Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box)

Chương 1: CÔNG NGHIỆP UNG THƯ & MAFIA Y TẾ

Hãy chuẩn bị tinh thần

Những gì bạn sắp đọc có thể sẽ thách thức tất cả mọi thứ bạn từng nghe nói kể từ khi được sinh ra. Từ bé, chúng ta đã được dạy tin tưởng một cách mù quáng mọi thứ chúng ta đọc trên sách vở và Internet, những điều chúng ta nghe trên đài phát thanh, và những gì chúng ta xem trên TV. Kết quả là, nước Mỹ đầy rẫy những “sheeple” (những người ngoan ngoãn như cừu, dễ bị thuyết phục, trí tuệ phụ thuộc, và có xu hướng chạy theo đám đông).

Trong cuốn sách này, tôi sẽ yêu cầu bạn bước ra khỏi “vòng cương tỏa” và thực sự nghĩ cho chính mình. Tôi sẽ yêu cầu bạn vượt qua nhân tố “không thể” đang phổ biến với hầu hết người Mỹ. Tanya Harter Pierce, tác giả cuốn Outsmart Your Cancer (Khôn ngoan hơn ung thư) gọi đấy là “nhân tố hoài nghi”. Khi tôi bắt đầu tìm hiểu về thành công của liệu pháp điều trị ung thư thay thế gần mười năm trước và muốn chia sẻ hiểu biết với những người khác, phản ứng phổ biến là “KHÔNG THỂ!”

Nhân tố “không thể” dựa trên nhận thức sai lầm rằng nếu liệu pháp điều trị ung thư thay thế thực sự hiệu quả, bác sĩ ung thư khắp mọi nơi “không thể” cứ sử dụng liệu pháp điều trị chính thống. Điều hầu hết chúng ta không nhận ra là phần lớn các bác sĩ ung thư cũng phải chịu đựng các nhân tố “không thể”. Họ tin rằng nếu liệu pháp điều trị ung thư thay thế có hiệu quả, họ “không thể” tốt nghiệp trường Y mà không nghe về những phương pháp đó. Thật không may, các trường Y phần lớn nhận tài trợ từ các công ty dược phẩm lớn có quyền lợi được đảm bảo trong điều trị chính thống.

Thông tin trong cuốn sách này có thể sẽ gây sốc cho bạn. Đôi khi, phản ứng tự nhiên của bạn là hoài nghi, ngờ vực và không tin. Tôi hoàn toàn hiểu được những phản ứng đó vì bản thân tôi đã từng như thế. Một nghiên cứu gần đây cho thấy truyền hình gây tổn thương não bộ và làm mất khả năng thể hiện tư duy phê phán, do đó nhiều người trong chúng ta lớn lên dán mắt vào truyền hình phải vượt qua sự tẩy não này để giải phóng tâm trí. Nếu bạn có thể bước ra khỏi “vòng cương tỏa” một vài giờ trong khi đọc cuốn sách này, tôi biết bạn sẽ rất vui vì đã làm điều đó. Thực tế là nó có thể cứu sống bạn hoặc người thân!

Âm mưu & công nghiệp ung thư

Tục ngữ có câu “Không có lửa làm sao có khói”. Sự thật là có rất nhiều thuyết âm mưu và cũng có nhiều trang web vạch trần chúng. Trong các thuyết âm mưu này, một số vô nghĩa, một số có vẻ hợp lý, và một số trong đó tiệm cận sự thật.

Nhưng điều này không có gì mới. Trong phần giới thiệu cuốn sách của mình The Healing of Cancer (Chữa bệnh ung thư), Barry Lynes minh chứng rằng âm mưu này đã tồn tại hơn nửa thế kỷ: “Năm 1953, một điều tra của Thượng viện Mỹ báo cáo rằng tồn tại một âm mưu ngăn chặn điều trị ung thư hiệu quả. Thượng nghị sĩ phụ trách việc điều tra đã chết. Cuộc điều tra bị tạm dừng. Đó không phải là người đầu tiên cũng không phải là cuối cùng trong số những cái chết kỳ lạ có liên quan đến những người ở các vị trí làm thiệt hại cho những kẻ đang tiến hành chương trình ung thư quốc gia.”

Ông tiếp tục, “Nhiều năm qua, Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ (AMA) và Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) lên danh sách đen các nhà nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư mới cần phải được loại trừ.” Ông Lynes trích lời một phóng viên điều tra đề cập đến AMA và ACS như thể một “hệ thống các ban kiểm tra sẵn sàng chộp giữ bất cứ ai quảng bá liệu pháp điều trị ung thư chống lại quan điểm và lợi nhuận cơ bản của họ.”

Tôi đã từng tin rằng “âm mưu ung thư” là hậu quả không chủ ý của lòng tham tiền và thực sự không có ác ý trong bản chất của nó. Tuy nhiên, do những câu chuyện như ba câu chuyện dưới đây, tôi tin rằng mình đã có chút ngây thơ trong đánh giá ban đầu về tình hình.

Năm 1931, Cornelius Rhoads, một nhà nghiên cứu bệnh học của Viện Nghiên cứu Y học Rockefeller, đã chủ ý gây nhiễm tế bào ung thư trên người để thí nghiệm ở Puerto Rico, và 13 người trong số họ đã chết. Sau đó, ông thiết lập các phương tiện chiến tranh sinh học cho quân đội Mỹ ở Maryland, Utah và Panama, và được bổ nhiệm vào Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ. Tại đây, ông bắt đầu một loạt các thí nghiệm tiếp xúc với bức xạ trên lính Mỹ và bệnh nhân tại một bệnh viện dân sự.

Sau đó, vào năm 1963, Chester M. Southam (người đã tiêm cho tù nhân ở nhà tù tiểu bang Ohio các tế bào ung thư sống hồi năm 1952) đã thực hiện những quy trình tương tự trên 22 bệnh nhân nữ người Mỹ gốc Phi để xem phản ứng miễn dịch của họ. Ông ta nói với các bệnh nhân rằng họ đã nhận được “một số tế bào”, nhưng phớt lờ sự thực đó là các tế bào ung thư. Mỉa mai thay, sau này Southam lại trở thành chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu ung thư!

Năm 1981, Tập đoàn Genetic Systems có trụ sở tại Seattle bắt đầu tiến hành thí nghiệm y học được gọi là “Giao thức số 126”. Theo đó, bệnh nhân ung thư tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle được cấy ghép tủy xương có chứa tám protein thử nghiệm do Genetic Systems sản xuất, chứ không phải là cấy ghép tủy xương tiêu chuẩn. Kết quả là 19 “đối tượng thí nghiệm” đã chết vì những biến chứng liên quan trực tiếp đến điều trị thử nghiệm.

Xin lưu ý trên đây không là các trường hợp cá biệt. Có hàng trăm chuyện tương tự trong thế kỷ qua. Bạn có thể tìm hiểu thêm những chuyện nhơ nhớp về các thử nghiệm y học trên người ở trang web sau đây www.www.naturalnews.com/019187.html.

Như vậy, có phải là tất cả những người làm việc trong lĩnh vực y tế và lĩnh vực nghiên cứu ung thư đều đang chủ ý tham gia thử nghiệm trên người hoặc là một phần có ý thức của âm mưu kìm hãm việc chữa trị ung thư hay không? Tất nhiên là không. Hầu hết các bác sĩ, y tá, và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đều thực sự quan tâm đến con người và đang làm những gì họ tin là tốt nhất cho bệnh nhân. Trên thực tế, hầu như tất cả mọi người (kể cả các chuyên gia y tế) đều chịu ảnh hưởng của ung thư.

Trong cuốn băng năm 1975 The Politics of Cancer (Chính trị ung thư), G. Edward Griffin giải thích “hãy đối mặt với chuyện này, những người này cũng có thể chết vì ung thư như những người khác… rõ ràng họ không có chủ ý cản trở việc kiểm soát [chữa trị] ung thư. Nghĩa là, các tập đoàn y tế [dược, hóa] độc quyền đã tạo ra một khuynh hướng trong hệ thống giáo dục của chúng ta. Ở đó, chân lý khoa học thường bị hy sinh cho những lợi ích bất di bất dịch…”

Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy các “hoàng đế” tự xưng là “chuyên gia” y tế về điều trị ung thư chẳng có cơ sở gì cả! Tôi sẽ chứng minh trong thế kỷ qua, đã có một âm mưu như sau:

 

·         Ngăn chặn điều trị ung thư thay thế và bắt bớ những người ủng hộ những liệu pháp điều trị như vậy.

·         Tẩy não công chúng để họ tin rằng Big 3 (hóa trị, xạ trị và phẫu thuật) là những lựa chọn khả thi duy nhất để điều trị ung thư.

·         Quảng cáo và bán Big 3, bởi mục tiêu của công nghiệp ung thư là kiếm tiền.

Trước hết, tôi xin giải thích một số thuật ngữ cơ bản. Big Medicine bao gồm Viện Ung thư Quốc gia (NCI), Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) và Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ (AMA). Các đại gia dược phẩm đa quốc gia được gọi tắt là Big Pharma. Công nghiệp ung thư được tạo thành từ mạng lưới các tập đoàn gây ô nhiễm, Big Medicine, FDA, Big Pharma, các tập đoàn công nghiệp hàng đầu và các nhóm vận động chính trị hành lang, với mục tiêu là giữ nguyên hiện trạng và che giấu công chúng về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế, theo đó đảm bảo lợi nhuận cho cổ đông của Big Pharma. Theo tôi, những chiến lược đồi bại (của những doanh nhân và quan chức tham nhũng) có sự tương đồng ghê gớm với hành vi sát nhân. Vì vậy đôi khi tôi sử dụng thuật ngữ “mafia y tế” như một từ lóng chung (và tất nhiên, có hàm ý miệt thị) để ám chỉ tổ chức tội phạm này.

Sự khởi đầu của “mafia y tế”

Tôi xin nói một chút về nguồn gốc của “mafia Y tế”. Hãy quay trở lại năm 1910 để tìm hiểu về John D. Rockefeller và báo cáo Flexner. Tôi dám cá là bạn chưa bao giờ nghe nói về báo cáo này, phải vậy không? Mục tiêu của Rockefeller là thống trị thị trường dầu, hóa chất và dược phẩm, vì vậy công ty của ông ta (Standard Oil of New Jersey) đã mua quyền kiểm soát một công ty thuốc/hóa chất khổng lồ của Đức tên là I.G. Farben.

Lưu ý, I.G. Farben là nhà tài trợ lớn nhất cho chiến dịch tranh cử của Adolph Hitler. Một năm trước khi Hitler lên nắm quyền, I.G. Farben đã quyên tặng 400.000 mác cho Hitler, đảng Quốc xã và đội cận vệ của ông ta (SS). Theo đó, sau khi Hitler nắm quyền, I.G. Farben là kẻ trục lợi lớn nhất trong cuộc chinh phạt thế giới của Đức trong Thế chiến thứ hai. Trong khi hàng triệu người đang bị cầm tù và giết hại thì I.G. Farben thu lợi nhuận.

I.G. Auschwitz – công ty con 100% của I.G. Farben, là tổ hợp công nghiệp lớn nhất thế giới về sản xuất xăng dầu và cao su tổng hợp phục vụ cuộc chinh phạt châu Âu. Auschwitz sử dụng tù nhân trong trại tập trung làm “lao động nô lệ” ở nhà máy của họ. Nhưng lại không có “kế hoạch hưu trí” cho các tù nhân của trại tập trung Auschwitz. Những người không đủ sức lao động bị thải loại ở cổng chính của nhà máy Auschwitz và được đưa đến các phòng hơi ngạt. Thậm chí, khí hóa học Zyklon-B được sử dụng để thủ tiêu hàng triệu người vô tội là kết quả từ các dự án và nhà máy của I.G. Farben.

Năm 1941, Otto Armbrust (thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben chịu trách nhiệm về dự án Auschwitz) đã tuyên bố với các đồng nghiệp: “Sự hợp tác với SS là một phước lành. Chúng ta đã tìm ra những biện pháp tận dụng các trại tập trung để đem lại lợi ích cho công ty”. Tập đoàn I.G. Farben sử dụng các nạn nhân của trại tập trung như những con chuột bạch. Hàng chục ngàn người đã chết trong các thí nghiệm trên con người để thử nghiệm vắc-xin mới. Sau cùng, hơn 300.000 tù nhân chịu ảnh hưởng của hệ thống Auschwitz. Hơn 25.000 người đã phải làm việc cho đến chết, trong khi rất nhiều người khác bị giết chết trong các phòng hơi ngạt hoặc do những thí nghiệm thực hiện trên con người.

Có người nghĩ rằng sau khi kết thúc chiến tranh, do dính líu đến cái chết của hàng triệu người ở Auschwitz, các thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben sẽ bị các công ty dược phẩm Mỹ “tẩy chay”. Nhưng bạn đã bao giờ nghe về Tập đoàn Bayer chưa? Tất nhiên là rồi. Năm 1956, Bayer bổ nhiệm Fritz ter Meer, thành viên hội đồng quản trị I.G. Farben, người bị kết án tội phạm chiến tranh tại phiên tòa Nuremberg, làm Chủ tịch hội đồng quản trị.

Hãy trở lại năm 1910 và bài học lịch sử của chúng ta về báo cáo Flexner. Nhằm xây dựng tập đoàn thuốc của mình, Rockefeller cần “giáo huấn lại” ngành y tế để kê đơn nhiều thuốc hơn, vì thế ông ta thuê Abraham Flexner đi khắp đất nước và đánh giá về thành công của các trường đại học y khoa tại Mỹ. Trong thực tế, có rất ít “đánh giá” của Flexner; kết quả nghiên cứu của ông đã được xác định từ trước.

Rốt cuộc, Flexner đệ trình cho Quỹ Carnegie một báo cáo mang tựa đề “Giáo dục y tế ở Mỹ và Canada”, thường được gọi là “Báo cáo Flexner”. Công bố năm 1910, báo cáo Flexner đề nghị tăng cường các khóa học dược lý và bổ sung các phòng nghiên cứu ở tất cả các trường y “đủ điều kiện”. Tóm lại, ý chính của báo cáo đó là việc mở một trường y là quá dễ dàng và hầu hết các trường không giảng dạy nhiều về thuốc. Nói cách khác, các trường này không đẩy mạnh việc sử dụng thuốc.

Với sự hậu thuẫn được bảo đảm nhờ báo cáo Flexner, Carnegie và Rockefeller bắt đầu “nâng cấp” giáo dục y tế bằng cách chỉ tài trợ những trường y giảng dạy những gì họ muốn. Nói cách khác, họ ngay lập tức đổ hàng trăm triệu đô la vào các trường y giảng dạy “chú trọng vào thuốc”.

Đổi lại việc được tài trợ, các trường được yêu cầu tiếp tục giảng dạy các môn riêng về thuốc, không chú trọng vào y học tự nhiên. Hệ quả của báo cáo Flexner là tất cả các trường y được chính thức công nhận đều chú trọng tới thuốc và nghiên cứu thuốc.

Năm 1913, AMA tiếp tục tấn công mạnh mẽ hơn bằng cách thành lập các “ban tuyên truyền” chuyên công kích các liệu pháp điều trị không chính thống và bất cứ ai thực hành các phương pháp đó. Mục đích từ đầu của báo cáo Flexner là dán nhãn cho các bác sĩ không chịu kê đơn là “lang băm” và “lang vườn”. Những trường y cung cấp các khóa học về liệu pháp điều trị tự nhiên và vi lượng đồng căn được yêu cầu cắt bỏ các khóa học đó khỏi chương trình giảng dạy hoặc không được công nhận. Không ngạc nhiên khi số lượng các trường y khoa được công nhận ở Mỹ đã giảm một nửa trong khoảng từ năm 1910 đến năm 1944.

Nhà xã hội học y tế Paul Starr đã viết trong cuốn sách đoạt giải Pulitzer của mình, The Social Transformation of American Medicine (Sự chuyển hóa xã hội của nền y học Mỹ): “Hội đồng AMA đã trở thành cơ quan kiểm định quốc gia cho các trường y, số lượng các bang tuân theo sự kiểm định không thể chấp nhận được này ngày càng tăng”. Hơn nữa, ông lưu ý: “Mặc dù không có cơ quan lập pháp nào trao quyền cho hội đồng AMA về giáo dục y tế, nhưng quyết định của họ lại có sức mạnh của pháp luật”. Vì vậy, AMA đã trở thành cơ quan lập pháp mới và được trao quyền xác định những trường y nào theo đúng chuẩn y học chính thống và những trường nào không.

Trái với quan niệm phổ biến, AMA không phải là cơ quan chính phủ. Đó là một tổ chức tư nhân hoạt động từ năm 1847 và về cơ bản đó là “nghiệp đoàn bác sĩ”. Sự khác biệt duy nhất giữa AMA và nghiệp đoàn công nhân ngành thép là các thành viên AMA mặc áo trắng, trong khi công nhân ngành thép mặc áo xanh. Và giống như nhiều nghiệp đoàn lao động khác, trên đỉnh của tổ chức này là các “ông trùm mafia”.

Cuối cùng, kế hoạch của Rockefeller thành công vang dội và xung đột lợi ích giữa Big Pharma và Big Medicine tiếp diễn cho đến ngày nay. Trong cuốn sách Cancer-Gate: How to Win The Losing Cancer War (Cách đảo ngược cục diện cuộc chiến ung thư), bác sĩ Samuel Epstein giải thích rằng trong thế kỷ qua, ACS, NCI và AMA đều héo mòn vì các xung đột lợi ích cá nhân và tập thể về quyền lợi với Big Pharma. Như thừa nhận thẳng thắn của vị giám đốc hiện thời của NCI thì NCI đã trở thành một “công ty dược của chính phủ”.

Bác sĩ Epstein cũng ghi lại vì tiền mà công nghiệp ung thư ngăn cản hàng núi thông tin về những nguyên nhân gây ung thư do môi trường thay vì tạo điều kiện cho cộng đồng tiếp cận những thông tin này. Trong cuốn The Politics of Cancer Revisited (Chính trị ung thư), bác sĩ Epstein nói rõ, “Chính các cơ sở điều trị ung thư cũng đã không cung cấp cho công chúng, đặc biệt là người Mỹ gốc Phi và những nhóm người người nghèo có tỷ lệ mắc ung thư cao không tương xứng, những thông tin về tránh tiếp xúc chất gây ung thư, theo đó tước đi quyền được biết của họ và ngăn cản họ có hành động tự bảo vệ – một sự phủ nhận trắng trợn về công bằng”.

Đó là một bài toán kinh tế đơn giản. Việc che giấu công chúng về các nguyên nhân gây ra ung thư dẫn đến nhiều bệnh nhân ung thư hơn. Nhiều bệnh nhân ung thư dẫn đến bán được nhiều thuốc hóa chất, liều xạ trị và ca phẫu thuật hơn.

Không phải đạo đức và lương tâm, tiền bạc mới là yếu tố quyết định của công nghiệp ung thư và mafia y tế. Nói thẳng, mục đích của họ là làm thuyên giảm tạm thời các triệu chứng ung thư bằng thuốc, trong khi chẳng bao giờ tập trung vào nguyên nhân gây ung thư. Việc này đảm bảo bệnh nhân phải đến bác sĩ thường xuyên và đòi hỏi họ thường xuyên quay trở lại các hiệu thuốc để mua bổ sung đơn thuốc. Luật chơi là vậy, dễ hiểu và đơn giản. Big Pharma là tập hợp của các công ty có mô tả rõ nhất là “những kẻ trục lợi dược phẩm”. Từ chối hay thỏa hiệp. Bỏ mặc ngoài tai. Nghĩ đến những điều hạnh phúc. Hoặc tiếp tục đọc và cởi mở tâm trí. Đó là lựa chọn của bạn.

Tôi có một yêu cầu: Xin đừng bỏ qua những sự thật trong cuốn sách này chỉ vì bác sĩ không bao giờ nói cho bạn về chúng, hoặc bởi vì một số trong đó khó tin, hoặc bởi vì liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị Công nghiệp ung thư dán nhãn “lang băm” hoặc “vô nghĩa”, hoặc bởi vì rất nhiều trong số các sự thật đó đối lập hoàn toàn với những gì bạn nghe ở bản tin hằng đêm. Hãy cố gắng bước ra khỏi lối mòn và cởi mở tâm trí cho những điều có thể bạn đã bị lừa dối và rằng có những liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả hơn rất nhiều so với Big 3 (hóa trị, xạ trị và phẫu thuật). Bác sĩ Robert Atkins diễn tả đúng nhất: “Không chỉ có một, mà có rất nhiều liệu pháp chữa trị ung thư. Nhưng tất cả đều bị ACS, NCI và những trung tâm ung thư lớn cản trở một cách có hệ thống. Họ muốn giữ nguyên hiện trạng”.

Sự tồn tại của mafia y tế và Big Pharma phụ thuộc vào việc loại bỏ (bằng mọi giá) các liệu pháp điều trị tự nhiên hiệu quả. Bằng cách khiến việc tiếp cận các phương thuốc tự nhiên trở nên khó khăn hơn, các “băng đảng y tế” đang bảo vệ sự độc quyền của họ, đồng thời nuôi dưỡng sự cuồng vọng của chính mình. Chân lý phải được nói ra, đặc biệt là liên quan đến liệu pháp điều trị ung thư, mafia y tế và bè lũ Big Pharma của họ đang tiến hành một âm mưu tống tiền khổng lồ, và những chiến lược của họ làm cho Pol Pot trông giống như một cậu bé của dàn hợp xướng! Bất kể bạn là bác sĩ hay bệnh nhân, nếu bạn cản trở mafia y tế, sau đó rất có khả năng bạn sẽ được đầu gấu hỏi thăm, họ sẽ hăm dọa và ép buộc bạn phải khuất phục và vâng lời.

Theo lời bác sĩ Henry Jones: “Ngay sau khi độc quyền y tế được thiết lập, nó đã bắt đầu xúc tiến một kế hoạch nhằm tiêu diệt tất cả đối thủ cạnh tranh. Một cuộc thanh trừng trên toàn quốc được tổ chức chu đáo cũng như được tài trợ đầy đủ đã được thực hiện đối với tất cả các cơ sở không chính thống. Trong suốt nửa đầu của thế kỷ 20, độc quyền y tế này đã tìm cách đóng cửa hơn 40 trường y. Ý định của họ là hạn chế tối đa số lượng bác sĩ để phí khám chữa bệnh tăng lên. Sau Thế chiến thứ hai, độc quyền y tế bắt đầu kiểm soát chặt chẽ số lượng chuyên khoa y tế được phép giảng dạy, đồng thời cấm đoán hoặc loại bỏ hơn 70 nghề chuyên môn liên quan đến chăm sóc sức khỏe. ‘Bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng’, như thường lệ, là cái cớ hợp lý cho cuộc chiếm đoạt quyền lực này. Cho dù đối tượng hủy diệt dưới tay sự độc quyền y tế là người chữa bệnh theo phép vi lượng đồng căn, bà đỡ, người chữa bệnh bằng phương pháp nắn khớp xương, hoặc những người kê đơn qua mạng, cuộc thanh trừng cũng được thực hiện theo cách tương tự…”

Cuộc chiến ung thư

“Cuộc chiến ung thư” được Chính phủ liên bang chính thức tuyên bố năm 1971, và được Tổng thống Richard Nixon ký thành luật. Trong gần bốn thập kỷ qua, nó thực sự trở thành một vũng lầy, một cuộc chiến nắm chắc phần thất bại và không có hồi kết, tiêu tốn hàng tỷ đô la mỗi năm. Từ năm 1971, hơn hai nghìn tỷ đô la đã được chi cho các nghiên cứu và liệu pháp điều trị ung thư chính thống.

Tuy nhiên, mặc cho (hoặc có lẽ bởi) những chi phí khổng lồ này, công nghiệp ung thư vẫn tiếp tục bỏ qua những ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực điều trị ung thư thay thế. Theo bác sĩ John Bailer, người đã làm nhân viên NCI trong 20 năm và là biên tập viên tờ tạp chí của tổ chức này, phát biểu tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Mỹ vì sự tiến bộ khoa học vào tháng 5 năm 1985: “Đánh giá tổng thể của tôi là chương trình ung thư quốc gia phải được xem như là một thất bại”.

Thực tế là, công nghiệp ung thư (do các “trùm mafia” dẫn dắt) đã tiến hành một cuộc chiến khác – cuộc chiến chống lại những người ủng hộ việc sử dụng các liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Bản chất của cuộc chiến mới này là đồng đô la toàn năng. Bạn không tin tôi ư? Năm liệu pháp điều trị ung thư thay thế hàng đầu là gì? Liệu bạn có thể nêu tên một liệu pháp điều trị ung thư thay thế không? Mafia y tế và Big Pharma nắm phương tiện truyền thông trong tay họ, do đó các liệu pháp điều trị ung thư mà hầu hết chúng ta được biết là Big 3. Trừ phi là người hay tìm hiểu trên mạng, còn không ,nhiều khả năng là bạn không được tiếp xúc với nhiều thông tin có giá trị về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Sự thật là vì liệu pháp điều trị chính thống đem lại lợi nhuận cao nhất, nên chúng được chào mời như liệu pháp điều trị hiệu quả nhất. Tất cả xoay quanh khía cạnh kinh tế của ung thư, chứ không phải là tìm cách chữa trị. Trong cuốn sách Gangsters in Medicine (Những gã găng-xtơ trong y học), Thomas Smith đã nói một cách chính xác, “[Hệ thống y tế] không được lập ra để cứu và chữa bệnh; mà đó là một tổ chức thương mại kiếm tiền cho các thành viên.”

Là kiểm toán viên, tôi có xu hướng quan sát mọi thứ từ góc độ kinh tế. Tôi phải nói rằng xét trên góc độ đó, Công nghiệp ung thư có mô hình kinh doanh hoàn hảo. Big Pharma và các công ty hóa chất khác kiếm được lợi nhuận khổng lồ từ việc bán hóa chất gây ung thư được đưa vào (đôi khi cố ý) trong thực phẩm, nước và không khí của chúng ta. Sau đó, họ kiếm thậm chí nhiều lợi nhuận hơn qua sản xuất và bán những thuốc độc hại, đắt đỏ và không hiệu quả để điều trị ung thư và các bệnh khác gây ra bởi chính sản phẩm của họ. Rồi họ bán thêm các loại thuốc làm cho cơ thể chịu đựng được các tác dụng phụ của thuốc chính. Trong ngôn ngữ kinh doanh, Công nghiệp ung thư đang ngồi trên một “con bò sữa”. Thật không may, con bò sữa này là mưu đồ bất lương nhắm vào chi phí của bệnh nhân ung thư.

Đau đớn hơn, họ để cho những kẻ nộp thuế (như bạn và tôi) tài trợ cho những nghiên cứu tìm ra thêm nhiều cách không chữa khỏi ung thư trong khi vẫn đẩy mạnh bán thuốc của họ với lợi nhuận ghê gớm. Để đảm bảo công chúng vẫn vui vẻ không hay biết những thông tin thật về ung thư, họ đã thành lập nhóm cổ vũ (như ACS) để truyền bá thông tin sai lệch, trong khi phần còn lại của mafia y tế bận rộn chiến đấu trong cuộc chiến thù địch tranh giành lãnh địa để đảm bảo liệu pháp điều trị ung thư thay thế tiếp tục bị kìm hãm và các bác sĩ sử dụng những liệu pháp này bị ngược đãi và không thể hành nghề.

Một cách chiến đấu của cuộc chiến tranh giành lãnh địa này là thông qua quảng cáo. Big Pharma không chỉ kiếm hàng tỷ đô la mỗi năm qua việc bán thuốc, mà họ còn đổ hàng tỷ đô la mỗi năm vào quảng cáo thuốc kê đơn. Vì người dân Mỹ thường đưa ra quyết định quan trọng dựa vào những gì nhìn thấy trên TV và những gì nghe được trên đài phát thanh, nên không khó hiểu khi phần lớn chúng ta không biết đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Mafia y tế đã thực hiện tất cả mọi thứ trong quyền lực của họ để đảm bảo rằng bạn không biết sự thật về điều trị ung thư thay thế. Các đài truyền hình và phương tiện truyền thông khác không dám phát sóng bất cứ thứ gì có thể làm tổn hại đến một trong những khách hàng quảng cáo lớn nhất của họ – Big Pharma.

Tôi tức giận và phẫn nộ vì mafia y tế ngăn chặn liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, đàn áp các bác sĩ sử dụng liệu pháp này và khiến chúng gần như không thể tiếp cận, theo đó gây ra cái chết cho hàng triệu nạn nhân ung thư. Câu chuyện có thật sau đây sẽ khiến bạn đau lòng.

Câu chuyện về Alexander Horwin (theo lời của mẹ em, bà Raphaele): “Vào ngày 10 tháng 8 năm 1998, con trai chúng tôi Alexander Horwin lúc đó mới hai tuổi được chẩn đoán mắc loại u não nhi phổ biến nhất ở trẻ em, u nguyên bào tủy. Sau khi Alexander trải qua hai ca phẫu thuật não, chồng tôi và tôi tìm được liệu pháp không độc hại tốt nhất đã được chứng minh thành công trong việc điều trị ung thư não. Tuy nhiên, vào ngày 21 tháng 9 năm 1998, FDA đã từ chối cho Alexander tiếp cận liệu pháp điều trị có khả năng cứu sống này. Các chuyên gia ung thư nói rằng nếu không dùng hóa trị “hiện đại” của họ thì ung thư sẽ sớm tái phát. Chúng tôi không biết gì về lịch sử, hiệu quả và thực tế nguy hiểm của hóa trị nhưng theo bản năng chúng tôi biết đó là một lựa chọn tồi cho điều trị. Tuy nhiên, khi FDA từ chối cơ hội tốt nhất để Alexander sống sót bằng cách sử dụng liệu pháp không độc hại đã cứu những đứa trẻ khác, chúng tôi không còn lựa chọn điều trị nào khác. Bất đắc dĩ, chúng tôi bắt đầu chạy hóa trị vào ngày 7 tháng 10, năm 1998. Phác đồ điều trị là CCG 9921 bao gồm tiêm tĩnh mạch bốn loại thuốc hóa trị: vincristine, cisplatin, cyclophosphamide (còn gọi là cytoxan), và VP16 (còn gọi là etoposide). Alexander hoàn thành tháng thứ ba chạy hóa trị vào tháng 12 năm 1998 và qua đời vào ngày 31 tháng 1 năm 1999. Nó mới có hai tuổi rưỡi”

Vâng, chắc chắn là có một cuộc chiến giữa mafia y tế và những người ủng hộ liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Nếu bạn tin mafia y tế hành động vì lợi ích cao nhất cho cộng đồng, có lẽ bạn nên đọc cuốn sách do bác sĩ Harvey Wiley viết, ông là người sáng lập FDA (năm 1906) và là vị Giám đốc đầu tiên của tổ chức này. Trong cuốn The History of the Crime Against the Food Law (Lịch sử tội ác chống lại đạo luật thực phẩm), ông mô tả sự tham nhũng trắng trợn xảy ra trong vòng một vài năm sau khi thành lập. Ông nhanh chóng nhận ra rằng mục đích ban đầu đã bị biến chất; ông từ chức và sau đó viết cuốn sách.

Các vấn đề tương tự tiếp tục tồn tại ở FDA trong gần một thế kỷ. Mafia y tế có lịch sử tham nhũng và xung đột lợi ích với Big Pharma. Theo cựu ủy viên FDA, bác sĩ Herbert Ley, như trích dẫn ở bản ghi chép San Francisco vào ngày 1 tháng 1 năm 1970: “Điều làm tôi khó chịu là mọi người nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Không phải vậy. Những gì FDA đang làm và những gì công chúng nghĩ họ đang làm khác nhau một trời một vực.” Năm 1969, bác sĩ Ley điều trần trước Ủy ban Thượng viện và mô tả một số trường hợp cố tình gian dối trong kiểm nghiệm thuốc. Một trường hợp liên quan đến một giáo sư đã thử nghiệm gần 100 loại thuốc cho 28 công ty dược khác nhau. Bác sĩ Ley khai nhận, “Những bệnh nhân đã chết phải rời khỏi bệnh viện hoặc loại ra khỏi nghiên cứu và được thay thế bằng các bệnh nhân khác cho thử nghiệm mà không khai báo trong hồ sơ. 41 bệnh nhân được báo cáo tham gia các nghiên cứu thực ra đã chết hoặc không ở trong bệnh viện trong thời gian nghiên cứu.”

Trong những năm đầu thập niên 1970, một nghiên cứu nội bộ của FDA tiết lộ một phần năm các bác sĩ thực hiện nghiên cứu thực nghiệm các loại thuốc mới đã “ngụy tạo số liệu” gửi đến các công ty dược và đút túi tiền thù lao. Nói cách khác, 20% bác sĩ chỉ nhồi nhét số liệu giả! Theo bác sĩ Judith Jones, cựu Giám đốc Bộ phận thử nghiệm thuốc tại FDA, nếu các dữ liệu thu được từ một bác sĩ lâm sàng chứng minh không đạt yêu cầu đối với loại thuốc đang được nghiên cứu, quy trình vận hành tiêu chuẩn cho công ty dược đó là tiếp tục thử nghiệm ở những nơi khác cho đến khi có được kết quả thỏa đáng và những chứng thực mong muốn. Những kết quả không thuận lợi hầu như không bao giờ được công bố và bác sĩ lâm sàng bị ép phải giữ mồm giữ miệng.

Các bác sĩ là những “nhà nghiên cứu thuốc” chính cho Big Pharma. Hãy nhớ rằng tiền thưởng cho các bác sĩ lâm sàng để ngụy tạo dữ liệu là rất lớn. Khi đánh tráo thành kết quả “nghiên cứu thuận lợi”, các bác sĩ được thưởng các khoản tài trợ nghiên cứu, quà tặng, và đặc quyền hậu hĩnh. Theo John Braithwaite trong cuốn Corporate Crime in the Pharmaceutical Industry (Liên minh tội ác trong ngành công nghiệp Dược), Big Pharma trả tiền lên đến 1.000 đô la cho mỗi sản phẩm, tạo điều kiện cho rất nhiều bác sĩ kiếm được hơn một triệu đô la một năm chỉ từ nghiên cứu thuốc. Và đừng bị đánh lừa – các bác sĩ biết rất rõ nếu họ không tạo ra “kết quả thuận lợi” cho Big Pharma, “việc hái ra tiền” của họ sẽ sớm chấm dứt. Bạn thấy đấy, rất nhiều loại thuốc PHẢI được bán. Để đạt được điều này, mọi thứ đều có thể: dối trá, lừa gạt, và lại quả.

Trong cuộc chiến với ung thư này, mọi thứ đều đã được định đoạt và có cực kỳ ít cơ hội thành công cho những liệu pháp điều trị ung thư thay thế.

Để thành công trong cuộc chiến chống ung thư, chúng ta phải có những người dũng cảm nói ra mà không sợ bị dán nhãn “lệch lạc chính trị” hay “tuyên truyền thuyết âm mưu” (đây là cách xúc phạm thanh danh nhằm bác bỏ những nhà tư tưởng phản biện). Mike Adams (vị thần sức khỏe) là một chiến binh như vậy. Với phong cách hết sức thẳng thắn, ông khẳng định: “Y học phương Tây đã làm hỏng con người. Ngày nay, ngay cả khi thuốc kê đơn được tiêu thụ thường xuyên hơn bao giờ hết trong lịch sử nền văn minh, tỷ lệ béo phì và bệnh mạn tính vẫn tăng vọt.”

Ông tiếp tục: “Tây y đơn giản là không hiệu quả. Đó là hệ thống y học đã lỗi thời bị chi phối bởi lợi ích tài chính của các công ty dược, các quan chức thèm khát quyền lực của FDA, và các bác sĩ lạc hậu mà cái nhìn thiển cận về sức khỏe ngăn cản họ khám phá những căn nguyên trong việc điều trị. Các trường y hiện đại thậm chí không dạy về việc chữa bệnh hay dinh dưỡng. Không một bác sĩ nào của y học phương Tây dạy tôi dù chỉ một chút thôi về sức khỏe.”

Bạn tôi Webster Kehr mô tả cuộc chiến ung thư như sau: “Khi mọi người nghe từ ‘cuộc chiến’, họ nghĩ đến súng đạn, xe tăng, máy bay phản lực và binh lính. Họ nghĩ về những tên độc tài nông cạn vung nắm đấm trên truyền hình. Nhưng cuộc chiến trong y tế rất khác. Những kẻ độc tài trong cuộc chiến này che giấu ý định thật của họ. Đây là ‘cuộc chiến’ mà vũ khí là thông tin. Chào mừng thế kỷ 21, thế kỷ mà kẻ thù nguy hiểm và chết chóc nhất của nước Mỹ đang ở quanh ta.”

Bất luận bao nhiêu người cạo trọc đầu hoặc chạy chữa khắp nơi, chừng nào mafia y tế còn nắm quyền kiểm soát, “cuộc chiến ung thư” sẽ không bao giờ thắng lợi được. Theo bác sĩ Linus Pauling (hai lần đoạt giải Nobel): “Hầu hết các nghiên cứu ung thư là gian lận và các tổ chức nghiên cứu ung thư lớn đều sao lãng nhiệm vụ đối với những người ủng hộ họ.”

Cuộc chiến ung thư này là một trong những trò lừa đảo đắt giá nhất (về mặt tiền bạc và nỗi đau khổ của con người). Lượng tiền khổng lồ đã chi tiêu để theo đuổi cuộc chiến, nhưng “hoàng đế ung thư” vẫn trơ ra đó.

Theo C.S. Lewis trong The Screwtape Letters (Những lá thư Screwtape): “Tội ác lớn nhất không diễn ra trong những “sào huyệt tội phạm” bẩn thỉu mà Dickens thích mô tả. Thậm chí cũng không phải trong các trại tập trung và trại khổ sai. Ở những nơi đó chúng ta đã thấy kết quả cuối cùng. Nhưng tội ác này được thai nghén và tổ chức quy củ trong những văn phòng sạch sẽ, phủ thảm, ấm áp và chiếu sáng, với những người đàn ông trầm lặng mặc áo cổ trắng, cắt móng tay gọn gàng. Do đó, thật tự nhiên, đối với tôi, biểu tượng địa ngục là thứ gì đó giống như… các văn phòng kinh doanh những phi vụ bẩn thỉu.”