong xăng cùng các nhiên liệu khác. Phần lớn benzen được làm ra để sử dụng trong sản xuất một số sản phẩm, chẳng hạn như các loại hoá chất, nhựa, cao su, keo, vải tổng hợp, và thuốc nhuộm trong y tế và công nghiệp.

Nghiên cứu đã cho thấy benzen là chất gây ung thư cực mạnh; nó là một trong những nguyên nhân chính của ung thư bạch cầu ở Mỹ. Nhìn chung, phơi nhiễm benzen đến từ khói thuốc lá, xăng dầu và khí thải ô tô. Benzen còn được sử dụng làm dung môi trong sáp, sơn, nhựa, và mực.

Tuy nhiên, còn có một nguồn cung benzen rất đáng lo ngại: nước ngọt có ga. Hai chất bảo quản thường được thêm vào nước ngọt có ga (axit ascorbic và natri benzoate) phản ứng với nhau tạo thành, bạn đoán xem là gì: benzen. Soda càng ấm, benzen càng sinh ra nhiều hơn. FDA và các nhà sản xuất nước ngọt đã biết về “bí mật nhơ bẩn” này từ năm 1990 nhưng đã không cảnh báo cho cộng đồng. Vì vậy, trong gần hai thập kỷ, người ta đã vô tình uống nước ngọt có ga chứa chất đã được xác định là có gây ung thư cho người. Năm 2007, đã xảy ra vụ kiện nhiều nguyên đơn, một số nhà sản xuất nước ngọt (gồm Coca Cola, PepsiCo, và Sunny Delight) đã dàn xếp hòa giải và thống nhất giảm lượng benzen trong đồ uống của họ. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất nước ngọt vẫn sử dụng axit ascorbic (vitamin C) và muối benzoate trong rất nhiều sản phẩm soda đang được bán trên toàn thế giới. Số người dân bị phơi nhiễm là rất lớn, có thể là cả tỷ người.

Lưu ý, nhiều thương hiệu bát đĩa đồ ăn nhựa làm bằng nhựa melamine, vì nó cứng, mịn và giữ hình dạng tốt. Bạn có biết rằng có đến 90% sữa công thức cho trẻ sơ sinh bán ở Mỹ có thể bị nhiễm lượng nhỏ melamine không? Theo các thí nghiệm gần đây (kết quả mà FDA đã giấu công chúng), các sản phẩm sữa công thức cho trẻ sơ sinh của Nestle, Mead Johnson và Enfamil đều bị nhiễm melamine.

Sự thật về melamine chỉ được công khai sau khi hãng thông tấn Associated Press đệ trình yêu cầu, đòi hỏi kết quả kiểm chứng của FDA. Tất nhiên, FDA tuyên bố rằng ở nồng độ thấp, melamine hoàn toàn an toàn cho trẻ sơ sinh sử dụng với số lượng không hạn chế. Chắc chắn là vậy rồi! Tôi đồ rằng BPA cũng an toàn? Thế còn những aspartame, MSG, florua, natri nitrit, và các độc tố khác thì sao? Nếu bạn tin FDA thì tất cả các chất độc hại này đều an toàn. Tuy nhiên, đọc đến đây, tôi hy vọng bây giờ bạn đã nhận ra FDA (và mafia y tế) chẳng khác gì một băng đảng hợp pháp của những gã tội phạm không bị truy tố, tham gia vào các chiến thuật đe dọa, kiểm duyệt và áp bức. Chẳng khác nào “chủ nghĩa khủng bố” trong y tế.

12. Thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm

Bạn vẫn nghĩ trái cây bạn đang ăn là an toàn sao? Hãy nghĩ lại đi. Một nghiên cứu mới đây của Anh cho thấy dư lượng thuốc trừ sâu trên một số trái cây phổ biến là cao bất thường. Một số quả như táo, lê, mâm xôi và nho chứa dư lượng thuốc trừ sâu vượt quá giới hạn cho phép. Dư lượng thuốc trừ sâu độc hại trong anh đào, rau diếp và bí ngô cũng đều ở mức nguy hiểm tiềm tàng. Và các sản phẩm này không chỉ đến từ một khu vực – nó bắt nguồn từ khắp nơi trên thế giới, từ Brazil tới Tây Ban Nha đến Canada.

Vì vậy, hãy nhớ rằng khi bạn với tay lấy trái cây ngon tại các cửa hàng, có thể bạn đang vô tình cho con mình ăn cả thuốc trừ sâu. Trái cây và rau củ được phun rất nhiều thuốc bao gồm dâu tây, dưa hấu, ớt chuông, đào, xuân đào, cần tây, khoai tây, cà rốt, và nho nhập khẩu. Với các loại trái cây và rau củ, tôi khuyên bạn nên mua đồ hữu cơ (sạch). Nếu bạn không thể tìm được sản phẩm hữu cơ, hãy trộn hai mươi giọt tinh dầu hạt bưởi, một muỗng canh bicarbonate soda, một chén dấm, và một chén nước với nhau trong bình phun. Phun lên sản phẩm, để đọng khoảng mười phút và sau đó rửa sạch. Quá trình này sẽ loại bỏ một lượng đáng kể dư lượng thuốc trừ sâu. Quả việt quất, bưởi, chuối, bông cải xanh, xoài, xúp lơ trắng, quả bơ, măng tây, hành tây, nho California, cam quýt, dứa, và dưa hấu thường không chứa lượng lớn thuốc trừ sâu.

Theo EPA, 60% thuốc diệt cỏ, 90% thuốc diệt nấm và 30% thuốc trừ sâu rõ ràng là chất gây ung thư. Đáng báo động là dư lượng thuốc trừ sâu đã được tìm thấy trong hơn một nửa thực phẩm Mỹ.

Hầu hết thuốc trừ sâu chứa rất nhiều độc tố và không có loại thuốc trừ sâu nào mà không có tiềm năng gây ung thư. Bằng chứng thuyết phục nhất về thuốc trừ sâu gây ung thư là từ các nghiên cứu dịch tễ học. Thuốc diệt cỏ phổ biến 2,4-D (còn gọi là “Weed-B-Gone”) đã được chứng minh làm tăng nguy cơ ung thư bạch huyết ở nông dân gấp sáu lần tỷ lệ bình thường, theo báo cáo của Viện Ung thư Quốc gia. (Sinclair, W. 18, “Studies Show Why Pesticides Are More Dangerous than Previously Realized” (Những nghiên cứu cho thấy tại sao thuốc trừ sâu nguy hiểm hơn nhận thức trước đây )). Hầu hết mọi người không nhận ra 2,4-D chiếm một nửa công thức của chất độc da cam, và là một trong những nguồn dioxin hàng đầu tại Mỹ. Dow Chemical là nhà sản xuất 2,4-D lớn nhất.

Các nhà khoa học tin rằng việc sử dụng các hóa chất diệt cỏ (như Weed-B-Gone) là yếu tố quan trọng làm gia tăng 50% u lympho ác tính không Hodgkin trong vòng 20 năm qua ở dân chúng Mỹ (Tổ chức Y tế Thế giới, 2,4-D Environmental Aspects. Geneva, Thụy Sĩ, 1989). 2,4-D cũng có quan hệ đến bệnh u lympho ác tính ở chó. Thú cưng bị tiếp xúc với thuốc diệt cỏ nhiều hơn, vì chúng gần sát hơn với mặt đất, nơi có nồng độ cao nhất. Nghiên cứu cho thấy nguy cơ u lympho tăng gấp đôi ở những con chó mà chủ của chúng xử lý cỏ bốn lần mỗi năm.

Xét đến thực tế 2,4-D là độc tố và chất gây ung thư đã rõ ràng, hẳn người ta cho rằng EPA sẽ muốn ngăn cấm bán sản phẩm này. Không hề! Tháng 11 năm 2013, EPA đã từ chối đơn yêu cầu cấm bán 2,4-D trong nước. Và Dow Chemical tin rằng doanh số bán hàng sẽ tăng vọt trong những tháng tới, vì họ đang chờ chính phủ Mỹ phê duyệt loại cây trồng công nghệ biến đổi gen kháng được 2,4-D mà họ tạo ra. Nếu được chấp thuận, nông dân sẽ có thể trồng “ngô Franken” và dội thuốc diệt cỏ xuống cả cánh đồng để loại bỏ cỏ dại không mong muốn. Mặc dù 2,4-D hiện chưa được sử dụng nhiều trên các cánh đồng ngô, mọi thứ có thể sớm thay đổi vì vụ mùa thành công nhất của Mỹ nếu “ngô Franken” của họ được chấp thuận.

Tờ New York Times cho biết, Hội đồng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (The National Resources Defense Counsil), một nhóm giám sát môi trường, tranh luận rằng việc tiếp xúc với 2,4-D đã gây ra một số ca ung thư, rối loạn nội tiết tố, đột biến gen và nhiễm độc thần kinh. Tuy nhiên, khi biểu quyết không xem xét kiến nghị chống lại thuốc trừ sâu, EPA cho biết họ tin rằng không có đủ bằng chứng đáng kể để dấy lên nghi ngờ.

Năm 1983, Viện Ung thư Quốc gia đã nghiên cứu 3.827 công nhân phun thuốc trừ sâu ở Florida có thời gian hành nghề hơn 20 năm. Họ thấy rằng những công nhân này có nguy cơ phát triển ung thư phổi cao gấp gần ba lần và nguy cơ phát triển ung thư não gấp hai lần. Không có sự gia tăng nguy cơ ở những công nhân phun thuốc trừ sâu mới có thâm niên năm năm (Tạp chí NCI, tháng 7, 1983).

Nói về thuốc diệt côn trùng thì DEET là hóa chất được Quân đội Mỹ cấp bằng sáng chế vào năm 1946 và vẫn được công nhận rộng rãi như một loại thuốc diệt muỗi hiệu quả. Trong thực tế, hầu hết các thuốc diệt côn trùng thương mại được sản xuất với các nồng độ DEET khác nhau. Hiện nay, DEET được sử dụng trong 230 loại sản phẩm. Tuy nhiên, chẳng có gì là tốt đẹp với DEET. Khi kết hợp với các hóa chất hay các thuốc khác, DEET có thể có tác dụng độc hại lên não và cơ thể. DEET đã được chứng minh là gây co giật, tổn thương thần kinh, mất trí nhớ, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ và khớp, run, và khó thở. Trẻ em thậm chí còn dễ bị những thay đổi rất nhỏ ở não do tiếp xúc với hóa chất độc hại trong môi trường, vì làn da của các bé dễ hấp thụ chúng hơn. Vì vậy, bạn không bao giờ được sử dụng bất kỳ sản phẩm chứa DEET nào cho trẻ sơ sinh!

Từ những năm cuối 1970, đã có rất nhiều báo cáo về mối liên hệ giữa thuốc trừ sâu với ung thư bạch cầu ở trẻ em. Một nghiên cứu năm 1987 của NCI cho thấy trẻ em sống trong những gia đình sử dụng thuốc trừ sâu có nguy cơ phát triển ung thư bạch cầu cao gấp gần bốn lần. Với những bé sống trong những gia đình có phun thuốc trừ sâu lên bãi cỏ và vườn, nguy cơ ung thư bạch cầu cao gấp 6,5 lần (bác sĩ John Peters, USC, Tạp chí NCI, tháng 7 năm 1987).

Bạn đã bao giờ nghe nói về atrazine chưa? Atrazine là một loại thuốc diệt cỏ mạnh được dùng trên hơn 70% các cánh đồng ngô của Mỹ. Dấu vết của hóa chất này thường xuất hiện ở suối và giếng và thậm chí cả trong nước mưa ở Mỹ, và dư lượng atrazine cũng thường được tìm thấy trong thực phẩm của chúng ta. Thế thì sao? Vâng, hóa chất độc hại này, gần đây đã bị Liên minh châu Âu cấm, là một chất nghi ngờ gây ung thư và rối loạn nội tiết có liên quan đến vấn đề số lượng tinh trùng thấp ở nông dân. Thực tế là Tyrone Hayes, nhà nghiên cứu động vật bò sát tại UC Berkeley, trong khi làm nghiên cứu thay mặt cho Syngenta (nhà sản xuất atrazine), đã phát hiện ngay cả ở nồng độ thấp đến 0,1 phần tỷ, atrazine vẫn có thể làm mất khả năng sinh sản của một con ếch đực, làm cho tuyến sinh dục của nó sinh ra trứng, tức là, biến con đực thành lưỡng tính. Không biết bạn thế nào, chứ tôi thì không bao giờ cho con trai tôi tiếp xúc với atrazine!

 

Trong bài báo số ra tháng 6 năm 2006 trên New York Times tựa đề “The Way We Live Now” (Cách chúng ta sống ngày nay), tác giả Michael Pollen chỉ trích: “Atrazine thường xuất hiện trong các đường dẫn nước ở Mỹ với nồng độ cao hơn 0,1 phần tỷ nhiều lần. Nhưng giới chức Mỹ nhìn chung không cấm thuốc trừ sâu cho đến khi các xác chết hoặc các ca ung thư bắt đầu dồn đống lên – nghĩa là, cho đến khi các nhà khoa học có thể chứng minh mối liên hệ giữa phân tử tình nghi với bệnh tật ở người hay thảm họa sinh thái. Vì vậy atrazine, ít nhất là trong hệ thống thực phẩm của Mỹ, sẽ vẫn được coi là vô can cho đến khi tội lỗi được chứng minh – một tiêu chuẩn về bằng chứng vô cùng khó đạt được, vì việc này đòi hỏi kết quả của những xét nghiệm hoá học trên người mà lương tâm không cho phép chúng ta thực hiện. Không biết bạn thế nào, còn tôi, là cha của một cậu bé vị thành niên, tôi khá thích ý tưởng giữ cho phân tử đó tránh xa chế độ ăn uống của con trai mình…”