MỘT CỖ XE thắng bốn con ngựa béo tốt đẹp đẽ chạy vào chiếc cổng lớn, như người ta gọi, cửa Krátxnưê của nam tu viện N; các tu sĩ và học sinh tu viện đã tụ tập đông đủ, phía nhà khách dành riêng cho các bậc quyền quý; từ đằng xa, trông thấy người xà ích và mấy con ngựa béo tốt là họ đã biết ngay người phụ nữ ngồi trong cỗ xe là nữ hầu tước Vêra Gavrilốpna quen thuộc và hảo tâm của họ.
Ông già đánh xe mặc chiếc áo đính dải bạc nhảy ra khỏi ghế và bước lại mở cửa đỡ nữ hầu tước ra. Nàng nâng tấm mạng che mặt lên, khoan thai bước lại gần các tu sĩ cho họ lần lượt làm dấu, sau đó dịu dàng gật đầu chào các học sinh rồi đi vào tu viện.
- Thế nào, vắng nữ hầu tước, các người có thấy buồn không? - nàng nói với mấy tu sĩ mang giúp đồ đạc của nàng vào. - Cả tháng vừa rồi ta không đến đây. Các người ngắm nhìn đi. À, còn cha giám mục đâu nhỉ? Trời ơi ta nóng lòng gặp cha quá. Thật là một ông già kỳ diệu. Các người cần biết tự hào là các người đã có một vị giám mục như thế.
Khi vị giám mục bước vào, nữ hầu tước mừng rỡ thốt lên, đưa tay làm dấu ngực rồi đến gần bên ông.
- Không, không! Cha hãy để cho con hôn cha! - nàng vừa nói, vừa cầm lấy tay giám mục vồ vập hôn ba lần liền. - Ôi, con thật sung sướng vì cuối cùng đã được gặp cha. Chắc cha đã quên nữ hầu tước của cha rồi, còn con thì không lúc nào không tưởng tượng ra mình được sống trong tu viện thiêng liêng này. Ở tu viện của cha thật là tuyệt diệu thưa cha tôn kính. Cách xa với cuộc đời trần tục, ở chốn thâm nghiêm này, có một cái gì đặc biệt lôi cuốn mà con cảm thấy được bằng cả tâm hồn mình tuy không sao nói ra lời được!
Gương mặt nữ hầu tước ửng đỏ, mắt nàng rơm rớm lệ. Nàng nói liền một thôi, giọng say sưa, và vị giám mục, một ông già bảy mươi tuổi, vẻ mặt nghiêm nghị, xấu xí, thì rụt rè đứng im, chỉ chốc chốc mới lại nói mấy tiếng nhát gừng theo kiểu nhà binh:
- Đúng thế, thưa bà... Vâng, tôi hiểu...
- Bà đến chơi với chúng tôi có được lâu không ạ? - vị giám mục hỏi.
- Hôm nay con sẽ ngủ lại đây, ngày mai thì đến chỗ bà Klápđia Nikôlaiépna - đã lâu con không được gặp bà ấy, ngày kia con lại trở về đây ở chừng ba, bốn hôm. Con muốn được tĩnh tâm ở chốn này ít ngày, cha đáng kính ạ!...
Nữ hầu tước thích đến tu viện N. Từ hai năm nay, nàng thích lui tới chốn này, hầu như tháng hè nào nàng cũng đến đây, ở lại chừng hai, ba ngày, có khi đến một tuần. Những học sinh rụt rè, vẻ tĩnh mịch, mái trần thâm thấp, mùi cây trắc bá, những bữa ăn thanh đạm, những tấm rèm cửa rẻ tiền - tất cả những cái đó làm nàng cảm thấy trong lòng lâng lâng, dìu dịu, thích ngắm cảnh đất trời và nghĩ tới điều thiện. Chỉ cần ở tu viện nửa tiếng đồng hồ là nàng đã bắt đầu có cảm giác rằng chính mình trở nên rụt rè, khiêm nhường, từ người nàng như cũng toát ra mùi hương cây trắc bá; quá khứ lùi về đâu xa lắc, không còn nghĩa lý gì nữa, và nữ hầu tước bắt đầu nghĩ rằng, mặc dầu nàng mới hai mươi chín tuổi, nàng vẫn giống vị linh mục già kia, cũng sinh ra không phải để hưởng giàu sang, để hưởng yêu đương và danh vọng nơi trần tục, mà để sống một cuộc đời lặng lẽ xa cách với thế giới bên ngoài, âm thầm tối tăm như những căn buồng trong tu viện...
Trong căn buồng mờ mờ tối của người tu sĩ ăn chay đang mê mải đọc kinh, có khi bất chợt rọi tới một tia nắng mặt trời, hay một con chim nhỏ nào bỗng đậu vào cửa sổ và cất tiếng hót; người tu sĩ ăn chay khắc khổ kia chắc sẽ bất giác mỉm cười, và trong trái tim nhà tu hành, từ trong nỗi lo âu về tội lỗi, như từ dưới một tảng đá đang đè nặng, bỗng tràn lên một niềm vui lặng lẽ trong trắng. Nữ hầu tước cảm thấy như chính nàng đã đem theo tới chốn này một niềm an ủi giống như tia nắng hay tiếng chim hót ngoài cửa sổ kia. Nụ cười tươi vui niềm nở của nàng, ánh mắt nhìn xinh xắn, giọng nói, câu đùa, và tất cả con người nàng, nhỏ nhắn, cân đối trong chiếc áo màu đen giản dị, chắc chắn cũng gợi cho những người tu sĩ bình thường khắc khổ ấy một niềm vui nhè nhẹ và thiết tha. Mỗi tu sĩ nhìn lên nàng chắc đều phải nghĩ rằng: “Chúa đã phái tới chúng ta một thiên thần”... Cảm thấy rằng mỗi người tu sĩ đều đang nghĩ như thế, nữ hầu tước càng cố cười cho ra vẻ niềm nở hơn, cố làm cho mình giống như con chim hót ngoài cửa sổ.
Uống một chút nước chè và nghỉ một lúc, nàng bước ra ngoài đi dạo. Mặt trời đã lặn. Trong vườn tu viện, những bông hoa mộc tê thảo vừa được tưới tỏa hương thơm ngào ngạt, từ phía nhà thờ nghe vọng lại những giọng nam hát xa xa có lẽ là buồn buồn, êm dịu. Họ đang làm lễ cầu kinh buổi tối. Từ ánh đèn dầu le lói qua những khung cửa sổ sẫm tối đến hình dáng người tu sĩ già ngồi trên bậc thềm nhà thờ, gần bên tượng Chúa xin của bố thí, toát ra một vẻ gì thật thanh cao, yên tĩnh, đến nỗi nữ hầu tước cảm thấy mình muốn khóc...
Phía ngoài cổng lớn, trên con đường men theo bờ tường và những hàng bạch dương, nơi đặt những chiếc ghế băng dài, bóng tối đã phủ xuống. Không gian tối đi rất nhanh... Nữ hầu tước đi dạo trên con đường nằm giữa hai hàng cây, ngồi xuống ghế và miên man suy nghĩ.
Nàng nghĩ rằng tốt hơn hết có lẽ nên dọn đến sống suốt đời ở tu viện này, nơi cuộc sống thật bình yên, lặng lẽ như một buổi chiều hè, tốt hơn hết là quên hẳn người chồng bội bạc, sa đọa, quên hẳn cái gia tài nguy nga đồ sộ, quên hẳn những tên chủ nợ ngày nào cũng quấy rầy nàng, quên những điều bất hạnh của mình và quên cả đứa hầu gái Đasa mà sáng hôm nay vẻ mặt trông thật dữ tợn. Thật là khoan khoái biết bao nếu nàng có thể ngồi lại chiếc ghế này suốt đời nhìn qua những hàng cây bạch dương và thấy sương chiều nhè nhẹ bay dưới chân đồi, từ phía cánh rừng xa tít tắp đàn quạ nhịp nhàng bay về tổ như một dải khăn voan, và hai học sinh, một người cưỡi con ngựa khoang, một người chạy bộ, cả hai đang xua đàn ngựa ăn đêm - vui thú với cảnh trời khoáng đãng, cả hai người cùng đùa giỡn như trẻ thơ; giọng nói trẻ trung của họ vang đi khắp khoảng không gian tĩnh mịch, nghe rõ từng tiếng một. Thật là khoan khoái biết bao, khi ngồi đây và lắng nghe tiếng gió nhè nhẹ thổi lao xao trên những ngọn bạch dương, tiếng ếch nhái nhảy lạo xạo trong đám lá khô, tiếng đồng hồ sau bức tường kia chốc chốc lại điểm mười lăm phút... Giá như được ngồi yên ở đây, lắng nghe và suy nghĩ, suy nghĩ miên man...
Một bà lão vai đeo chiếc túi, đi qua. Nữ hầu tước nghĩ rằng, có lẽ nên mời bà lão dừng lại, nói với bà một điều gì thật chân tình, dịu dàng và giúp đỡ bà... Nhưng bà lão không hề quay nhìn nàng một lần nào và rẽ quặt sau bờ tường.
Một lát sau, trên con đường ấy xuất hiện một người đàn ông cao, chòm râu bạc trắng, đầu đội mũ rơm. Đi ngang qua chỗ nữ hầu tước ngồi, người đó ngả mũ, cúi chào nàng; nhìn vào mái đầu hói, cái mũi cao khoằm khoằm của người đàn ông nàng nhận ra đó là thầy thuốc Mikhain Ivanôvíts, người trước đây năm năm đã từng làm việc trong nhà nàng ở Đubốpki. Nàng nhớ lại có người nào đã nói cho nàng biết rằng năm ngoái vợ ông thầy thuốc này đã chết và nàng muốn nói với ông ta một lời an ủi.
- Chắc ông không nhận ra tôi nữa phải không? - nàng hỏi, miệng cười niềm nở.
- Không đâu, thưa bà hầu tước, tôi vẫn nhận ra bà, - người thầy thuốc nói, lại ngả mũ một lần nữa.
- Ồ, thế thì cảm ơn ông, tôi lại cứ ngờ rằng, ông đã quên mất người nữ hầu tước xưa rồi. Con người ta thường chỉ nhớ những kẻ thù của mình, còn bạn bè thì hay quên mất. Ông đến đây cầu nguyện ư?
- Tối thứ bảy nào tôi cũng có bổn phận đến ngủ ở đây. Tôi chữa bệnh ở đây.
- Thế nào, dạo này ông sống ra sao? - nữ hầu tước vừa thở dài vừa hỏi. - Tôi nghe nói vợ ông vừa mới mất! Thật là đau khổ!
- Vâng, thưa bà, đối với tôi đó là một nỗi đau khổ lớn.
- Biết làm thế nào được! Chúng ta phải an phận mà chịu đựng những điều bất hạnh. Không có ý Chúa thì đến sợi tóc cũng không thể rụng ra được.
-Vâng, thưa bà.
Đáp lại nụ cười niềm nở dịu dàng và tiếng thở dài ra chiều thương cảm của nữ hầu tước, người thầy thuốc chỉ nói lạnh lùng, khô khan: “Vâng, thưa bà”. Và nét mặt của ông cũng lạnh lùng, khô khan như vậy.
“Có thể nói với ông ta điều gì nữa?” - nữ hầu tước nghĩ thầm.
- Này, mà chúng ta đã bao lâu không gặp nhau rồi nhỉ? - nàng hỏi. - Năm năm rồi! Trong khoảng thời gian ấy, bao nhiêu nước đã trôi ra biển, bao nhiêu sự đổi thay đã xảy ra, chỉ thoáng nghĩ tới thôi cũng đã thấy thật là khủng khiếp! Chắc ông biết đấy, tôi đã đi lấy chồng... từ bá tước trở thành hầu tước. Và cũng đã ly dị với ông ta rồi.
- Vâng, tôi có nghe nói.
- Chúa bắt tôi phải chịu nhiều thử thách. Chắc ông cũng đã nghe thấy rằng tôi hầu như bị phá sản. Để trả những món nợ của người chồng bất hạnh, tôi phải bán mấy trang ấp ở Đubốpki, ở Kiriakôvô và ở Xôphinô. Bây giờ tôi chỉ còn trang ấp ở Baranôvô và Mikhanxevô. Nhìn lại quá khứ thật là khủng khiếp: biết bao đổi thay, bao nhiêu điều bất hạnh, bao nhiêu lầm lỗi.
- Vâng, thưa bà, biết bao nhiêu lỗi lầm.
Nữ hầu tước hơi bối rối một chút. Nàng biết rõ những lỗi lầm của mình; nhưng tất cả những lỗi lầm ấy đều riêng tư đến mức chỉ một mình nàng mới có thể nghĩ và nói đến chúng. Nàng không nén được, bèn hỏi luôn:
- Ông nghĩ đến những lỗi lầm nào vậy?
- Bà đã nhắc đến, chắc là bà cũng đã biết... - người thầy thuốc trả lời và cười khẩy. - Còn biết nói thế nào nữa?
- Không, ông ạ, ông cứ nói đi. Tôi sẽ rất biết ơn ông. Xin ông đừng e ngại gì. Tôi thích nghe lời nói thẳng.
- Thưa nữ hầu tước, tôi không phải là quan tòa.
- Không phải quan tòa ư? Ông nói giọng như thế chắc là ông đã biết nhiều điều. Ông cứ nói đi.
- Nếu bà đã muốn nghe, thì xin cho phép tôi nói. Chỉ tiếc rằng tôi không biết diễn đạt rõ ràng và không phải bao giờ người ta cũng hiểu được tôi.
Người thầy thuốc nghĩ một lát rồi bắt đầu nói:
- Lỗi lầm thì có nhiều, nhưng có thể nói rằng, theo ý riêng tôi, lỗi lầm lớn nhất là ở cái không khí chung, cái không khí... chung bao trùm tất cả trang ấp của bà. Bà thấy đấy, tôi không biết cách diễn đạt. Tôi muốn nói rằng điều chủ yếu nhất là cái thái độ thù ghét, thái độ hắt hủi con người có thể thấy rõ ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tất cả lối sống trong trang ấp của bà là dựa trên cái thái độ thù ghét hắt hủi đó. Thù ghét với giọng nói, gương mặt con người, thù ghét khi phải nhìn gáy họ, nhìn bước chân họ... nói gọn lại là ghê tởm tất cả những gì tạo nên con người. Trong các ngôi nhà của bà, trên tất cả mọi cửa ra vào, mọi lối lên cầu thang đều có những người hầu mặc áo đính dải bạc, vẻ mặt no nê, lỗ mãng, lười nhác đứng chực sẵn không để cho một người nào ăn mặc tồi tàn bước vào; ở nhà ngoài thì bao giờ cũng đặt những chiếc ghế có tựa rất cao để trong những lúc có dạ hội khiêu vũ hay tiệc tùng, bọn người hầu không tựa đầu làm bẩn được tường nhà; trong mọi căn phòng đều trải những tấm thảm dày để khỏi phải nghe thấy tiếng chân người; bất kỳ người nào đến nhà bà cũng bắt buộc được nhắc trước rằng phải nói nhỏ hơn, ít hơn và không nói ra những gì có thể làm ảnh hưởng xấu đối với thần kinh của chủ nhân. Còn trong phòng làm việc của bà thì không bao giờ người ta chìa tay ra với ai, không bao giờ người ta mời ngồi, như lúc này đây bà cũng không hề chìa tay và mời tôi ngồi...
- Xin mời ông, nếu ông muốn thế. - Nữ hầu tước nói, tay chìa ra và mỉm cười. - Thực là ông tức giận vì điều nhỏ nhặt thế kia...
- Tôi tức giận thật ư? - người thầy thuốc cười vang, nhưng liền đó ông bỗng cầm lấy mũ hoa hoa lên và chuyển giọng nói say sưa - Nói thẳng ra rằng, từ lâu tôi đã chờ dịp nói với bà tất cả mọi điều... Tôi muốn nói rằng đối với bất cứ ai, bà cũng nhìn người ta như Napôlêông, nghĩa là coi người ta như đống thịt cho đại bác bắn vào. Nhưng Napôlêông còn có một tư tưởng nào đó, chứ bà thì chẳng có gì khác ngoài thái độ thù ghét con người.
- Tôi mà thù ghét con người ư? - nữ hầu tước mỉm cười nói, kinh ngạc nhún vai, - tôi mà thế ư?
- Vâng, đúng là bà như thế! Bà cần có dẫn chứng ư? Thì đây, ở trang ấp Mikhanxevô của bà bây giờ có ba người ăn mày trước kia làm đầu bếp cho bà rồi bị mù vì hơi nóng bếp lò. Trên khắp miền đất đai rộng hàng chục ngàn đêxiachina của bà, tất cả những thanh niên lực lưỡng, trẻ đẹp nhất được bà và những kẻ nịnh bợ sống nhờ bà lấy về làm kẻ hầu hạ, kẻ đánh xe. Tất cả những thanh niên ấy đều được dạy dỗ thành kẻ hầu hạ, dần biến thành giống vật hai chân, thô lỗ, cục cằn, mất hết tính cách con người, nói chung... Bà làm cho bao nhiêu người thầy thuốc trẻ tuổi, bao nhiêu nhà giáo, nhà nông học và nói chung là những người trí thức phải lìa bỏ công việc nghiên cứu lương thiện của mình, bắt họ phải vì miếng ăn mà tham dự vào những tấn hài kịch kinh khủng mà bất cứ người đứng đắn nào cũng cảm thấy xấu hổ! Một người trẻ tuổi nào đấy chỉ cần làm việc cho bà chưa đầy ba năm là trở thành một kẻ đạo đức giả, ưa ton hót, nịnh nọt... Điều đó có gì là hay ho? Những tên quản gia người Ba Lan của bà là những kẻ chuyên nghề dò xét bỉ ổi, cái bọn Kadimir và Kaêtan ấy sục sạo suốt từ sáng đến đêm tất cả miền đất rộng hàng vạn đêxiachina của bà và theo ý muốn của bà luôn luôn chỉ bóc lột thôi. Xin lỗi tôi được nói lộn xộn một chút, như thế cũng không sao đâu! Bà không bao giờ coi những kẻ nghèo hèn là con người cả. Và cả những vị bá tước, hầu tước, những giám mục đến chơi với bà, bà cũng chỉ coi là những vật trang trí đâu phải là những con người. Nhưng điều chủ yếu nhất... điều chủ yếu nhất, làm tôi công phẫn hơn cả là - bà có một gia sản trị giá hơn triệu bạc mà không hề làm gì ích lợi cho mọi người, không hề làm gì!
Nữ hầu tước ngồi nghe, vừa ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận, vừa không biết phải nói thế nào và tỏ thái độ ra sao. Từ trước đến nay chưa từng có ai nói với nàng bằng giọng như vậy. Giọng nói đầy giận dữ, khó chịu của người thầy thuốc và những lời khó nhọc vụng về của ông làm tai nàng ù lên, và lập tức nàng có cảm giác như là người thầy thuốc đang hoa hoa tay vung mũ đập vào đầu mình.
- Không đúng đâu! - nàng nói nhỏ, giọng như van lơn. - Tôi đã làm nhiều điều tốt lành đối với mọi người, điều đó chắc ông cũng biết!
- Thôi đủ rồi! - người thầy thuốc kêu lên. - Lẽ nào bà vẫn tiếp tục coi những hành động từ thiện của bà là một công việc nghiêm chỉnh đầy ích lợi, chứ không phải là một tấn hài kịch sao? Đó chỉ là một tấn hài kịch từ đầu đến cuối, đó là một trò chơi và tỏ tình yêu đối với người khác, một trò chơi hoàn toàn, đến trẻ con, đến các bà u mê nhất cũng nhận thấy! Cứ thử lấy thí dụ như cái nhà, gọi thế nào nhỉ, nhà làm phúc dành cho những bà lão tứ cố vô thân, mà bà đã từng bắt tôi đóng vai thầy thuốc trưởng còn bà thì tự nhận là người đỡ đầu danh dự. Trời, thật khó mà tưởng tượng được cái ngôi nhà từ thiện ấy khủng khiếp như thế nào. Người ta đã dựng nên một ngôi nhà có sàn lát ván, trên mái cắm mũi tên nhỏ quay chỉ chiều gió, tập hợp trong mấy làng được chừng mười bà già rồi bắt họ ngủ, đắp chăn cào bông lót vải lanh Hà Lan và ăn kẹo đường phèn.
Người thầy thuốc cười sằng sặc lấy mũ che miệng, ông nói tiếp, giọng vẫn vội vàng, khó nhọc:
- Quả là một trò chơi. Những kẻ bần tiện mà bà đã sai phục dịch các bà lão đó đã đem giấu chăn chiếu vào một buồng rồi khóa lại, để các bà già khỏi làm bẩn chúng - mặc kệ mấy mụ già cho họ nằm xuống sàn nhà mà ngủ. Các bà lão không ai dám ngồi lên giường, dám mặc áo bà phát cho, dám đi lại trên nền nhà bóng nhẵn. Tất cả mọi thứ đều được duy trì chỉ để trưng bày, phô trương và giấu không cho các bà lão thấy như giấu những tên ăn trộm; các bà lão đã âm thầm cam chịu sống qua như vậy; ngày đêm cầu nguyện Chúa mau mau giải thoát họ ra khỏi cảnh cầm tù này, giải thoát họ khỏi sự dạy dỗ của những kẻ bần tiện no nê mà bà đã cắt đặt đến trông nom họ. Thế còn những kẻ khác trong tay bà cai quản thì làm gì? Ô, điều đó thì thật là kỳ lạ! Cứ hàng tuần, hai lần vào buổi tối, bà sai ba mươi lăm nghìn người tùy phái để báo khắp nơi là ngày mai nữ hầu tước, tức là bà, sẽ đến thăm nhà làm phúc. Điều đó có nghĩa là ngày mai tôi cần phải bỏ những người bệnh lại, đóng bộ chỉnh tề và đi dự lễ rước đón bà. Thôi được rồi, tôi đến nơi đó. Các bà lão đều mặc sống áo mới tinh tươm, sạch sẽ và đứng thành hàng chờ đợi. Lão quản gia vốn là một tên lính què giải ngũ đi đi lại lại bên cạnh họ, miệng mỉm cười đầy vẻ nịnh bợ, hèn hạ. Các bà lão ngán ngẩm ngáp dài, liếc nhìn nhau, nhưng không một ai dám kêu ca. Tất cả mọi người chờ. Mới đầu một viên tiểu quản gia cưỡi ngựa đến. Chừng nửa giờ sau viên chánh quản gia đến, tiếp đấy là viên tổng quản gia thực phẩm, rồi những ông gỉ ông gì nữa đến... đông vô kể. Vẻ mặt ai ai cũng bí ẩn, nghiêm trang. Mọi người cứ thế đứng chờ, đứng chờ, luôn luôn đổi chân cho đỡ mỏi, chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ - tất cả những điều ấy diễn ra im phăng phắc như trong nhà mồ, vì tất cả mọi người chúng tôi đều ghét nhau và coi nhau như kẻ thù. Một giờ, hai giờ trôi qua, và cuối cùng, một cỗ xe hiện ra từ đằng xa, và... và...
Người thầy thuốc cười khe khẽ và nói bằng một giọng nhỏ nhẹ:
- Bà bước xuống xe, và tất cả cái đám gia nô yêu quái của bà theo sự điều khiển của viên quản gia đồng thanh cất tiếng hát: “Chúa của chúng ta nổi tiếng ở vương quốc của Người đến nỗi chúng con không nói nên lời...”(1) Nghe cũng được đấy chứ?
Người thầy thuốc cất giọng cười ồm ồm, hất tay như ra hiệu rằng vì buồn cười quá mà ông không thể nói tiếp được lời nào. Ông cười khó nhọc, hàm răng nghiến chặt như một kẻ tàn nhẫn; qua giọng nói, vẻ mặt, ánh mắt hơi dữ tợn của ông cũng có thể hiểu được rằng ông đã khinh bỉ sâu xa cả bà hầu tước, cả ngôi nhà làm phúc và cả các bà lão. Trong tất cả những điều ông vừa kể một cách vụng về, thô thiển đó, không có một chút gì là vui vẻ, đáng buồn cười cả, nhưng ông vẫn cười vang với vẻ thú vị và sung sướng nữa là đằng khác.
- Còn trường học thì thế nào? - ông tiếp tục nói, khó nhọc thở vì cười nhiều. - Bà còn nhớ không? Chính bà đã muốn tự mình dạy trẻ con nông dân học. Chắc là bà dạy hay lắm, vì rằng chỉ ít lâu sau tất cả bọn trẻ con đều bỏ trốn hết, nên sau đó phải đánh đập chúng, bỏ tiền ra thuê chúng đến cho bà dạy. Bà còn nhớ rằng bà đã từng muốn tự tay mình cầm chai sữa cho trẻ thơ bú, lúc mẹ chúng phải làm việc ngoài đồng không? Bà đã đi khắp làng và khóc vì tiếc rằng không có một đứa bé nào để bà rủ lòng thương theo lối đó. Tất cả các bà mẹ đều mang theo con nhỏ của mình ra đồng. Sau đó viên trưởng thôn phải ra lệnh cho các bà mẹ lần lượt để con nhỏ lại cho bà giải trí. Thật là kỳ quặc! Tất cả mọi người đều tránh xa lòng từ thiện của bà như chuột tránh mèo! Vì sao lại thế? Thật là dễ hiểu. Không phải vì rằng dân chúng ở đây u mê và vô ơn như bà vẫn thường giải thích, mà vì rằng trong tất cả những trò giải trí của bà, xin lỗi là đã dùng chữ như vậy, không có lấy một chút tình thương, một chút lòng thành nào, mong cứu giúp mọi người! Chỉ có một ý muốn duy nhất là muốn được chơi những con búp bê sống, không có gì khác hơn... Ai không biết phân biệt con người với chó nhỏ thì người đó không nên can dự vào những việc từ thiện. Tôi muốn khẳng định với bà rằng, giữa con người và chó nhỏ - là cả một sự khác biệt to lớn!
Nữ hầu tước cảm thấy tim mình đập mạnh khủng khiếp, tai ù lên, nàng vẫn có cảm giác rằng người thầy thuốc đang quật mũ vào đầu mình. Người thầy thuốc tiếp tục nói với giọng sôi nổi, vội vã, khó nhọc, lời nào cũng kèm theo điệu bộ. Nữ hầu tước chỉ có thể hiểu được một điều rằng người đang nói với nàng là một kẻ lỗ mãng, vô giáo dục, độc ác, vô ơn, con người đó nói những gì, muốn đòi hỏi ở nàng cái gì - thì nàng hoàn toàn không hiểu.
- Thôi, ông đi đi! - nàng nói với giọng gần như khóc, hai bàn tay giơ lên như muốn che đầu mình để khỏi bị chiếc mũ của người thầy thuốc đập vào. - Ông đi đi cho!
- Đối với những kẻ phục dịch trong nhà, bà đã đối xử thế nào? - người thầy thuốc giận dữ nói tiếp. - Bà không coi họ là người, bà khinh miệt họ như thể họ là những kẻ đểu giả, ti tiện nhất. Chẳng hạn như, xin được hỏi bà rằng, vì lý do gì bà đã đuổi tôi ra? Tôi đã từng phục dịch cha bà mười năm rồi tiếp đấy là đến bà, nói thật là suốt bấy nhiêu năm ấy, tôi không hề biết ngày lễ, kỳ nghỉ nào, trong khắp một vùng rộng hàng trăm vécxta ai ai cũng mến tôi, thế rồi đến một ngày kia, bỗng nhiên người ta bảo tôi rằng tôi không làm ở đây được nữa. Vì lẽ gì? Đến giờ tôi cũng không hiểu nổi! Tôi là một bác sĩ y khoa, xuất thân quý tộc, nguyên là sinh viên trường đại học tổng hợp Maxcơva, có một gia đình và là một con người hèn mọn đến mức người ta có thể đẩy cổ xua đi mà không cần phải giải thích vì lý do gì! Việc gì mà phải tỏ thái độ lịch thiệp đối với tôi! Sau này tôi nghe người ta nói lại rằng, vợ tôi đã giấu tôi ba lần đến nhà bà để xin cho tôi và cả ba lần bà đều không tiếp. Người ta kể rằng, vợ tôi đã phải ngồi khóc ở nhà ngoài. Tôi không bao giờ tha thứ cho lỗi lầm ấy của vợ tôi, người vợ quá cố! Không bao giờ tha thứ!
Người thầy thuốc ngừng nói, mím chặt môi, căng óc cố nghe xem có thể nói được gì thêm thật độc địa, cho hả mối thù xưa. Ông chợt nhớ ra điều gì, khuôn mặt rầu rầu, lạnh lùng của ông bỗng sáng lên:
- Hãy thử xem thái độ của bà đối với tu viện này như thế nào? - ông lại vội vã nói tiếp. - Không bao giờ bà xót thương gì một ai, chỗ nào càng thiêng liêng bao nhiêu thì chỗ ấy càng có nhiều khả năng may mắn được bà ra tay cứu giúp, phù hộ độ trì. Bà hay đến chỗ này để làm gì vậy? Xin được hỏi bà rằng bà cần cái gì ở những nhà tu hành này? Đối với bà thì Ghêkuba là ai, đối với Ghêkuba thì bà là ai?(2) Lại vẫn chỉ là một trò chơi, trò giải trí, một sự khinh miệt đối với con người, không hơn không kém. Bà có tin vào Chúa của các vị tu hành đâu, trong lòng bà có một chúa riêng mà bà đã tự tìm ra trong khi nghiên cứu thuyết thông linh; đối với mọi nghi lễ nhà thờ bà kênh kiệu, rẻ rúng, bà không hề đi lễ sáng lễ tối, bà ngủ đến trưa mới dậy... vậy thì bà còn đến đây để làm gì?... Bà có vị chúa riêng của mình mà lại đến tu viện thờ một chúa khác, rồi bà lại tự nghĩ rằng, cả tu viện sẽ coi đó là một điều vinh dự phi thường đối với mình! Thật là quá quắt! Bà cứ thử hỏi xem, các tu sĩ đã phải bận rộn thế nào những khi bà hạ cố đến đây? Bà đến đây chiều tối hôm nay thì trước đây ba hôm bà đã sai người cưỡi ngựa đến báo trước rằng bà sắp tới thăm. Suốt cả ngày hôm qua, mọi người đã phải sửa soạn buồng cho bà và chờ đợi đón bà. Ngày hôm nay con hầu đến trước, nó nhâng nhâng nháo nháo, chỗ nào cũng sục vào, vặn vẹo hỏi han... thật không thể nào chịu được! Cả ngày hôm nay, các tu sĩ đều phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Vì nếu họ không đón tiếp bà một cách long trọng thì khốn to! Bà sẽ than phiền với vị giám mục: “Thưa đức cha, các tu sĩ họ không mến con. Không biết con đã làm gì mà họ giận. Con biết con là một kẻ mắc nhiều lỗi lầm, nhưng con bất hạnh lắm!” Đã có tu viện bị khiển trách vì bà rồi đấy. Vị giám mục tổng quản tu viện là một người học vấn uyên thâm, ông ta bận việc suốt ngày, không có phút nào rỗi, thế mà bà còn đòi ông ta đến buồng bà thăm hỏi. Thật là không còn biết kính trọng gì đến tuổi tác, đến chức vị nữa. Nếu bà đã hiến nhiều của thì cũng không phải trách móc bà nhiều, đằng này suốt cả thời gian ấy tu sĩ cũng không nhận được của bà đến trăm rúp!
Khi có người nào không hiểu nữ hầu tước, làm nàng phải lo âu, giận dỗi, khi nàng không biết phải nói gì, hay làm gì thì thường là nàng bắt đầu khóc. Và bây giờ, cuối cùng, nàng cũng đã che mặt òa lên khóc thút thít như đứa trẻ.
Người thầy thuốc bỗng im bặt và nhìn lên nàng. Khuôn mặt ông bỗng tối sầm lại và trở nên cau có.
- Tha lỗi cho tôi, thưa nữ hầu tước, - ông nói với giọng khô khốc. - Tôi không kìm được lòng tức giận và đã nói nhiều lời bất lịch sự với bà. Điều đó là không nên.
Người thầy thuốc ngượng ngùng, húng hắng ho, rồi vội vàng bỏ đi, quên cả đội mũ.
Sao đã lốm đốm hiện ra trên nền trời. Phía bên kia tu viện chắc trăng đã mọc. Phía ấy, bầu trời trong suốt dìu dịu sáng. Dọc bên bờ tường tu viện màu trăng trắng, những con dơi lặng lẽ chao đi chao lại.
Đồng hồ thong thả điểm ba tiếng, có lẽ đã 8 giờ 45 phút rồi. Nữ hầu tước đứng dậy và đi về phía cổng. Nàng cảm thấy bị xúc phạm, nàng khóc và có cảm giác rằng hình như từ cây cối, trăng sao, đến những con dơi cũng đang thương cảm nàng; tiếng đồng hồ thánh thót điểm cũng là để tỏ nỗi xót thương nàng. Nàng khóc và nghĩ rằng có lẽ tốt hơn hết là nàng đến đây ở suốt đời. Vào những buổi chiều hè êm ả, nàng sẽ đi dạo một mình trên con đường vắng vẻ này, mọi người xúc phạm, hắt hủi nàng, không hiểu nàng, chỉ có một mình Chúa và bầu trời cao xa kia nhìn thấy những giọt nước mắt của người con gái bất hạnh. Trong nhà thờ lễ cầu kinh vẫn tiếp tục. Nữ hầu tước dừng lại và lắng nghe tiếng hát trầm trầm vọng lại, tiếng hát ấy nghe thật quyến luyến êm đềm biết bao giữa khoảng không gian sẫm tối, tĩnh mịch này. Và thật là ngọt ngào biết bao, khi được khóc, được đau khổ trong tiếng hát ấy!
Trở về buồng riêng trong tu viện, nàng nhìn lên mặt mình còn đẫm nước mắt trong gương, xoa ít phấn kem, rồi ngồi vào bàn ăn bữa tối. Các tu sĩ đã biết tính nàng thích ăn món cá tầm ngâm giấm, nấm hương, rượu nho và bánh bích quy phết mật ong - ăn thứ bánh này, miệng thơm thơm mùi hương cây trắc bá; lần nào nàng đến đây, họ đều dọn cho nàng ăn các món ấy. Lúc ăn nấm hương nhắm với rượu nho, nàng mơ ước đến ngày nàng sẽ hoàn toàn bị phá sản và bị bỏ rơi, tất cả bọn hầu hạ, quản gia mà nàng đã cho chịu ơn rất nhiều sẽ bội phản nàng, sẽ nói với nàng những điều cục cằn, thô lỗ, tất cả mọi người sống trên trái đất này sẽ công kích, giễu cợt nàng, nói với nàng những lời độc địa; lúc ấy nàng sẽ từ bỏ tước vị hầu tước, từ bỏ cảnh phồn hoa bỏ bạn bè mà đi vào tu viện, không hề trách móc ai một lời nào hết; nàng sẽ cầu nguyện cho chính kẻ thù của mình, và lúc ấy mọi người chợt hiểu tấm lòng thành của nàng, sẽ đến bên nàng xin tha thứ, nhưng đã muộn...
Sau bữa ăn, nàng quỳ xuống bên tấm ảnh Chúa đặt trong góc phòng và đọc hai chương trong Phúc âm. Sau đấy con hầu vào sửa soạn chăn đệm cho nàng và nàng lên giường ngủ. Duỗi thẳng mình dưới tấm chăn màu trắng, nàng thở phào khoan khoái như vẫn thường thấy ở nhiều người khi mới hết khóc, nàng nhắm mắt lại và dần dần thiêm thiếp ngủ...
Sáng hôm sau nàng tỉnh dậy và nhìn lên đồng hồ đeo tay nhỏ của mình: đã chín giờ rưỡi rồi. Qua khe cửa sổ, một vệt sáng nhỏ lọt vào căn buồng tôi tối và in lên tấm thảm trải cạnh giường. Phía bên ngoài rèm cửa sổ màu đen, nghe vo vo tiếng ruồi bay.
“Còn sớm quá!” - nữ hầu tước nghĩ thầm và nhắm mắt lại.
Khoan khoái nằm trong chăn đệm thơm tho, mềm mại, nàng nhớ lại lần gặp gỡ hôm qua với người thầy thuốc, nhớ lại những ý nghĩ đã đến với nàng tối hôm qua, trước khi nàng đi ngủ; nàng nhớ lại rằng mình thật bất hạnh. Tiếp đó nàng nhớ đến người chồng đang sống ở Pêtérburg, những viên quản gia, thầy thuốc, láng giềng, những viên chức quen biết... Cả một dãy dài những khuôn mặt đàn ông quen thuộc hiện ra trong trí tưởng tượng của nàng. Nàng mỉm cười và nghĩ rằng, nếu tất cả những người ấy có thể hiểu thấu lòng nàng thì chắc họ đều sẽ quỳ xuống bên chân nàng...
Vào lúc 11 giờ 15 phút nàng gọi con hầu lên.
- Đasa, sửa soạn áo xống cho ta, - nàng uể oải nói. - Nhưng mà trước tiên hãy đi báo thắng ngựa vào xe. Lát nữa ta phải đến chỗ bà Klápđia Nikôlaiépna.
Từ trong buồng đi ra xe, nàng nheo mắt lại trước ánh nắng chan hòa buổi sáng, nàng khoan khoái mỉm cười, hôm nay thật đẹp trời! Đưa cặp mắt nheo nheo nhìn các tu sĩ tụ tập đứng ngoài hiên để tiễn, nàng niềm nở gật đầu chào và nói:
- Từ biệt nhé, các bạn thân mến của tôi! Hẹn ngày kia gặp lại!
Nàng ngạc nhiên một cách thú vị khi thấy bên cạnh các tu sĩ đứng ngoài hiên có cả người thầy thuốc nữa. Vẻ mặt ông trông nhợt nhạt và khắc khổ.
- Thưa nữ hầu tước, - ông vừa nói vừa bỏ mũ xuống và ngượng ngập mỉm cười như người có lỗi, - tôi chờ bà ở đây đã lâu. Xin bà tha lỗi cho... Tôi đã không kìm được lòng ham muốn trả thù nhỏ nhen, hôm qua tôi đã nói với bà nhiều lời hồ đồ, thô lỗ. Tôi muốn xin bà tha lỗi cho tôi.
Nàng mỉm cười độ lượng và chìa tay ra cho ông. Ông hôn tay nàng, mặt đỏ bừng.
Cố làm ra vẻ giống một con chim, nàng bước nhanh lên xe như nhẹ lướt, và gật đầu chào khắp mọi phía. Nàng cảm thấy tâm hồn mình thật tươi vui, thanh thoát, ấm áp và nụ cười của mình thật êm dịu, ngọt ngào. Khi cỗ xe ra khỏi cổng, chạy trên con đường đất bụi bên những ngôi nhà gỗ và vườn cây, bên đám dân buôn và dòng người vào tu viện đi lễ, nàng vẫn nheo nheo đôi mắt và mỉm cười hiền dịu. Nàng nghĩ rằng không có gì hạnh phúc hơn là đem đến khắp nơi nơi niềm vui ấm áp, trong sáng, bỏ qua những điều giận dữ, và niềm nở, độ lượng mỉm cười với kẻ thù của mình. Những người nông dân đi ngược chiều cúi xuống chào nàng, bánh xe nhè nhẹ lăn, cuộn lên đám bụi nhỏ theo gió đưa về phía ruộng lúa mạch màu vàng óng, và nữ hầu tước có cảm giác rằng tấm thân nàng không phải đang đung đưa trên ghế đệm dày êm của cỗ xe mà đang dập dìu trên mây cao và chính nàng cũng giống như một đám mây bồng bềnh trong suốt...
- Ôi, ta thật hạnh phúc biết bao! - nàng nhắm mắt lại, thì thầm thốt lên. - Thật hạnh phúc biết bao!
___________
1. Trích trong một bài ca tôn giáo. Nhạc của Ð.X. Boóctơnhianxki (1751-1825), lời của M.M. Khêraxkốp (1733-1807).
2. Nói phỏng theo một câu trong vở bi kịch “Hămlét” của Sếchxpia.