Ấy cũng bởi cậy tài lỡ bước,
Dữu Lý kia cửa ngục hãm thân
Vua tôi trông mặt lệ tràn
Chờ cho vận hạn quá lần mới hay
Mộng giai nhân chuyên xoay thời thế
Chúng anh hùng đảm trí mưu cao
Ruổi tuấn mã, khoác chiến bào
Sông sau núi thẳm biến sầu thành vui.
Theo điệu “cầm đường xuân”
Bậc triết nhân thường có thuật tiên tri mọi sự, có thể chủ động tìm đến điều lành, tránh điều họa, nhưng rồi cuối cùng cũng không thể tránh khỏi số mệnh. Thời trước có Quách Phác cùng Bốc Hủ (l), đều tinh thông dịch lý, Một hôm, Quách Phác than với Bốc Hủ:
- Đệ cũng không hơn gì, nhưng huynh thì không thể nào tránh nổi họa binh đao?
1 Quách Phác: Người đời Tần, làm thư lại cho Vương Đôn, Vương Đôn định làm phản, sai Phác bói, Phác nói quẻ bói xấu lắm. Đôn nổi giận, giết Phác. Cùng với bạn là Bốc Hủ, nổi tiếng giỏi về tướng số, bói toán, riêng Phác còn là một nhà văn tên tuổi thời này. (Từ Hải).
Bốc Hủ đáp:
- Đệ năm nay đã bốn mươi mốt tuổi rồi, làm khanh làm tướng, mắc phải vạ này cũng đành, nhưng sao huynh cũng chưa có cách gì để tránh được tai ương của mình sao?
Quách Phác than:
- Mệnh của đệ sẽ hết ở Giang Nam, từ lâu đã biết chẳng sao tránh nổi.
Bốc Hủ khuyên:
- Huynh đừng làm thư lại nữa thì may ra có thể tránh được chăng?
Quách Phác đáp:
- Đệ không tránh được cái họa khi làm thư lại cũng như huynh không trốn được cái vạ khi làm khanh tướng vậy thôi.
Về sau, Bốc Hủ làm tướng cho Lưu Thông, thua trận, chết ở Tấn Dương, còn Quách Phác vẫn phải ra làm thư lại, rồi bị Vương Đôn giết chết. Thế mới biết số mệnh là chuyện đã định sẵn, ngay đến bậc đế vương xưa nay cũng không thể tránh khỏi, đến cả kẻ tinh thông lý số, biết trước mọi sự cũng không trốn được.
- Bệ hạ lâu nay việc quân khó nhọc, nhưng mừng vì lũ nghịch thần đã diệt hết, danh phận đã đường hoàng. Từ nay danh tiếng bệ hạ cao hơn nhà Đường, nhà Ngụy nhiều lắm. Nhưng hiện nay cung cũ nhà Tùy là ở Đông Đô. Bệ hạ đã liệu lý công việc ở đó ra sao?
Hạ Vương đáp:
- Cô đã sai Dương Thế Hùng đi rồi. Tất cả vàng ngọc, lụa là trong cung, cho đến phi tần cung nữ, đều được chia làm bốn phần, hai phần để thưởng công cho quân sĩ, hai phần đem cho nhà Đường, nhà Ngụy đã có công cùng cô mưu diệt họ Vũ Văn. Cô chỉ còn giữ mấy đồ quốc bảo cùng giấy tờ quan thiết mà thôi.
Tào Hậu thưa:
- Bệ hạ xử như vậy thì thật là công bằng. Nhưng còn một của quý sống hẳn hoi, không biết bệ hạ giữ lại làm gì đây.
Hạ Vương phán:
- Hoàng hậu đừng nhận nhầm cô cũng như bọn Hóa Cập. Cô từ ngày khởi binh đến nay, đánh đông dẹp bắc, chín châu bao la, đâu chỉ có một chỗ đáng dừng chân thôi sao, nếu như cô nghĩ đến chuyện hoan lạc như thế thì thiếu gì cơ hội. Cô sở dĩ cho đưa Tiêu Hậu về đây vì sợ để lại Trung nguyên sẽ bị người khác làm nhục, nên cố tình cho về cùng với công chúa, đã có chỗ xếp đặt chu đáo cả.
Tào Hậu thưa:
- Không phải vì thiếp ghen ghét, chẳng qua là để bàn kế sách cho quốc gia. Nếu được như vậy, thì thật là phúc lớn cho tôn miếu vậy.
Sáng hôm sau, Hạ Vương sai Lăng Kính đưa bọn Tiêu Hậu tới, đưa sang Đột Quyết với Nghĩa Thành công chúa. Tiêu Hậu vốn là người thích động, không thích tĩnh, mới đến đã chịu bao lời sĩ nhục của mẹ con Tào Hậu, biết rằng Tào Hậu khó mà dung mình, nay thấy nói sẽ được sang với Nghĩa Thành công chúa bên Đột Quyết, trong lòng vui sướng thầm nghĩ: "Ra nước ngoài chơi bời vài năm, còn hơn là ở lại đây để chịu cạnh khóe, mắng nhiếc của lũ người này". Liền giục Lăng Kính lên đường, thuyền lớn đi biển sắp sẵn, buồm giương cao đưa ngay sang nước Đột Quyết.
Lăng Kính sai người đem thư vào trình công chúa Nghĩa Thành, cũng vì Khả hãn Khải Thị đi mừng thọ Cao Xương Vương Khúc Bá Nha không có ở trong nước, Nghĩa Thành liền sai ngay Vương Nghĩa, đem theo ngựa, lạc đà đón tiếp Tiêu Hậu, lại sai văn thần ra mời Lăng Kính về trạm dịch khoản đãi.
Tiêu Hậu ở trong thuyền, thấy Vương Nghĩa xuống thuyền chào lạy đúng là "thiên lý tha hương ngộ cố tri", bất giác nước mắt ngắn dài hỏi:
- Vương Nghĩa, sao ngươi lại ở đây?
Vương Nghĩa thưa:
- Thần là người nước ngoài, chịu ơn sâu của tiên đế, chẳng có lòng nào mà đi thờ chủ mới nên gắng bảo hộ Triệu Vương cùng Sa phu nhân tới đây. Tiên đế chẳng nghe can gián của thần, đem cả tòa giang sơn mà vứt cho kẻ khác, nay nương nương tới đây, vốn cũng là tình cốt nhục, tất có thể yên thân qua ngày. Công chúa sai thần ra đón nương nương mau vào cung gặp gỡ.
Tiêu Hậu lên bờ, cưỡi một con ngựa tiêu dao rất đẹp, về cung. Nghĩa Thành công chúa cùng Sa phu nhân ra tận cửa đón vào, chào hỏi xong, tất cả ôm nhau mà khóc. Tiêu Hậu nói với Sa phu nhân:
- Các ngươi dẫn Triệu Vương lánh ở đây, bỏ ta lại chịu trăm nghìn khổ não.
Sa phu nhân đáp:
- Chúng tôi được nghe nương nương đã được trở về ngôi chính cung ở Chiêu Dương, chỉ còn trông trừ được lũ phản thần, lại sẽ gọi chúng tôi về lại đất cũ. Chẳng ai ngờ được lại có biến này trong biến kia vậy.
Đang chuyện trò, thấy Tiết Dã Nhi cùng Khương Đình Đình cùng vào lạy chào. Tiêu Hậu hỏi Sa phu nhân:
- Còn mấy vị phu nhân nữa, tưởng rằng đều ở đây cả?
Dã Nhi đáp:
- Cùng chạy theo còn có Địch, Tần, Lý cùng Hạ phu nhân, nhưng đã cắt tóc, vào cửa Phật, làm ni cô rồi!
Tiêu Hậu lại thở than một hồi, rồi nói với Sa phu nhân:
- Phu nhân ở đây, còn Triệu Vương sao không thấy?
Sa phu nhân đáp:
- Triệu Vương mới cùng lũ trẻ đi săn rồi!
Tiêu Hậu tiếp:
- Ta cũng thường hay nhớ tới Triệu Vương.
Sa Phu Nhân đáp lời:
- Chốc nữa trở về, thấy mẫu hậu, nhất định tha hồ mà mừng.
Yến tiệc bày ra, toàn là chim núi, thú hoang, nem hươu, bướu lạc đà. Lúc này Vương Nghĩa đã được làm thị lang của Đột Quyết, Đình Đình đã được phong phu nhân, Dã Nhi làm bảo mẫu của Triệu Vương, tất cả cùng ngồi vào, kể lể chuyện xưa sau.
Trời đã về chiều, thấy tiểu nội thị vào thưa:
- Tiểu vương phụ đã về!
Tiêu Hậu hai năm nay không thấy Triệu Vương, nay thấy đã ra dáng vẻ trượng phu tuấn tú, thân hình cao lớn, lại săn được rất nhiều chim thú đem về vào thưa:
- Mẫu thân, con đã về!
Thấy yến tiệc đang bày, Triệu Vương vội vàng quay ra, Sa phu nhân bảo:
- Quốc mẫu đang ở đây, mau vào lạy chào!
Triệu Vương vẫn đứng yên, Dã Nhi cùng Đình Đình vội thay nhau giảng giải:
- Nương nương đây là Tiêu Hoàng hậu, chính cung của phụ hoàng, là quốc mẫu của Triệu Vương, lẽ tự nhiên phải vào bái kiến chứ!
Triệu Vương thấy nói thế vội chạy tới, vái hai vái. Tiêu Hậu vội khen:
- Mới chỉ hai năm không gặp, mà nay đã trưởng thành thế này rồi!
Triệu Vương lạy xong hai lạy, bỏ chạy ra ngoài mất. Sa phu nhân bảo.
- Phải quỳ lạy cẩn thận chứ, sao đã bỏ đi?
Dã Nhi vội chạy ra kéo Triệu Vương vào. Triệu Vương cãi:
- Bảo nương, Bảo nương cũng biết lúc còn ở Tùy cung, thì Tiểu Nương nương chính là quốc mẫu của ta thật, tất nhiên phải làm đại lễ hẳn hoi, nhưng nay nghe nói nương nương đã đi với họ Vũ Văn. Mẹ đã đi lấy chồng, thì chẳng còn quan hệ gì với tôn miếu, tình mẹ con cũng hết, huống chi nương nương là người đàn bà đã thất tiết, cho nên lạy hai lạy cũng đã là quá rồi, chẳng qua vì sợ mệnh của Sa mẫu thân mà thôi!
Nói xong, rút khỏi tay Dã Nhi, bỏ chạy ra ngoài. Tiêu Hậu nghe thấy hết, bất giác thấy hổ thẹn trong lòng, cất tiếng khóc lớn, nhớ lại thuở sinh thời Dượng Đế, ân tình ra sao, sau theo Vũ Văn Hóa Cập nhục nhã ra sao, nay hết chạy đông, đuổi tây, đến nỗi con không nhận mẹ, tiết chẳng nên tiết, vui chẳng ra vui, đến thân thích cũng còn thế, càng nghĩ lại càng sùi sụt, càng sùi sụt lại càng nghĩ ngợi, chẳng khác gì vợ Chu Kỷ Lương khóc đổ cả một đoạn Vạn lý Trường thành. May có Nghĩa Thành công chúa, cùng Sa phu nhân thật tình an ủi. Từ đó Tiêu Hậu ở hẳn đây với Nghĩa Thành công chúa. Chuyện không nói nữa.
- Lợi hại cũng chưa đáng sợ. Chỉ có Lưu Vũ Chu cùng Tiêu Tiên ở Tây Bắc, Vương Thế Sung ở giữa trung nguyên, thần sai người đưa thư đến, trước tiên là kết thân với Vương Thế Sung, để không phải lo trước sợ sau, sau đó cất binh chiếm lấy đất của Lưu Vũ Chu, Tiêu Tiên hai nơi, chẳng có gì mà không thắng được bọn này. Như vậy phụ hoàng thấy có nên không?
Vua Đường khen hay, liền viết ngay thư, sai Dương Thông cùng Trương Can đi Lạc Dương gặp Vương Thế Sung. Hai người lĩnh mệnh lên đường. Không ngờ Thế Sung xem xong nổi giận xé nát thư, lôi ngay Dương Thông chém dưới thềm, còn Trương Can thì cắt hai tai rồi đuổi về. Trương Can ôm đầu trở về Trường An khóc lóc kể với vua Đường. Lý Uyên nổi giận, định tự mình dẫn binh đánh Thế Sung, Tần Vương liền can:
- Phụ hoàng chẳng cần nổi giận rồi ra quân làm gì, con đã có cách xếp đặt đâu vào đấy. Hãy sai Lý Tĩnh làm Hành quân đại nguyên soái, dẫn mười vạn quân đi tiễu trừ Lưu Vũ Chu, con xin dẫn một cánh quân khác, thề quyết diệt kỳ được Vương Thế Sung thắng trận trở về yết kiến phụ hoàng.
Vua Đường cả mừng, liền cho Tần Vương kéo mười vạn quân, nhằm Lạc Dương mà tiến. Mỗi lần Tần Vương xuất binh, bọn tân khách của Tây phủ như Viên Thiên Cơ, Lý Thuần Phong, Hầu Quân Tập, Đào Tư Khiêm, Đỗ Như Hải, Hoàng Phủ Vô Dật, thường ngày vẫn được Tần Vương lấy lễ thầy trò mà đãi, nên bọn này đều được đi theo sát nơi màn trướng nguyên soái, trù liệu mưu kế. Tần Vương sai Ân Khai Sơn mang ấn tiên phong, Sử Nhạc, Vương Thường làm tả hữu hộ vệ, Lưu Hoàng Cơ làm trung quân chánh sự, Đoàn Chí Huyền, Bạch Hiển Đạo làm tả hữu hộ vệ, tự mình dẫn trung quân đi sau. Trưởng Tôn Vô Kỵ, Mã Tam Bảo lo việc bảo vệ thuyền bè, xe ngựa, thủy lục cùng tiến xuống Lạc Dương.
Vương Thế Sung nghe tin, liền dẫn quân ra Tuy Thủy, dàn thành trận thế nghênh địch. Tần Vương lập trại ở bờ bắc sông Tuy Thủy, hai quân đối diện, nhưng quân nhà Đường thì lính khỏe, tướng mạnh nên quân Thế Sung thua to, kéo chạy vào thành, đóng chặt cửa không chịu ra nữa.
Ngày hôm sau, trong trại quân nhà Đường, bày yến tiệc, khao thưởng ba quân, Tần Vương nhân rượu say hỏi người địa phương:
- Ở đây có nơi nào cảnh đẹp, có thể du ngoạn?
Thổ nhân đáp:
- Phía ngoài cửa bắc khoảng mười dặm, có núi Bắc Mang, chu vi có khoảng một trăm dặm, là nơi lăng mộ của các bậc vua chúa ngày xưa, cùng là mồ mả của các bậc trung thần liệt sĩ, rải rác như sao trời, như cờ trận, ở bên trong đủ các loại chim quý, thú lạ, thông xanh bách rợp, thật là một cảnh đẹp xưa nay vậy.
Tần Vương nghe nói vui mừng.
- Ta phải đến đó đi săn mới được.
Lý Thuần Phong can:
- Thần vừa xem quẻ xong, điện hạ vẫn còn cái họa một trăm ngày, hãy khoan giương cung, cưỡi ngựa, đi săn vội. Huống chi trên sắc mặt điện hạ thấy hiện rõ màu xanh thế kia, thì không đi đâu cả là hơn!
Tần Vương đáp:
- Ta sớm tối lúc nào cũng trong cảnh cung tên, xa ngựa, vẫn tâm thần sảng khoái, nào có thấy hoạn nạn gì đâu?
Rồi mặc áo giáp mỏng, áo bào nhẹ bên ngoài cùng với Mã Tam Bảo, đem theo cung tên, với khoảng mười lính kỵ, kéo lên Bắc Mang Sơn. Đến nơi Tần Vương nhìn bốn phía, cảm khái mà than rằng:
- Ta tưởng các vị vua đời trước, cai quản đất Trung Hoa này, cầm hàng trăm vạn quân trong tay, có biết bao anh hùng hào kiệt, nay may được mấy con ngựa đá bày bên, phủ đầy gai góc, làm bạn với thỏ với cáo thật là chán ngán. Mai sau có làm đến thiên tử nhà Đường, cũng đến thế này thôi sao!
Đang cảm thán đôi câu như thế, thì thấy phía tây bắc, có một con hươu trắng, nghểnh cổ đi lại, Tần Vương liền giương thẳng cung, bắn một mũi tên, trúng ngay lưng hươu, hươu mang cả tên cứ hướng tây mà chạy. Tần Vương quất ngựa đuổi theo, được đến mấy dặm, men theo sườn núi, thì con hươu lạ lùng không thấy đâu nữa, Tần Vương tìm khắp bốn phía mênh mông bãi cỏ rừng rậm, nhìn xa bỗng thấy cờ quạt rợp một góc trời, gươm giáo sáng loáng, một tòa thành mới sừng sững trước mặt, biển đề rõ ba chữ lớn: "Kim Dung thành", ánh vàng lóa mắt, Tần Vương nói:
- Thành này phải chăng là nơi của Lý Mật?
Mã Tam Bảo thưa:
- Đúng rồi! Điện hạ mau quay về, nếu bọn chúng biết thì khó mà thoát thân.
Không ngờ quân sĩ trong thành đã trông thấy, báo ngay cho Ngụy Vương, Lý Mật phán:
- Đây chính là kế dụ địch của Lý Thế Dân, không nên đuổi bắt.
Trình Giảo Kim dậm chân mà thét:
- Chúa công, không bắt lúc này thì còn đợi lúc nào nữa?
Nói rồi, cầm búa lớn, cưỡi ngựa thanh tông, phi như bay khỏi thành. Tần Thúc Bảo sợ Giảo Kim sơ xuất gì, vội đuổi theo sau. Tần Vương đang định quay ngựa, thì thấy một người một ngựa đuổi tới, miệng thét lớn:
- Lý Thế Dân đừng chạy nữa!
Tần Vương đặt ngang giáo trên lưng ngựa, rồi hỏi:
- Ngươi là ai!
Giảo Kim đáp:
- Ta là Trình Giảo Kim, riêng đến đây bắt ngươi.
Tần Vương cười:
- Thử xem sức ngươi có đủ làm ai sợ không?
Giảo Kim giơ cao hai búa, xông lên đánh, Tần Vương giơ thương ra đỡ, được khoảng ba mươi hiệp, vì Mã Tam Bảo đã bị Thúc Bảo đón đánh, Tần Vương đành phải bỏ chạy, Tam Bảo cũng không đánh nổi Thúc Bảo, nên chạy theo nốt. Giảo Kim đuổi theo Tần Vương gần kịp, Tần Vương rút tên, giương cung, bắn một phát, trúng ngay giải mũ Giảo Kim. Tần Vương thấy bắn không trúng, trong lòng hoảng sợ, quất roi ôm ngựa chạy dài, gặp ngay một tòa miếu cổ, có mấy chữ: "Lão Quân đường". Tần Vương nghĩ bụng: "Gặp được miếu này, sao không vào đây trốn quách xem sao". Rồi vội vào miếu, đóng ngay cửa lại lấy một viên đá lớn chẹn kỹ, còn ngựa thì buộc ngay ở bên thềm, nhìn lên tượng Lão Quân, cũng chẳng kịp chào, chỉ bái một vái mà khấn:
- Thánh thần tại thượng, nếu cứu được Lý Thế Dân này thoát được nạn trước mắt, xin sẽ trùng tu đền miếu đắp lại tượng vàng.
Khấn xong, liền nấp ngay dưới khám thờ.
Lão Quân ở "Lão Quân đường" vốn rất linh ứng, nên được hưởng cúng bái một vùng, nay thấy Lý Thế Dân có số mệnh hoàng đế anh minh, lúc tử vi còn cơn hoạn nạn, lẽ nào không hiển thánh, nên một trận cuồng phong bỗng nổi, xóa nhòa cả vết chân ngựa đưa Tần Vương tới, rồi lại thổi mấy chú nhện tới giăng đầy cửa miếu.
Giảo Kim đuổi Tần Vương đến ngã ba, bỗng không thấy đâu nữa, nhìn bốn chung quanh, chỉ thấy phía trước cây cối rậm rì, dây leo chằng chịt, liền cứ thế giục ngựa chạy tiếp, trèo lên sườn núi cao, thấy phía sau núi có một tòa miếu cổ, Giảo Kim vội vã phi ngựa tới trước cửa miếu, đập cửa thình thình vẫn chẳng thấy động tĩnh. Lại thấy mạng nhện giăng đầy, xung quanh bụi bám khắp trên cổng, khắp dưới đất, rõ ràng chẳng ai vào đây. Giảo Kim đành quay ngựa bước ra, lại trèo tiếp lên sườn núi, quay lại nhìn tòa miếu lần nữa, Giảo Kim giật mình kinh sợ, thấy một con mãng xà lớn màu vàng, đang nằm dọc theo nóc miếu.
Giảo Kim thầm nghĩ: "Ta nghe kể chuyện: Lưu Bang nhà Hán, chém rắn lớn ở núi Mang Đãng, về sau làm đến hoàng đế. Ta cũng đường đường một bậc trượng phu, lại không trừ nổi con nghiệt súc này sao?" Lại quay ra trước miếu, xuống ngựa, bê một hòn đá lớn, đập rầm rầm vào cửa, rồi trèo lên nhìn nóc miếu, thì chẳng thấy mãng xà đâu nữa. Giảo Kim nghĩ: "Có lẽ mãng xà này chui vào trốn trong miếu". Ra trước sân miếu thấy ngay con ngựa đang buộc ngay ở gốc cột, Giảo Kim gào lên:
- Thì ra Lý Thế Dân trốn ở trong này!
Nhìn khắp nóc nhà, vẫn chẳng thấy mãng xà đâu, lại thấy tấm rèm trước cửa khám lay động, vẻ như có đuôi mãng xà đang ngoe nguẩy ở bên trong. Thì ra Tần Vương thấy có người vào dò xét từng nơi, nên ngồi trong khám nhẹ nhàng rút kiếm ra. Lúc này Thúc Bảo cũng vừa kịp đến miếu, thấy Giảo Kim đang cuốn rèm trước khám lên, miệng quát:
- Thằng giặc! Nấp ở đâu?
Rồi giơ cao búa, cứ nhằm khám tối mà bửa, Thúc Bảo bỗng thấy hiện ra năm móng chân rồng vàng bíu chặt lấy lưỡi búa. Thúc Bảo biết ngay đó là chân mệnh hoàng đế, liền bước vội tới, giơ đôi giản, đỡ lấy lưỡi búa, nói:
- Hiền đệ, hiền đệ không biết rằng, Đường với Ngụy vốn là cùng họ, vẫn thường có thư từ qua lại, nếu mà giết chết thì không những không có công mà còn có tội nữa kia đấy!
Giảo Kim đáp:
- Đại huynh, đại huynh không biết, vừa rồi tiểu đệ thấy Thế Dân hóa thành con mãng xà vàng, nay nếu không giết, sợ lại hóa thành mãng xà mà trốn mất thôi!
Thúc Bảo lặng lẽ cười, rồi nhẹ nhàng đỡ Tần Vương từ trong khám ra, sai tả hữu dẫn ra khỏi cửa miếu. Bọn này dắt theo ngựa của Thế Dân, Thúc Bảo, Giảo Kim cưỡi ngựa kèm phía sau, kéo một hàng về Kim Dung thành. Lúc này dân hàng phố chẳng biết tốt xấu, thay nhau to nhỏ rằng:
- Ra dáng bậc trượng phu như vậy, mặt vuông, tai lớn, chẳng biết phạm phải tội gì, mà lại bị cả hai vị tướng quân phải theo giải về thành thế kia!
Mấy tên tay chân, có kẻ mau miệng nói:
- Các người đừng coi thường, đấy chính là Thái tử con của vua Đường, tự nhiên đi qua đây, bị hai tướng quân đây bắt được.
Trăm họ trầm trồ:
- Đúng là tướng mạo khác thường, thật dòng cành vàng lá ngọc. Tiếc thay! Thương thay!
Thúc Bảo trên ngựa, nghe những lời này, những muốn thả ngay Thế Dân ra, nhưng nhiều mắt, nhiều tai, không thể làm được, nên đành cứ thế, giải Thế Dân về.
Ngụy Công sai lực sĩ giải Thế Dân ra trước thềm, lớn tiếng trách mắng:
- Ngươi quả là phường gian tham, tự mình tìm đến cái chết. Cha ngươi trấn thủ Trường An, đất rộng người đông. Ta ở Dung Thành này, bất quá mấy vạn dân, mới đây lấy Hà Nam, nay lại nghe chuyện đánh úp thành này nữa sao? Thế thì còn đạo lý nào nữa?
Tần Vương đáp:
- Xin thúc phụ hãy nguôi cơn thịnh nộ, cháu xin có lời thưa, nhân vì Vương Thế Sung ở Lạc Dương, giết sứ thần của phụ thân, nên mới sai cháu lãnh binh tiễu trừ, sau một trận thua, Thế Sung đóng cửa không chịu ra khỏi thành, cháu phải lui binh về chân núi Thiên Thu Lãnh, nhân say rượu rồi đi săn. Chẳng có lòng nào mà nhìn ngó Kim Dung thành của thúc phụ, xin thúc phụ đừng nghi oan.
Ngụy Công giận dữ:
- Ngươi đừng giở giọng giảo hoạt, ta với ngươi nào có thân thích gì mà mượn tiếng gọi chú xưng cháu, chẳng qua ngươi cậy mình tài cán coi thường kẻ khác nên tới đây, nhòm ngó thực hư, để lựa kế mà hành động, nay lại lấy lời ngon ngọt lừa ta sao nổi.
Quát võ sĩ lôi ra chém đầu. Ngụy Trưng lên tiếng khuyên giải.
- Chúa công mà giết Thế Dân, thì không phải là kế an định xã tắc, mà Kim Dung thành này sẽ gặp tai họa đến nơi.
Huyền Thúy hỏi:
- Tại sao?
Ngụy Trưng thưa:
- Người này đã từng đông chinh tây thảo, giành được Trường An, cùng với cha lên ngôi trấn giữ một phương, binh tinh lương nhiều, thủ hạ nhiều như mây trời, mưu thần tài giỏi như mưa sớm.
Đường Công nếu nghe tin con yêu bị giết, tất dốc binh cả nước, trước là báo thù, sau là tàn sát kỳ hết, chẳng còn điều gì mà họ không dám làm.
Huyền Thúy liền hỏi:
- Nếu nói như thế, thì chẳng nhẽ ta thả Thế Dân ra sao?
Ngụy Trưng đáp:
- Chi bằng đem Thế Dân giam vào ngục thất, sai người báo cho Lý Uyên, nếu có thư sang triều cống, thì thả cho về, nếu không nghe theo, cứ giữ Thế Dân lại đó, thế là Đường Công suốt đời chẳng dám phạm vào đất ta, lại không tốt hơn sao!
Huyền Thúy khen:
- Khanh nói có lý lắm?
Liền sai ngục tốt dẫn vào nhốt ở Nam lao. Lúc này Đường Công ở Trường An, nghe Mã Tam Bảo thưa trình, định tự mình dẫn người ngựa đánh Lý Huyền Thúy để cứu Tần Vương, nhân Lưu Văn Tĩnh cùng Huyền Thúy là anh em con cô con cậu, khuyên Đường Công viết thư, sắp lễ vật, đến gặp Huyền Thúy. Không ngờ Huyền Thúy chẳng nhận họ hàng, đòi lôi ra chém đầu, may có Từ Mậu Công khuyên can mãi, nên mới được giam luôn vào Nam lao.
Khá thương:
Thanh long, bạch hổ ngồi tù
Anh hùng gặp nạn, thẫn thờ nhìn nhau.
Ngụy Công ra lệnh xong, đã thấy thám mã về tâu trình:
- Hiệu úy Khải Công ở Khai Châu, giết thứ sử Phó Sao, cướp ấn tín, cùng với tham quân Từ Vân, câu kết với thứ sử Ninh Lăng, đóng giữ Ung Thành làm phản, kéo người ngựa tới xâm phạm đất ta. Lại phao lên rằng: thứ sử Hà Đinh ở Hồng Châu dâng thành trì cho chúng. Lấy người ngựa của cả hai quận, cùng với Khải Công đánh vào Yển Sư, Mạnh Tân, trăm họ của hai nơi này, không người gìn giữ, thật muôn nghìn nguy cấp.
Huyền Thúy nghe thế cả sợ mà rằng:
- Yển Sư là cuống họng của ta, lương thực kho tàng đều ở đó cả, nếu bằng mất, thì thật là họa lớn cho nhà Ngụy. Ta phải tự thân dẫn đại quân đi mới xong.
Liền lệnh Trình Giảo Kim đi tiên phong, Đơn Hùng Tín, Vương Bá Đương làm tả hữu hộ vệ. Giữ Từ Mậu Công, Ngụy trưng, Thúc Bảo cùng trông coi việc nước, còn mình dẫn quân kéo thẳng tới Khai Châu.
Tần Vương mới vào nhà ngục, thì ngay đêm hôm ấy, con gái Huệ Anh nằm mơ thấy 1 con Rồng vàng nằm khoanh trong nhà ngục. Huệ Anh cả sợ, lẻn nhìn trộm xem sao, thì thấy rồng vàng bay lên, cuốn lấy mình, đến khi tỉnh dậy, kể lại cho Nghĩa Phù tỉ mỉ.
Nghĩa Phù biết ngay Tần Vương chính là chân mệnh thiên tử, đã có ý định thả cho cả hai về Đường, trong lúc vội vàng, vẫn chưa tìm ra được thời cơ thuận lợi. Nhưng vẫn cứ mỗi ngày ba lần cơm nước, mời Tần Vương cùng Văn Tĩnh sang gian sạch sẽ ngay bên khoản đãi chu đáo. Hai người vô cùng cảm tạ.
Một hôm Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, ngồi ở trong dinh của Mậu Công uống với nhau mấy chén rượu, nói tới chuyện Tần Vương, Thúc Bảo cả cười. Từ, Ngụy hai người liền hỏi:
- Hiền huynh cớ sao lại cười vậy?
Thúc Bảo đáp:
- Tiểu đệ nghĩ rằng Trình hiền đệ quá là một người ngờ nghệch.
Mậu Công hỏi:
- Sao lại ngờ nghệch?
Thúc Bảo đáp:
- Hôm ấy ở "Lão Quân đường", đang lúc Giảo Kim giơ búa để giết Tần Vương, thì tiểu đệ thấy năm móng rồng vàng bám giữ lấy lưỡi búa, vội giơ đôi giản đỡ, nhưng không thể thả Tần Vương ra được nên đành phải giải về thành. Giảo Kim bảo rằng Tần Vương chính là mãng xà tinh, nhất định phải giết. Thế thì có đáng cười không?
Ngụy Trưng lên tiếng:
- Tiểu đệ thấy Tần Vương dáng rồng mắt phượng, đúng là bậc chân chúa ở đời. Nên hôm vừa rồi chúa công định giết, tiểu đệ phải hết lời khuyên can, mới được giam ở Nam lao. Đến lúc vận hạn đã hết, Tần Vương trở về Trường An, thì tất là ngọc đá đều nát, làm thế nào bây giờ?
Mậu Công nói:
- Chúng ta đều là anh em tâm phúc ở đây cả. Nhân lúc Tần Vương gặp hoạn nạn này mà kết thân, thì mai kia gặp gỡ, cũng dễ làm nên sự nghiệp hơn nhiều.
Thúc Bảo cũng không tiện nhắc tới chuyện có ơn với Đường Công, lại vừa cứu được Tần Vương khỏi chết, chỉ gật đầu đáp:
- Từ hiền huynh nói xác đáng lắm!
Ngụy Trưng tiếp lời:
- Cứ như tiểu đệ nghĩ, cần phải nhân lúc Ngụy Công chưa về, chúng ta cùng kéo tới gặp Tần Vương, Lưu Văn Tĩnh chuyện trò, để thấy anh em chúng ta ở đây không phải ai cũng mù cả. Không biết ý hai hiền huynh ra sao?
Thúc Bảo tán đồng:
- Tiểu đệ cũng nghĩ như thế, ngày mai, xin tới sớm rồi cùng đi!
Sáng sớm, Thúc Bảo xếp sẵn cơm rượu tươm tất lặng lẽ sai người đem vào Nam lao. Ngụy Trưng, Mậu Công tới thì cũng là lúc mặt trời sắp đứng bóng, cả ba thay y phục, dắt theo một gia đồng, lên ngồi kiệu nhỏ, thẳng tới cửa Nam lao. Gia đồng vào báo với quan ngục. Từ Nghĩa Phù vội ra mở cửa. Ngụy Trưng sai gia đồng bảo phu kiệu trở về trước. Nghĩa Phù dẫn ba người vào phòng giam gặp Tần Vương cùng Văn Tĩnh. Tần Vương, Văn Tĩnh đều bái chào tạ ơn. Mậu Công lên tiếng:
- Không phải bọn tiểu đệ đều thuộc phường đui mù, không thấy được sự anh minh của điện hạ. Chẳng qua điện hạ cùng Văn Tĩnh đang gặp cơn vận hạn. Nay nhân Ngụy Công dẫn binh thảo phạt Khải Công, không có trong cung, anh em tiểu đệ tới đây gặp gỡ một phen.
Ngụy Trưng băn khoăn:
- Chỉ có thế này, thì đứng ngồi ra sao?
Thúc Bảo nói:
- Tiệc rượu đã bày đầy đủ ở phòng bên cạnh.
Văn Tĩnh nói với Mậu Công:
- Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy là quan nhỏ chức thấp, nhưng thực là bậc khác thường, may được ngục quan sớm chiều chăm nom, thực chẳng dám mong hơn. Quả là tài trí, hiểu biết của ngục quan thật hơn hẳn mọi người vậy.
Nói xong, thì mọi người cũng vừa tới phòng bên, phòng này gồm ba gian rộng rãi, sạch sẽ, khắp tường là những bức họa, những chữ viết các câu cách ngôn khuyên răn đạo lý. Ba người mời Tần Vương ngồi trên, rồi đến Văn Tĩnh, Ngụy Trưng, Thúc Bảo, Mậu Công. Tần
Vương nói:
- May được ý tốt của ba vị, Thế Dân này nào có tài cán gì, mà được ba vị ghé mắt xanh tới. Ngục quan Từ Nghĩa Phù, tuy giữ chức nhỏ, nhưng nhất định chẳng ở dưới người lâu nữa đâu, được mang ơn chu tất của ngục quan, ý của Thế Dân này cũng là "mượn hoa cúng phật", muốn mời Nghĩa Phù một ghế, không biết ba vị có bằng lòng ngồi cùng chăng?
Mậu Công đáp:
- Ngục quan nguyên xuất thân khoa giáp của nhà Tùy. Lúc trước chúa công đã xếp làm tư mã, nhưng không hiểu ý định ra sao, chỉ xin làm Hình tào giám thủ.
Ngụy Trưng nói:
- Tiểu đệ cũng nghe ngục quan Từ Nghĩa Phù thường làm việc thiện, lại hiểu biết. Trong giới quan trường mà được người như vậy thật là hiếm. Xin mời ngay ra đây cho.
Gia đồng mời Nghĩa Phù đến, khiêm nhượng một hồi, Nghĩa Phù ngồi xuống cuối tiệc. Rượu được ba tuần, thấy gia đồng nhà Nghĩa Phù bước vào thưa:
- Có lệnh của hoàng hậu!
Nghĩa Phù vội chạy ra. Ngụy Trưng cùng mọi người kinh ngạc, đều thấp thỏm chờ đợi. Nghĩa Phù quay lại, ngồi ghế cũ rồi. Ngụy Trưng mới hỏi:
- Trong cung có chuyện gì vậy?
Nghĩa Phù cười đáp:
- Quả không dám giấu. Hoàng hậu thật có duyên nợ với tiểu nữ, có biết tiểu nữ cùng theo đòi nghiên bút, lại thông hiểu âm luật, đã nhiều lần đòi vào trong cung thưởng thức, nên thường sai nội thị tới triệu. Hôm nay nhân mừng sinh Thái tử, cho người ra phán phải vào cung ngay.
Mậu Công nói:
- Lệnh ái nhất định tài mạo song toàn, không hiểu năm nay xuân xanh bao nhiêu?
Nghĩa Phù thưa:
- Tiểu nữ tên gọi Huệ Anh, tuổi vừa mười chín.
Mậu Công nghe Thúc Bảo cùng Ngụy Trưng, Tần Vương nói tới chuyện đánh úp Hà Nam, nên yên lặng nghe, chưa đáp lời Nghĩa Phù vội. Rồi tất cả đều quay sang chuyện chiến trận lập công kiến nghiệp. Chuyện đang say sưa, thì thấy gia đồng vào thưa với Ngụy Trưng:
- Quan nội thị đem thánh chỉ tới.
Ngụy Trưng nói với Thúc Bảo, Mậu Công:
- Chư huynh ngồi đây tiếp điện hạ, hãy cứ thong thả uống vài chén, tiểu đệ xin quay lại ngay.
Văn Tĩnh cùng Mậu Công vốn là bạn bè cũ, Thúc Bảo cùng Tần Vương vốn vì có ơn thâm giao, bốn người chuyện trò tâm đắc bỗng gia đồng lại vào thưa rằng:
- Ngụy đại nhân đã trở về!
Tất cả đứng dậy đón. Mậu Công nói:
- Đáng ra chúa công đánh dẹp Khải Công, mở đất chiếm thành, nên có thánh chỉ, sao thấy Ngụy hiền huynh có vẻ lo lắng?
Ngụy Trưng rút từ trong tay áo ra tờ chiếu thư:
- Xin mời chư huynh xem.
Phần trên nói về việc Khải Công cởi áo ra hàng, phía sau là nỗi mừng mới sinh Thái tử, nên ra lệnh ân xá, trừ những kẻ cường đạo, giết người trọng án, cũng không ân xá cho hai kẻ đang giam trong Nam lao là Lý Thế Dân và Lưu Văn Tĩnh. Thúc Bảo cùng Mậu Công xem xong, vò đầu nghĩ ngợi, chẳng nói một lời. Lại thấy bên ngoài tiếng người ồn ào, Ngụy Trưng hỏi:
- Sao mà huyên náo vậy?
Nghĩa Phù đáp:
- Có lẽ trong cung đưa tiểu nữ về chăng?
Gia đồng mời Nghĩa Phù ra. Mậu Công nói:
- Hôm trước Tần đại huynh định bày tiệc rượu ngay tại nhà để mời điện hạ, tiểu đệ sợ có sơ xuất gì thì chẳng thể đối phó kịp. Thuở ban đầu Ngụy Công đối xử còn có điều tình nghĩa, gần đây ngày càng kiêu căng, cậy mình thông hiểu mọi chuyện. Anh em tiểu đệ cũng muốn tìm cách giải thoát ngay cho điện hạ, nhưng mới đây Ngụy Công nhận ra chỗ thân tình ấy, cho nên lại càng cố giữ lại.
Thúc Bảo hỏi:
- Nay việc đã đến thế, làm thế nào đây?
Tần Vương thấy mọi người bàn bạc, chẳng biết nên nổi thế nào, đành lên tiếng an ủi:
- Đội ơn ba vị quá lo lắng cho. Cũng bởi hai chúng tôi đây, họa tình chưa hết, hãy cứ nấn ná ít lâu, cũng không hề gì. Chỉ phiền ba vị lại phải lâu công khó nhọc.
Ngụy Trưng bàn:
- Tiểu đệ nghĩ thế này...
Định nói nữa, thì thấy Nghĩa Phù bước vào, Ngụy Trưng ngừng lại, Văn Tĩnh liền nói:
- Nghĩa Phù đây cũng thuộc bạn bè tâm giao rồi, các vị có chuyện gì cứ nói, chẳng có điều gì phải lo ngại.
Ngụy Trưng nói với Văn Tĩnh:
- Xin Lưu hiền đệ xem qua chiếu ân xá, liệu chữ "bất" này, mà thêm một nét, thì nghiễm nhiên thành chữ "bản" (1). Công về cũng chẳng thể hạch sách gì được. Mà dẫu thế nào, thì đây là chuyện xương máu, ba anh em chúng ta cùng gánh chịu cũng đáng tội.
1 Trong chiếu ân xá có ý: "Bất xá Nam lao Lý Thế Dân..."chữ "bất”, rất giống chữ "bản", nếu chữa vậy thì có thể hiểu thành: "Vốn cũng ân xá cho Lý Thế Dân..."
Thúc Bảo vui mừng:
- Thế thì hay lắm, phải nhờ đến Ngụy đại huynh, viết sao cho thật giống thân bút của chúa công mới được.
Mọi người đứng xúm chung quanh có người khen hay, có người lặng yên không nói. Nghĩa Phù lên tiếng:
- Tiểu nhân cũng có nghĩ ra một cách, xin ba vị đại nhân cho phép thưa xem sao.
Mậu Công đáp:
- Huynh ông có kế hay, xin nói ngay cho.
Nghĩa Phù thưa:
- Đem chữ "bất" chữa thành chữ "bản", chỉ sợ văn nghĩa không thông, mà thật gượng gạo. Lại thêm chúa công vốn thông minh, hiểu biết, chứ không hôn ám gì, chỉ cần khác nét bút của mình một chút, một người cẩn thận như thế, sẽ thấy ra ngay thì thật có nhiều điều phiền toái. Chi bằng theo cách này của tiểu nhân vậy, để tiểu nhân thả điện hạ cùng Lưu đại nhân, chúa công về hỏi; ba vị cứ thế trút tội lên đầu tiểu nhân. Bất quá cũng chỉ đến tội trông coi Nam lao không cẩn thận, chẳng đến trọng tội đâu. Còn như chữa chiếu thư thì chẳng phải chuyện đùa.
Ai nấy đều khen:
- Lý lẽ xác đáng lắm!
Ngụy Trưng nói thêm:
- Nghĩa Phù bàn thế cũng phải. Nhưng không biết nên làm cách nào bây giờ.
Nghĩa Phù thưa:
- Vừa rồi Vương hậu cho gọi tiểu nữ vào, nhân ngày đầy tháng Thái tử, muốn viết sớ đến chỗ chúa công, nhưng trong người còn mệt mỏi, cho nên gọi tiểu nữ vào viết thay, sai người đem tới Mạnh Tân. Tiểu nữ thừa cơ nói rằng nên sai tiểu nhân làm việc này, sáng mai, canh ba phải lên đường, thật đúng là cơ hội để khỏi phải chữa chiếu thư. Hiện đã có ý chỉ ở đây, sai tiểu nhân tới chỗ Từ đại nhân lấy quan quân tới bảo vệ Nam lao. Cả tờ sớ trình chúa công đã được niêm phong bằng giấy lụa vàng, tiểu nữ đã cầm về đây rồi.
Nghĩa Phù đưa ý chỉ trong tay áo ra, thì thấy hoàng hậu viết rằng:
“Gửi cho chưởng ấn Binh bộ đại thần họ Từ:
Phái ngay lại tốt hai mươi tên đến Nam lao phòng giữ, tuần sát đợi khi nào ngục quan Từ Lập Bản công cán trở về, sẽ về bản bộ như cũ. Không được sai sót.”
Ngụy Trưng, Thúc Bảo cả mừng:
- Thật đây là đại phúc của nhà Đường, khiến cho điện hạ trở về triều, cha con sum họp quân thần gặp gỡ vậy!
Nghĩa Phù nói:
- Nhưng cần phải có tới năm ngựa tốt cùng với đầy đủ yên cương mới xong.
Ngụy Trưng hỏi:
- Cùng với huynh ông nữa cũng chỉ ba ngựa là đủ, còn thừa hai ngựa làm gì?
Nghĩa Phù đáp:
- Để cho tiểu nữ cùng với gia đồng.
Mậu Công nói:
- Nếu đã như thế, cũng nên mời lệnh ái ra đây ra mắt điện hạ, để rồi còn cùng lên đường.
Nghĩa Phù vội đứng dậy, rồi cùng Huệ Anh vào. Mọi người nhìn ra, thì tuy chẳng son, chẳng phấn nhưng lại càng hiện rõ vẻ đẹp trời ban. Nghĩa Phù thưa:
- Trong lúc vội vàng này, xin cho tiểu nữ lạy ba lạy.
Ai nấy đều theo đó đáp lễ. Nghĩa Phù mấy lần không dám nhận, cuối cùng cùng đành trả lễ ba vái. Huệ Anh vội quay trở ra.
Mậu Công lên tiếng:
- Tiểu đệ dạo đi đánh Hóa Cập, có lấy được hai con ngựa hay, nết rất hiền. Một con xin gửi điện hạ, một con xin tặng lệnh ái Huệ Anh.
Thúc Bảo nói:
- Con ngựa truy phong của điện hạ, hiện tiểu đệ đang nuôi trong chuồng nhà, chỉ cần thêm hai con nữa, hẹn một nơi nào đó rồi chúng ta nên chia tay nhau mà lo liệu công việc thì hơn.
Mậu Công đáp:
- Các vị nên nhanh chóng xếp đặt chu đáo cho. Tiểu đệ xin điều ngay tay chân đến đây, rồi cùng đến chỗ Thúc Bảo là hay hơn cả!
Ba người bàn bạc kỹ lưỡng một hồi, rồi Nghĩa Phù đưa ra tận cổng trại, rồi quay vào ngay, thu xếp tế nhuyễn, sắp hai bộ quần áo xanh cùng với mũ giày, đưa cho Tần Vương cùng Văn Tĩnh thay.
Nghĩa Phù lại lấy thêm hoa quả, gọi gia đồng bê thêm một vò rượu đến bày ở nhà khách. Tần Vương hỏi:
- Thêm rượu cùng các thứ nhắm này để làm gì?
Văn Tĩnh đáp thay:
- Thần hiểu những cái này của Nghĩa Phù dùng để làm gì, chốc nữa điện hạ sẽ thấy!
Bỗng nghe báo có người gọi mở cổng. Nghĩa Phù vội sai người ra xem, thì ra viên quan sai cùng mười tên lính, đến trình diện. Nghĩa Phù nói:
- Chỗ này là cửa cấm, vừa rồi Từ đại nhân đã tự thân xem xét, đã khóa kỹ lưỡng. Vừa dịp có hai người nhà, đến chỗ Đơn tướng quân có việc, nên bày tiệc rượu sẵn đây. Trời thì lạnh, rượu sẵn trong vò, xin mời cứ uống thoải mái, chỉ xin coi sóc trong ngoài cẩn thận cho thôi.
Từ Huệ Anh cầm đèn lồng đến, Tần Vương cùng Văn Tĩnh bưng hộp đựng sớ tấu, gia đồng gánh hành lý, rồi gọi một thổ binh ra mở cổng. Bọn Nghĩa Phù năm người vội vàng đi khỏi, chưa được bao lâu, đã thấy gia đồng nhà Thúc Bảo đến đón:
- Tần đại nhân đang nóng ruột đợi gặp các ngài.
Nghĩa Phù vào dinh Thúc Bảo, đã thấy bên sân buộc đủ năm ngựa, Thúc Bảo ra đón, nói với Tần Vương:
- Thúc Bảo này cũng biết điện hạ đang nóng lòng ra đi, nên không dám lưu luyến. Rồi chỉ mấy con ngựa nói tiếp:
- Mấy con ngựa này, Từ Mậu Công vừa cho người dẫn lại, con ngựa trắng lốm đốm vàng kia, xin biếu điện hạ. Còn con có yên phủ gấm thêu, xin tặng Huệ Anh tiểu thư. Ngựa của điện hạ, xin để cho Văn Tĩnh cưỡi. Còn hai con kia là của huynh ông Nghĩa Phù cùng gia đồng, đều là những ngựa thuần lại dai sức cả.
Rồi lấy ở ống tay áo ra mấy cái thư, đưa cho Văn Tĩnh, nói:
- Ba thư này phiền hiền huynh cầm hộ, một là biểu tạ ơn gửi lên vua Đường, một thư gửi Lý Dược Sư, một gửi cho Sài Tự Xương vậy, nhờ hiền huynh khó nhọc.
Văn Tĩnh vội bỏ ngay vào túi. Thúc Bảo sai gia đồng dẫn ngựa của mình để đưa Tần Vương khỏi thành.
Tần Vương ngăn:
- Ơn tướng quân biết bao tình nghĩa, Lý Thế Dân này xin khắc sâu vào tâm can, thật không dám phiền tôn giá tiễn ra khỏi thành, sợ thêm chuyện hiềm nghi.
Thúc Bảo gạt nước mắt:
- Kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, kẻ đại trượng phu sợ chuyện hiềm nghi thì chẳng làm nên chuyện gì cả.
Rồi lên ngựa trước, mọi người cũng đành lên theo, phi nhanh ra cửa thành, lại đinh ninh dặn dò một lần nữa, mới chắp tay cáo biệt.
Đó gọi là:
Trượng phu lòng thật ít lời
Nói ra những sợ người đời... ngẩn ngơ.