Chương 41: Vẫn còn cơ hội
Tôi đóng cửa lại, rồi chạy vào phòng đỡ Giản Tự Viễn đúng lên: “Chúng ta đi thôi, đừng phụ lòng Cốc Y Dương.”
Anh đẩy tôi ra: “Cô cứ chạy đi, kệ tôi. Tôi bị thương thế này không đi nhanh được, sẽ khiến cô bị liên lụy.”
Tôi ngạc nhiên, vì đây không phải Giản Tự Viễn nữa, mà là cảnh sát họ Lý đầy chính nghĩa.
“Tôi đâu có thể để anh ở lại? Anh sẽ chết mất.” Tôi chẳng biết nên khuyên anh ta như thế nào. “Cốc Y Dương đã thu hút chúng bám theo nên chúng ta có đủ thời gian để đi khỏi đây. Đừng dài dòng nữa, đi thôi!” Tôi đỡ anh đi ra tiền sảnh, thả ván và gậy trượt tuyết qua cửa sổ, rồi tôi nhảy ra ngoài trước, sau đó đỡ anh bò ra. Tôi dùng ống ngắm máy ảnh hồng ngoại của Giản Tự Viễn quan sát mọi phía, tịnh không một bóng người. Tôi giúp anh đi ván trượt tuyết, rồi cùng tiến vào màn đêm.
Một tiếng súng từ xa vọng lại, tôi giật mình.
Cốc Y Dương thế nào rồi?
Giản Tự Viễn bị thương nặng hơn tôi nghĩ, nhất là vết thương ở đùi khiến anh gần như không thể trượt tuyết, thỉnh thoảng khe khẽ rên rỉ, hễ dấn bước thì lại đau dữ dội. Sau khoảng mươi phút, chúng tôi đi được chừng trăm mét, ngoảnh lại nhìn, vẫn thấp thoáng thấy căn nhà gỗ. Giản Tự Viễn nói: “Bây giờ biết rồi chứ? Tôi đã làm cô bị khổ lây. Cô cứ đi trước đi!”
Tôi chìa cây gậy trượt tuyết cho anh, nói: “Nắm chặt nó, tôi kéo anh đi!”
Giản Tự Viễn không đưa tay ra: “Na Lan tội gì phải khổ thế này?”
“Để anh ở lại, chúng sẽ phát hiện ra anh ngay đã đành, nhưng gió tuyết này cũng đủ khiến anh chết rét.” Tôi vẫn chìa cây gậy ra. “Anh nắm đi, và đạp bằng cái chân nguyên lành để hỗ trợ tôi. Tốc độ của chúng ta sẽ nhanh hơn nhiều.”
Giản Tự Viễn nắm lấy một đầu gậy. Tôi nhún hai chân, bắt đầu một chặng đường gian nan nhất trong đời tôi.
Lúc đó tôi không ngờ chặng đường gian nan hơn nữa còn ở phía trước.
Tuy nhọc nhằn gian khổ nhưng cách đi này vẫn nhanh hơn lúc trước rất nhiều. Chẳng mấy chốc bóng ngôi nhà gỗ đã hoàn toàn biến mất. Chúng tôi len lỏi trong rừng nên ít có khả năng bị ai phát hiện ra.
“Bây giờ ta đi đâu?” Giản Tự Viễn hỏi. “Hình như đường này lạ hoắc?”
Tôi nói: “Ta lại đến ngôi nhà nhỏ có hầm ngầm. Nếu đi trên đường núi sẽ rất nguy hiểm, dễ bị chúng đoán biết và phát hiện ra. Ta đi vòng qua rừng sẽ an toàn hơn, sau đó đi lên đường cái.”
“Tại sao phải về ngôi nhà ấy? Ở đó không đồ ăn, không nước uống, và cũng khó phòng vệ.” Cái tính khí ngồ ngộ “thích ra oai khiêu chiến” của Giản Tự Viền vẫn không thay đổi.
Tôi nghĩ ngợi, rồi nói: “Cứ đến đó rồi sẽ biết. Tôi nghĩ rằng tôi đã biết nguyên nhân tại sao chúng ta bị truy sát.”
“Thử nói nghe xem nào?”
Tôi lắc đầu: “Bây giờ chuyên tâm vào mà đi đi, rồi tất cả sẽ sáng tỏ.”
Gió và tuyết vẫn không có dấu hiệu dịu bớt, bóng tối thì dường như vô tận, khiến chúng tôi đi thật gian nan. Nhưng gió và tuyết có thể xóa mọi dấu vết, bóng tối có thể che khuất chúng tôi, thì cũng là điều an ủi.
Chỉ lòng tôi thì vẫn không thể nào yên.
Cốc Y Dương thế nào rồi?
Tôi nhớ “bài học” anh dạy mấy hôm vừa rồi: khi đi trên tuyết không nên dốc toàn lực mà nên bước đi đều đều ổn định, thì sẽ được bền lâu. Lúc này gắng sức kéo Giản Tự Viễn, tôi còn phải chú ý nhịp bước cho đều nữa. Bắp chân tôi đã từng bị linh miêu cắn, vết thương không sâu nên không đáng ngại, nhưng giờ đây bước chân phải vận sức nên lại thấy đau.
Đi chẳng rõ bao lâu, rốt cuộc chúng tôi đã đến trước ngôi nhà gỗ nhỏ chuyên chứa dụng cụ. Giàn Tự Viễn bảo tôi cứ chờ ở ngoài, anh khập khiễng bước lên đẩy cửa, rồi lập tức bật đèn pin, khẩu súng lục áp sát ánh đèn chĩa vào nhà. “Không có ai!” Anh hạ tay xuống, tựa lưng vào cửa thở hổn hển. Tôi đỡ anh bước vào, ngồi xuống sàn. Anh hỏi: “Thế nào, bây giờ cho tôi biết câu trả lời được chưa?”
Tôi nói: “Tôi cũng chịu.”
“Cô giỡn tôi à?"
“Vì tôi còn phải tìm đã.” Tôi bới trong đám dụng cụ, lấy ra cái xẻng.
Giản Tự Viễn bám tay tôi, đứng dậy: “Nếu đi thì hai ta cùng đi, tôi ít ra có thể cảnh giới cho cô. Nhưng cô phải giải thích trước đã?”
Tôi lần túi áo lấy ra bức ký họa ngôi nhà do Thạch Vi vẽ, và cả chiếc máy ảnh của Giản Tự Viễn nữa. Anh bật đèn pin. Tôi nói: “Tất cả mới chỉ là giả thiết, nếu anh cho là hoang tưởng thì tôi cũng đành. An Hiểu bắt đầu thoát khỏi trạng thái người thực vật, bắt đầu nói được, cô ta có nói một chữ “họa”. Cốc Y Dương tìm thấy bức ký họa của Thạch Vi trong đó có vẽ ngôi nhà gỗ đen, nên anh bắt đầu nghi ngờ cái chết của Thạch Vi và An Hiểu có liên quan đến hai ngôi nhà gỗ. Vấn đề là liên quan như thế nào? Ngôi nhà đen đã bị cải tạo thành ngôi nhà gỗ biệt lập mà chúng ta đã thuê, dù có liên quan đến cái chết của hai cô gái thì các đầu mối cũng đã bị xóa sạch. Tại sao Thạch Vi lại vẽ thêm ngôi nhà trắng? Cho nên trọng tâm mà Cốc Y Dương muốn khám phá là ngôi nhà trắng này. Nhưng anh ấy từng nhiều lần vào đây mà không thu được kết quả gì; đêm qua ngồi trong gian hầm, anh ấy đã kể lại với tôi một lượt, nên tôi đã ngẫm nghĩ.
“Cốc Y Dương nói: Thạch Vi và An Hiểu từ hồi học tiểu học đã thích thông tin các “bí mật nho nhỏ” giữa hai người bằng cách vẽ ký họa. Cho nên tôi đoán rằng, liệu bức ký họa này có chứa câu đố nào đó của Thạch Vi không? Câu đố ấy chỉ An Hiểu mới hiểu được. Tôi lại nhớ đến một trò chơi trí lực hồi còn bé: đố nhau so sánh hai bức vẽ, phát hiện ra những điểm khác nhau của chúng.”
Giản Tự Viễn bỗng hiểu ra: “Thì ra, đó là lý do hôm nọ cô bảo tôi chụp ảnh ngôi nhà gỗ này!”
“Cảm ơn anh đã hợp tác.” Tôi nói. “Tấm ảnh này rất quan trọng, khi hai anh đang đặt bẫy quanh ngôi nhà, tôi đã tranh thủ so sánh xem chúng khác nhau ở điểm nào.”
Giản Tự Viễn nhìn kỹ, nói: “Hình như chẳng có gì khác nhau.”
“Thoạt đầu tôi cũng nghĩ thế, bản thân ngôi nhà chẳng có gì khác nhau, có lẽ Thạch Vi chỉ ngẫu hứng vẽ nó, thể hiện sự đối lập giữa ngôi nhà đen và ngôi nhà trắng. Nhưng rồi lại nghĩ, An Hiểu đã nói ra chữ “họa” thì chắc hẳn cô ấy đã hiểu được một điều gì đó từ bức ký họa. Cùng xem một bức vẽ, tại sao kết quả xem của mỗi người lại khác nhau? Đây cũng là một vấn đề trong tâm lý học: vài người cùng quan sát một sự vật, kết quả quan sát không giống nhau, từ đó nảy sinh quan điểm cũng khác nhau, tại sao?”
Giản Tự Viễn có lẽ vì vết thương đau nhức nên giọng nói cũng mệt mỏi phều phào: “Các cô học tâm lý học cứ hay vẽ vời tỏ ra bí hiểm, thực ra nó quá đơn giản: vì mỗi người đứng ở góc độ khác nhau để nhìn vấn đề, thế thôi!”
“Chính xác! Về sau tôi đã nghĩ ra: các ngôi nhà thì vẫn thế, mà là tại tôi đã nhìn nhầm bức vẽ. So sánh bức vẽ và ảnh chụp cũng thấy nhà cửa vẫn như vậy, và điểm khác biệt nằm ở khung cảnh quanh nó. Cũng tức là do góc nhìn khác nhau. Tôi bèn nhìn thật kỹ, nhận ra một chi tiết thú vị.” Tôi chỉ tay vào tấm ảnh trên màn hình máy ảnh. “Anh xem, phía sau ngôi nhà nhỏ có mấy cái cây?”
Giản Tự Viễn: “Hai cái cây.”
“Còn ở bức ký họa này, phía xa đằng sau ngôi nhà trắng, hình vẽ nhỏ nhưng rất chi tiết, có mấy cái cây?”
“Ba!” Nét uể oải trong giọng nói của Giản Tự Viễn hình như tạm thời biến mất. “Thế thì, hoặc là Thạch Vi tiện tay vẽ bừa, hoặc là cố ý vẽ thêm vào! Nếu nghĩ theo hướng này thì cái cây thêm vào bức họa có thế là vị trí chứa đựng một bí mật nào đó. “Cái cây” là bí mật!”
“Bây giờ ta có thế đi tìm câu trả lời!” Tôi cất bức vẽ trả lại Giản Tự Viễn cái máy ảnh, rồi đỡ anh ra ngoài ngôi nhà.
Giản Tự Viễn dùng ống ngắm máy ảnh quan sát xung quanh. “Tạm thời chưa thấy dấu hiệu của bọn truy binh.”
Tôi nói: “Sớm muộn gì chũng cũng tìm đến. Chúng ta phải làm cho nhanh lên.”
Phía sau ngôi nhà này có hai cây thông lớn vừa phải, cách nhau hơn chục mét. Giản Tự Viễn nói: “Nếu bí mật nằm ở giữa hai cây thông thì ta phải đào bới không ít đâu!”
Tôi nhìn tay anh cũng đang chống cái xẻng, bèn nói: “Anh bị đau, cứ để tôi đào là chính.”
“Cô vừa nói ta không có nhiều thời gian, khỏi cần chiếu cố tôi làm gì.”
Hai chúng tôi cùng bới tuyết bắt đầu từ chính giữa hai gốc cây thông. Giản Tự Viễn chỉ có thể cầm xẻng một tay để xúc tuyết, thỉnh thoảng anh lại khẽ kêu lên. Đào được một lúc, anh bỗng kêu lên: “Chúng ta đã giải quyết được vấn đề rồi!”
Dưới lớp tuyết dày có một gốc cây nhô lên, đường kính khoảng ba mươi phân.
Tôi tự nói với mình: “Thì ra phía sau ngôi nhà vốn có ba cái cây!”
“Cây này bị đốn từ lâu rồi” Giản Tự Viễn chiếu đèn vào. “Nhìn này, gỗ mục hết cả.”
Lẽ nào bí mật nằm ở gốc cây này?
Nó chỉ cao khoảng hai mươi phân, vết cưa để lại xoáy gỗ tròn tròn không có gì đáng ngờ cả. Tôi nói: “Có lẽ ta phải đào nó lên.”
“Chẳng còn lựa chợn nào khác.” Giản Tự Viễn thục cái xẻng vào nhưng liền kêu lên: “Khỏi cần đào.”
Thì ra nó chỉ là một đoạn gốc đặt ở đó, không có rẽ. Tôi thoáng nghĩ rồi nói: “Ta lật nó lên.”
Hai cái xẻng cùng xúc lật nó sang bên. Chúng tôi đã nhìn thấy sự thật mà Cốc Y Dương bấy lâu vẫn muốn tìm: dưới gốc cây là một cái hốc đặt một quả thông to. Quả thông đã được xử lý, làm thành một cái hộp; tôi đã nhìn thấy trong siêu thị ở thị trấn Ngân Dư bày sản phẩm thủ công mỹ nghệ này. Ruột quả thông rỗng, đáy có cái nắp nhỏ, mở ra thì thấy bên trong là một hộp thiếc vuông vuông xinh xắn mỗi cạnh chừng mươi phân, nắp hộp in hình con phượng hoàng khá nét.
Rõ ràng là bí mật nằm ở cái hộp này.
Mở nắp hộp ra, thấy một túi nilon dán kín, nhìn rõ bên trong túi là một tệp giấy gấp chặt. Chúng tôi muốn tránh gió tuyết nên trở vào ngôi nhà gỗ, lấy dao cắt túi nilon, rút một mảnh giấy trong đó ra.
Là một trang giấy kê ngang trong sổ tay thường dùng, chữ viết theo từng hàng, kín cả trang giấy.
“Màn thầu nhỏ, 300 hạt, Đoàn Ngũ, 23/5/2004
Màn thầu nhỏ, 250 hạt, Ngô Tác Đồng, 23/5/2004
Cô-ca, 15g, Tiểu A, 24/5/2004
Cà phê, 3g, Trâu Quý Vinh, 24/4/2004
Quả ướp lạnh, 220 viên, Cơ giới Thiết lĩnh, 26/5/2004…”
“Gì thế này?” Tôi không sao hiểu nổi. “Là danh mục đi chợ, hay là thực đơn?”
“Ghi chép về giao dịch ma túy!” Giọng Giản Tự Viễn hơi run run. “Bọn buôn ma túy đều dùng tiếng lóng để chỉ các loại ma túy, tiếng lóng sẽ khác nhau tùy địa phương hoặc tùy người, nhưng phần lớn có thể đoán ra được. Khi phá án chúng tôi đã từng tiếp xúc, “màn thầu nhỏ, cô-ca, cà phê, quả ướp lạnh” đều là tiếng lóng chỉ “thuốc lắc, cocain, moóc-phin và ma túy đá”, ở đây, bọn chúng buôn ma túy từ năm 2004!” Anh lại rút ra vài tờ giấy khác, lướt nhìn rồi nói: “Trong này có ba nhóm ghi chép: mua nguyên liệu ma túy, bán ma túy và các khoản rửa tiền! Tức là có kẻ mua hóa chất về để gia công sản xuất ma túy, sau đó đem bán. Các khoản tiền giao dịch và tiền mặt không rõ nguồn gốc khác, phân tán gửi vào tài khoản của một số cá nhân và công ty nhỏ, thế là có thể lưu thông hợp pháp. Thật không ngờ căn nhà bé tẹo này cũng được việc.”
Tôi nói: “Chẳng thể nhìn bề ngoài đoán người, thì nhà cũng thế.”
Giản Tự Viễn đứng thẳng người, nhòm qua ống ngắm máy ảnh quan sát phía xa đoạn đường vừa đi, không thấy có gì khả nghi, nói: “Đúng là như thế. Nếu dùng địa điểm này để gia công và mua bán ma túy thì quá tốt, vì giao thông khó khăn, vị trí kín đáo, dễ chạy trốn. Nhưng tôi không hiểu những chuyện này thì liên quan gì đến cái chết của Thạch Vi và An Hiểu?”
“Vấn đề nằm ở đây.” Tôi lần tệp giấy rút ra một tấm ảnh, ảnh chụp bốn thanh niên nam nữ ngón tay giơ hình chữ V, nhìn vào ống kính. Tôi chỉ vào một thanh niên, nói: “Chắc anh thấy quen quen?”
“Vạn Tiểu Lôi” Giản Tự Viễn nói.
Tôi lại chỉ vào một cô gái trong ảnh: “Còn đây là Thạch Vi!”
Giản Tự Viẻn nói: “Sao cô biết được? Thì ra cô đã điều tra rất tỉ mỉ!”
“Tôi nên cảm ơn Lê Vận Chi mới đúng. Hôm đầu cô ta cho tôi biết chuyện Cốc Y Dương và An Hiểu, nhằm khiến tôi tổn thương một lần nữa và triệt để cắt đứt với Cốc Y Dương. Nhưng tôi vẫn cứ để tâm nghiên cứu thêm. Cái chết của Thạch Vi lúc đầu cũng gây chấn động, trên mạng còn có cả ảnh cô ấy.” Tôi ngẫm nghĩ. “Điều lạ lùng là, trong mấy người này lại không có An Hiểu, chỉ có mình Thạch Vi là nữ. Nghe nói khi xưa Thạch Vi, An Hiểu thân nhau như hình với bóng.”
Xem tấm ảnh này không thể nhận ra chụp trong hoàn cảnh nào, chỉ biết họ đang ở trong phòng, sàn nhà bày nhiều đồ ăn và bia, Vạn Tiểu Lôi ria mép mới chỉ lưa thưa, hai ngón tay kẹp điếu thuốc lá.
“Xem ra, Thạch Vi đã đàn đúm với mấy thằng nhóc hư hỏng.” Giản Tự Viễn nói. “Hay là, mấy đứa học trò cấp III năm đó đã dính vào việc chế biến và mua bán ma túy?”
“Và Vạn Tiểu Lôi hiện nay đã trở thành một tên trùm nho nhỏ ở Khu nghỉ dưỡng trượt tuyết này? Trở về, sẽ tra lại quá khứ của Khu nghỉ dưỡng, biết đâu sẽ có hướng để phá án.” Nhưng tôi bỗng thấy tuyệt vọng: Về ư? Liệu có về được không?
Giản Tự Viễn tiếp tục xem ảnh, mắt gần như dí sát tấm ảnh, rồi bỗng chỉ vào một góc: “Phải tìm ra tên này, rất có thể hắn là đầu sỏ.”
Tôi ngạc nhiên: “Tên nào? Tôi có nhìn thấy ai đâu?”
Tôi lại nhìn kỹ chỗ mà Giản Tự Viễn chỉ, thì không thấy đủ hình người, chi thấy nửa cẳng chân và bàn chân ở trong bức ảnh. Chắc là lúc chụp ảnh đã vô tình chụp vào. Chân người ấy đi giày thể thao Adidas, có lẽ mặc quần soóc hoặc lúc đó đang xắn ống quần dài lên đến đầu gối, bắp chân có một vết xăm trổ xanh tím. “Thấy rồi!” Tôi kinh ngạc kêu lên. “Anh có thể nhận ra vết xăm hình gì không?”
Giản Tự Viễn nói: “Xăm rồng hoặc phượng gì đó.”
“Phượng hoàng!” Tôi giơ cái nắp hộp thiếc ra. “Có phải hình này không?”
“Chuẩn quá! Đúng là hình này!” Giản Tự Viễn reo lên. Rất có thể nhân vật bí hiểm xăm trổ này là trùm sò đứng ra tổ chức tập đoàn ma túy bí mật... Giả thiết này hơi đột ngột, biết đâu anh ta chỉ là một chân chạy mà thôi. Anh ta là ai?
“Bọn chúng vừa mua bán ma túy vừa rửa tiền, cho nên không thể chỉ có một mà là một loạt thanh niên dính vào. Bọn chúng rất khôn ngoan, thu nạp thanh thiếu niên để “bồi dưỡng và tẩy não”, dần tích lũy kinh nghiệm, khi trưởng thành sẽ là lực lượng điều chế buôn bán ma túy có tay nghề, một lòng trung thành, có kỷ luật hẳn hoi. Trước đây tôi đọc tài liệu các vụ án, hình như bọn tội phạm ma túy ở nước ngoài vẫn vận hành như thế. Thạch Vi có quan hệ với những gã này, hiện giờ tôi thắc mắc tại sao cô ấy lại treo cổ?” Giản Tự Viễn tiếp tục xem đám giấy tờ.
Tôi nói: “Đó là vấn đề mấu chốt nhất. Có lẽ nguyên nhân Thạch Vi treo cổ cũng là nguyên nhân cô ấy chôn giấu những giấy tờ này. Tại sao cô ây phải vùi ở đây? Tuy nó chỉ là một phần nhỏ ghi chép về mua bán và rửa tiền bẩn, nhưng chắc chắn kẻ cầm đầu không để cho những thanh niên này tiếp xúc. Thạch Vi đã lấy cắp rồi đem cất giấu. Để làm gì? Những tài liệu này bị mất, thì bọn người kia sợ hãi, và bao năm nay chúng vẫn lo nó lại xuất hiện. Tôi đoán rằng có lẽ An Hiểu đã đoán ra ý cốt lõi trong bức ký họa của Thạch Vi, cô bèn đến ngôi nhà gỗ này vài lần, khiến bọn chúng phải cảnh giác. Chúng muốn nhổ cỏ nhổ cả rễ, nên đã thắt cổ giết chết An Hiểu.”
Giản Tự Viễn đang lần xem đám giấy tờ, bỗng nói: “Có phải Thạch Vi bị treo cổ vì cái này không?”
Giản Tự Viễn chìa ra tờ giấy “Kết quả xét nghiệm của Phòng y tế thị trấn Mã Hồi”.
Kết quả xét nghiệm có thai, dương tính.
Họ tên, ghi “Thạch Hiểu Vi”. Đương nhiên đây vẫn là Thạch Vi.
Giản Tự Viễn nói: “Mã Hồi cách thị trấn Ngân Dư hơn trăm cây số, Thạch Vi không dám làm xét nghiệm ở Ngân Dư vì sợ “bị buôn chuyện”, tin tức dễ lan nhanh. Xem ra, cô ấy đã chung chạ với bọn tội phạm, có bầu. Sau đó thì sao? Có bầu với kẻ nào?”
Tôi nói: “Tôi đoán là... với tên trùm sò, nhân vật quan trọng của tổ chức. Có lẽ Thạch Vi muốn sinh đứa con, hoặc đòi hỏi điều gì đó, thậm chí muốn cha đứa bé từ bỏ cái “nghề” cướp được tiền này. Cho nên cô ấy “nắm đằng chuôi” những giấy tờ này để o ép hắn.”
“Ai ngờ chính mình lại rước họa vào thân!” Giản Tự Viễn lẩm bẩm.
“Đỏ là kết cục của mọi hành vi ép buộc nhưng thất bại.” Tôi cùng lẩm bẩm. “Có điều, cái chết của Thạch Vi được xác định là tự sát Cốc Y Dương nói ở hiện trường chỉ có dấu vết của Thạch Vi và An Hiểu; khám nghiệm tử thi cũng cho là chết vì treo cổ.”
Giản Tự Viễn nói: “Nếu cố ý giết người, tạo ra hiện trường như thế cũng không khó; ví dụ, có kẻ thắt sẵn thòng lọng, đứng sau bất ngờ choàng cổ Thạch Vi rồi treo lên, thì các hiện tượng của tử thi đều rất phù hợp với tự treo cổ. Bọn tội phạm xã hội đen vẫn thường làm thế. Còn việc xóa mọi dấu vết của kẻ gây án thì nói chung là càng dễ!”
“Chứng tỏ đây là một tổ chức tội phạm khi đó đã có quy mô tương đối rồi.”
“Ngoài nhóm Vạn Tiểu Lôi, ta phải tìm ra tên hung thủ thật sự đứng sau tất cả. Phải bắt đầu từ tên có hình xăm kia.” Nói rồi, Giản Tự Viễn gom cả đám giấy tờ nhét vào túi nilon, thả vào cái hộp thiếc rồi đưa cho tôi.
Tôi cầm lấy, hỏi: “Anh không cần à? Là công an, anh phải có trách nhiệm phá án chứ?”
Giản Tự Viễn lại đưa máy ảnh lên nhìn ra xa, nói: “Những vụ kiểu này bọn tôi không phụ trách.”
Tôi không nói gì nữa, cùng anh ta ra đặt lại cái gốc cây vào chỗ cũ, phủ tuyết lên, sau đó mỗi người chống một cái xẻng quay vào nhà.
Giản Tự Viễn chật vật dựa vào tường rồi ngồi xuống, tiếp tục nén không rên rỉ quá to. Tôi cũng ngồi cách một quãng. Chúng tôi im lặng ngồi trong bóng tối.
“Thử đoán xem bao lâu nữa bọn chúng có thể truy kích đến đây?” Giản Tự Viễn hỏi.
“Điều đó lệ thuộc vào tuyết đã phủ kín các vết chân của chúng ta chưa. Cũng may, chúng ta từng đến nơi này nên khá thuộc đường; còn bọn chúng, nếu có kinh nghiệm thì chẳng bao lâu nữa cũng sẽ mò đến đây.” Tôi nhoài ra đón lấy cái máy ảnh anh ta đưa cho, rồi mở cửa nhìn về hướng lúc nãy đi đến. Không một bóng người. Tôi lại nhìn các hướng khác, cũng vắng tanh. “Chúng ta nghỉ một lát, rồi lên đường.”
Tiếp tục ngồi nghỉ. Cứ vài phút tôi lại đứng lên quan sát. Đến lần thứ tư, thấy tín hiệu màn hình báo sắp hết pin.
Đúng vào lúc này màn hình hiện ra ba bóng người đang tiến lại gần.
“Đi mau! Chúng đến rồi!” Tôi kéo Giản Tự Viễn.
“Cô nói đùa à?” Giản Tự Viễn hất tay tôi ra. “Cô cứ đi đi, tôi có súng, tôi sẽ yểm hộ, kìm chân chúng lại!”
“Chúng ta cùng đi, hoặc cùng nghĩ cách chặn... và tiêu diệt chúng.” Tôi lại đưa tay kéo anh.
“Na Lan!” Giản Tự Viễn nghiêm giọng. “Đôi khi cô nên biết kiềm chế. Tôi biết cô bất lực về vụ cha cô bị hại, nên cô luôn hy vọng cứu vãn một chút gì đó để bù đắp, nhưng có những lúc buộc phải từ bỏ!”
Tôi rùng mình, và bỗng nhận ra hình như Giản Tự Viễn, kẻ xa lạ đáng ghét này biết về tôi rõ hơn ai hết.
“Tôi không phải Giản Tự Viễn cũng chẳng phải công an, cô biết rồi, đúng không?”
Tôi nói: “Điều này không quan trọng.” Đúng thế, Giản Tự Viễn tự xưng công an, tôi căn bản không tin.
“Cô tự phát hiện ra mình ngộ độc, bắt đầu tự giải độc cho mình; tôi thử khai thác tin từ miệng cô nhưng cô đã tỉnh táo trở lại, và hiểu ra tôi là hạng người gì, đúng chưa?” Giản Tự Viễn thở dài. “Tôi có đọc báo chí nhưng nay mới tin, cô thoát thân khỏi “vụ án 5 xác chết” không hoàn toàn là do gặp may. Nhưng tôi cũng đã thành công một nửa, cô đã cho tôi biết rất nhiều chi tiết.”
Tôi nói: “Anh trưởng phòng ở Bộ Công an đến Giang Kinh nói chuyện với tôi, họ Lưu chứ không phải họ Vương.”
Giản Tự Viễn cười trừ: “Tôi đã mắc lỡm, tôi nói là trưởng phòng Vương. Cho nên cô nhận ra ngay tôi dối trá.”
“Thử nói xem, anh hầu hạ ai?”
“Cô thừa biết rồi còn gì, tôi làm nô lệ cho đồng tiền hoặc nói cách khác, tôi hầu hạ lòng tham.”
Tôi điên tiết: “Đến lúc này mà anh...”
“Cô cho rằng họ thuê tôi làm cái chuyện bẩn thỉu này, tôi lại để họ lộ mặt hay sao? Tôi chỉ liên lạc với ông chủ thông qua người trung gian. Tôi khuyên cô đừng nên chọc thêm vào tổ ong bò vẽ!” Giản Tự Viễn lại thở dài. “Thân tôi đến nông nỗi này cũng là đáng đời. Cô đi đi, cô phải sống mà đi khỏi đây! Và... tôi muốn cô giúp tôi một việc.” Anh ta đưa vào tay tôi chiếc điện thoại di động. “Trong này có đủ các thứ, kể cả con người thật và địa chỉ của tôi. Tôi có vợ và một đứa con trai. Nhờ cô giao nó cho họ. Trong đó có các thông tin, có tài khoản ngân hàng để sắp đặt cuộc sống sau này cho vợ con tôi, và nhiều thứ khác nữa. Vợ tôi lâu nay không hề biết. Đây là dự phòng lúc khẩn cấp. Trăm sự nhờ cô...”
“Anh còn có vợ con? Anh đưa tôi khẩu súng! Nào, ta đi!”
“Đừng lãng phí thời gian nữa, cô mau đi đi! Tôi bị thương nặng, chắc chắn không thể đi xa.” Giản Tự Viễn cởi áo khoác dúi vào tay tôi, lại tháo ba-lô đưa tôi rồi đẩy tôi thật mạnh. “Đi đi! Tận dụng vài thứ trong ba-lô, còn lại thì vứt, để càng nhẹ càng tốt.”
Mũi tôi cay cay, tôi quay ra cửa, giọng nghẹn ngào: “Cảm ơn anh tin tưởng tôi.” Nói khẽ dường như chính tôi cũng không nghe rõ.
Giản Tự Viễn cũng bước theo ra đến cửa, nói: “Na Lan, tôi biết, cái thiếu nhất trong mấy người chúng ta là lòng tin với nhau. Nhưng tôi tin cô, kể từ lúc cô quyết ý cứu Trương Cầm, tôi đã tin cô.”
Tôi ngoảnh lại, định nói: em không trách anh đâu. Nhưng cổ tôi tắc nghẹn, chỉ có thể nấc lên thút thít.
Tuyết bay đầy trời, màn đêm nặng trĩu đục ngầu khí lạnh ẩm ướt, tôi gạt nước mắt, chỉ sợ nó lại đóng thành những hạt băng.
Nghe theo chỉ dẫn của Cốc Y Dương, tôi trượt vòng sau núi, đường đi mỗi lúc một khó khăn. Trượt được một lúc, thấy phía sau vang lên những tiếng súng rời rạc lẫn trong tiếng gió thét gào. Tất cả khiến tim tôi đau nhói.