Mới độ bảy giờ tối, ba ngọn đèn điện ở cửa rạp tuồng An Lạc đã bật lên. Cái trống dựng nghiêng ở chân tường đã bắt đầu rung những hồi inh ỏi.
Hiệu trống ấy, cứ một nhịp, kéo dài cho đến tận tám giờ, có khi tám giờ mười lăm, là lúc khai diễn.
Thỉnh thoảng, thằng bé con vừa nện tùng tùng, vừa uể oải giục:
- Các ông các bà, lấy vé vào mà xem, gần đến giờ rồi.
Đó là nó mời mấy ông nhỏ, mấy bà vú em, được dịp vắng chủ, ra đấy để "xã giao" với nhau.
Các ông, ông nào ông nấy tóc chải thật mượt, hoặc gài cái lược bằng dây thép uốn, bá vai nhau, vắt chân chéo khoeo, đứng ở trước cái bảng quảng cáo giấy vàng dán trên mặt liếp, để tập đánh vần quốc ngữ.
Các bà thì áo cánh cộc lụa mặc ra ngoài áo cánh cộc vải, kệ cho lũ trẻ đứa chạy tung tăng, đứa bò lổm ngổm, ngồi ở gần hàng nước, phàn nàn bà chủ nghiệt hoặc nói chuyện chồng bạc tình.
Rất ít người lấy vé vào coi hát.
Tiếng trống vẫn làm đinh tai.
Trong cái buồng hẹp ngay cạnh cửa, có lỗ tò vò bé cỏn con, trước cái bàn để sẵn ba bốn tập vé, bà chủ ngồi thừ mặt, vú vạch ra cho con bú.
Không còn gì buồn bằng cảnh ế hàng.
Trong rạp, từ bảy giờ rưỡi trở đi, ba chiếc quạt tây, buộc díu vào một dây kéo, đã bắt đầu hoạt động. Ghế các hạng, lác đác đã có một vài người ngồi. Ngọn gió nhân tạo không phẩy được tới những dãy ghế cuối cùng, cao lêu đêu, dãy ghế hạng năm xu mà người ngồi, đếm được gần bốn chục. Trong khi chờ, khán giả cười to, nói lớn, nhổ bậy, hoặc cãi nhau.
Nhưng bỗng một hồi chuông rung mạnh. Đèn phía trong sân khấu bật lên, làm rõ những mảnh sơn bong trên lớp vải màn mỏng bao nhiêu, thì làm mờ cái phong cảnh vẽ đi bấy nhiêu.
Trống, kèn, nhị, thanh la, tung ra những tiếng gắt gỏng.
Bỗng một cái đầu bóng thò ra ngoài màn sân khấu, ngơ ngác nhìn. Một nhịp cười dồn ở hàng ghế bét. Một hồi chuông rung ngắn nữa. Chiếc màn từ từ cút kít cuốn lên từng nấc: Cảnh triều đình.
Người ta suỵt. Người ta hét im. Nhưng ở cuối rạp, vẫn cười to, nói lớn, vẫn nhổ bậy, cãi nhau.
Vai vua gầy gò, ngồi trên cao, trước cái phông sơn thuỷ, vuốt bộ đuôi ngựa làm bức rèm mồm, nhìn hai dãy bá quan, hát những câu không ai nghe rõ. Bá quan nghiêm chỉnh, thỉnh thoảng sờ nạm râu anh em ruột với râu của vua, mắt liếc ngang liếc dọc, ra vẻ trịnh trọng.
Rồi một anh nhọ mõm, quần áo thâm, quỳ giữa sân khấu, bưng trên đầu cái đĩa bày bốn chiếc chén không. Vua giơ tay mời. Bá quan sáu người, thì bốn người đứng dậy, mỗi người cầm một chén, vạch râu, kề tay vào mồm, hắt cặn, rồi lại ngồi xuống.
Vua cười kha khả, phán:
- Giui! Giui quá đi mấc mà thôi!
Rồi cả bọn kép hát đứng dậy, đi bài tẩu mã. Tiếng kèn đưa cao, giọng hát hùng hồn vang nhịp, ăn theo với điệu bộ múa may. ở hàng ghế dưới, tiếng ồn ào đã hơi dịu.
Bỗng anh nhọ mõm ban nãy, ở trong buồng trò chạy ra, hớt hơ hớt hải. Anh vấp vào một vai quan, ngã lộn tùng phèo. Tiếng vỗ tay ran như tràng pháo, để thưởng cho anh kép hát pha trò đậm.
Ngã xong, anh kép đứng phắt dậy, đứng thật ngay, xoè năm ngón tay lên trán để chào kiểu nhà binh. Người ta lại cười.
Vua nói giọng Sài Gòn, phán hỏi:
- Chi mà bay giội giàng làm giậy, thằng kia?
- Dạ, thậm cấp, thậm cấp, chí nguy, chí nguy! Quân nước Phiên đã kéo đến Lâm Truy, cách kinh kỳ có ba ki lô mét!
- ải! ải!
Vua quát vậy, rồi với chiếc nậm gỗ, đập chan chát:
- ải ải! Nếu giậy, khổ dã châng khổ dã, nguy tai thị nguy tai! Cuộc chiếng tranh nếu cứ kéo dài, ta e nữa môộc mai dâng khổ. ớ này, bá quang!
- Dạ.
Rồi vua gò lưng, lắc đầu, lắc cổ, hét:
- Quâng Phiêng đã Lâm Truy kéo tới, làm giua tôi lại gặp buổi giang nang, trẫm truyền cho giăng giõ bá quang, xem ai có tài có gang ra giúp nước, hà!
Vừa dứt lời, hai anh kép mồm nhẵn thín, ngồi ngoài cùng, ban nãy trơ khấc không được đánh chén, vội đứng cả dậy, xắn áo thêu, xốc lại mũ, rồi múa may, uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ôtô, nhảy xe đạp. Người xem hát cười rầm rầm. Hai anh lại nhảy xe đạp, vặn ôtô, cưỡi ngựa, giương súng một lượt nữa, đụng cả vào nhau, ngã nghiêng ngửa, cho đến tận lúc tiếng cười ngớt. Rồi trong rạp im phăng phắc. Một luồng gió, qua chỗ đi tiểu, đượm mùi cống, lọt vào cửa tò vò, làm cho cả rạp thấy thoang thoảng luồng không khí hăng hăng. Nhưng không ai để ý đến, người ta chăm chú nhìn và nghe hai anh kép đương phệnh phạo giở lối anh hùng rơm. Anh bên phải vươn cổ nói:
- Đã có tôi phò tá!
Anh bên trái, ngoác mồm tiếp:
- Lại có mỗ tá phò!
Rồi cả hai anh đồng thanh vừa hát vừa giơ tay:
- Xin Thánh thượng đừng lo.
Đoạn lại cùng vênh váo trỏ vào ngực mình:
- Đã có tôi... phò tá!
Dứt lời, hồi vỗ tay sao mà vang và lâu thế!
Thằng bé bán nước và lạc rang lách qua các chỗ ngồi để rao hàng. Trên sân khấu, vẫn diễn ra những điệu bộ và những câu pha trò nhảm nhí. Hai ba ông quần áo tây ngồi trên hạng nhất, thở dài, rồi đứng dậy ra về. Nhưng hàng cuối cùng mỗi lúc một thêm người, mà cũng chỉ đông ở hạng ấy.
Nhìn khu ghế nhất, ghế nhì, khách vắng tanh tanh, ông chủ gánh hát lo lắng.
ở ngoài đường, bọn tìm cuộc vui buổi tối vẫn đi lại rầm rập. Nhưng mấy ai qua rạp An Lạc, nghe tiếng kèn, tiếng nhị, đã chịu liếc mắt vào trong, xem đào kép áo mũ râu ria, diễn những trò gì.
Mấy năm nay, ít người thích nghe hát tuồng cổ.
+
Gánh An Lạc dọn đi đâu mấy tháng, nay lại mới về, thuê ở chỗ cũ.
Ngay từ buổi sáng, ở cửa rạp, người qua đường vô ý đến đâu cũng phải trông thấy một cái cổng kết bằng lá dừa, gài thêm những cành nhãn cài hoa râm bụt. Trên cổng, hàng chục chiếc cờ Pháp, Nam bay tíu tít. Trên tường, một miếng vải trắng căng thẳng, có dán một dòng chữ trang kim:
Đào kép mới! Bản rạp chấn chỉnh! Đào kép mới!
Rồi đến năm giờ chiều, lúc mặt trời đã xế, trước nhà hát, bảy chiếc xe cao su đã chực sẵn cả ở vệ đường.
Một lát, bảy chiếc xe thong thả bước một tiến đi. Xe đầu, một cái biển dán giấy đỏ, có chữ viết lớn:
Đại diễn tích hát mới! Lưu Lễ bình Phiên - Bản rạp mới chấn chỉnh! Đào kép mới!
Ngồi trong xe, một thằng bé con giơ thẳng hai cánh, nện vào mặt chiếc trống cái, và một thằng nữa, đánh thanh la, thỉnh thoảng phồng má, thổi bài kèn tây ra trận.
Xe thứ nhì, bốn tài tử, người kéo nhị ngồi phệt dưới sàn xe, hai người thổi kèn và sáo, lèn nhau trên đệm, và người đánh đàn ngồi chỗ mui, giang hai cẳng để lấy thăng bằng.
Xe thứ ba, một cô tiểu thư mắt toét, mặt trắng, má đỏ, với một con bé tóc xoã. Hai người cùng áo gấm, giày Tàu.
Xe thứ tư, ba ông ngồi kẹp đùi vào lưng nhau, một ông thượng ban, một ông trung ban, một ông hạ ban, cùng mũ cánh, áo thêu, ông thì mặt đỏ, ông thì râu dài, ông thì mũi hin, tai bẹp.
Xe thứ năm, thứ sáu cũng vậy. Cũng những ông trông ra phết Thái sư.
Xe thứ bảy, thì một cô xấu, nhưng tân thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trông tức anh ách, như một bài thơ thất luật.
Đoàn xe quảng cáo mười lăm vị đào kép mới, đi diễu hết phố này sang phố khác. Mặt trời chưa lặn. Ngọn cây đứng yên. Bóng râm mới lấn được nửa đường bên trái. Bọn đào kép phải phơi dưới ánh nắng nóng như thiêu. Trên mặt phấn một vài người, mồ hôi lấm tấm, rồi ròng ròng nhỏ giọt. Họ lấy quạt che nắng và phẩy. Song, trời này mà họ cứ mũ áo ấy, đai mãng ấy, để đi rong phố, thì dù họ có cố khéo giữ lấy bộ mặt tươi tỉnh, nhưng ai chẳng đoán được cái cảnh đáng thương của kiếp đào kép hát tuồng!
+
Tối hôm ấy, cũng mới độ bảy giờ, sáu ngọn đèn điện làm sáng trưng cả cửa rạp An Lạc. Thằng bé con lại khua trống rầm rầm.
Các ông bếp, các bà vú em vẫn xã giao, đi lại nhộn nhịp. Nhưng trước cái bảng giấy đỏ, đã có nhiều ông sang trọng đứng đọc, và qua cái lỗ hổng bán vé, thỉnh thoảng một vài cái tay trắng nuột thò vào xỉa tiền.
Độ tám giờ, trong rạp đã nhiều khách. Trên dãy ghế hạng nhất, có chừng hai chục người. Hạng nhì đông hơn. Hạng ba đông hơn nữa. Hạng năm xu càng đông hơn.
Người ta thử xem rạp An Lạc chấn chỉnh. Người ta thử xem tài đào kép mới. Người ta thử xem tích hát mới.
Nhưng rồi người ta lắc đầu với nhau. Vẫn cái màn lở sơn cũ che sân khấu không được kín. Vẫn cái đầu bóng trước ngó ra. Và sau một hồi chuông rung, thì cái màn ấy cũng vẫn cút kít cuốn dần lên từng nấc: Cảnh triều đình.
Sau một vài tiếng im, tiếng suỵt, ở hàng ghế dài cuối cùng, cao lêu đêu, họ vẫn cười to, nói lớn, nhổ bậy, cãi nhau.
Trước cái phông sơn thủy vá, vai vua, mặt mũi phương phi, không đeo râu, ngồi trên ngai cao, mắt liếc bên phải bên trái, có vẻ oai vệ, để nhìn hai dãy bá quan, và hát những câu không ai nghe rõ.
Rồi một anh mõm trắng, quần áo đỏ, quỳ giữa sân khấu, bưng trên đầu cái đĩa bày sáu chiếc chén không. Vua giơ tay mời. Bá quan sáu người, thì cả sáu người đều nhấc chén, vạch râu, ngửa cổ ra để uống rượu bằng không khí. Anh mõm trắng cầm chiếc nậm gỗ, rưới vào chén một lượt rượu nữa. Bá quan lại uống một tuần nữa và kêu say. Lúc ấy, anh mõm trắng đứng dậy nhìn một vai quan đang lảo đảo. Anh lướt tay vào nạm râu của hắn, rồi quệt vào mồm mình. Thế là anh say đổ điên đổ cuồng, mắt trợn ngược lên, chệnh choạng, sờ soạng, ngả bên kia, giúi bên nọ, mãi mới vào được buồng trò.
Trời ơi! Người ta cười, người ta vỗ tay, tưởng đến vỡ rạp.
Vua cười kha khả, phán:
- Giui! Giui quá đi mấc mà thôi!
Rồi bài tẩu mã theo giọng kèn, hùng hồn vang nhịp.
Bỗng anh mõm trắng ban nãy, hớt hơ hớt hải chạy ra. Anh vấp vào một vai quan, ngã lộn tùng phèo. Tiếng cười lại vang động. Ngã xong, anh đứng phắt dậy, ngay như tượng gỗ, xoè năm ngón tay lên trán để chào kiểu nhà binh. Người ta lại cười.
Vua nói giọng Sài Gòn, phán hỏi:
- Chi mà bay giội giàng làm giậy, thằng kia?
- Dạ, thậm cấp, thậm cấp, chí nguy, chí nguy! Quân nước Phiên đã kéo đến Lâm Truy, cách kinh kỳ có ba ki lô mét!
- ải! ải!
Vua quát vậy, rồi với chiếc nậm gỗ, đập chan chát:
- ải ải! Nếu giậy, khổ dã châng khổ dã, nguy tai thị nguy tai! Cuộc chiếng tranh nếu cứ kéo dài, ta e nữa môộc mai dâng khổ. ớ này, bá quang!
- Dạ.
Vua hét:
- Quâng Phiêng đã Lâm Truy kéo tới, làm giua tôi lại gặp buổi giang nang, trẫm truyền cho giăng giõ bá quang, xem ai có tài có gang ra giúp nước, hà!
Hai anh kép ngồi ngoài, một anh mặt đen, râu đỏ, phun phè phè từ thái dương đến môi, một anh mặt trắng, râu vẽ bằng mực, lanh lẹ xắn áo, xốc mũ, múa may, uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ôtô, nhảy xe đạp. Tiếng cười lại vang lừng.
Anh bên phải lắc đầu lắc cổ, nói:
- Đã có tôi phò tá!
Anh bên trái vươn cổ, phụng phạo tiếp:
- Lại có mỗ tá phò!
Rồi cả hai anh cùng giơ tay và cùng hát:
- Xin Thánh thượng đừng lo.
Đoạn lại cùng vênh váo trỏ vào ngực mình:
- Đã có tôi... phò tá!
Trên hàng ghế đầu, người ta nhăn mặt, bàn tán:
- Nhảm quá. Ta phải lừa rồi.
- Phải, họ nói láo, chứ chấn chỉnh cái cóc khô gì. Vẫn đồ bài trí ấy, có đào kép mới mà vẫn hát tích cũ, thì có khác trước tý nào?
Một người tinh mắt, mỉm cười, trỏ lên sân khấu nói:
- Các ngài thử nhìn kỹ xem bọn kép này là mới hay cũ. Cái anh lần trước ngồi kia, thì bây giờ bỏ bộ râu ra và ngồi đây. Cái anh ngồi bên này bây giờ vận mũ khác áo khác và vẽ mặt khác. Vả được độ một vài thằng kép khổ hoặc con đào ươn, mà đã nhặng lên là mới, là chấn chỉnh, thì chúng mình chỉ mắc một lần là cùng!
Rồi cùng thất vọng, rủ nhau ra.
+
Từ hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cỡ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ mãng, phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi diễu qua các phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải.
Nhưng những người đã xem diễn qua một tối, họ đều chán ngán. Nghe tiếng trống kèn cổ động ầm ĩ, họ cũng biết rằng gánh hát còn sống đó, song, chẳng ai muốn để ý xem tối nay, trong rạp, bọn vua quan trò hề ấy họ ậm oẹ với nhau những trò gì!