“Turgut Bora và Selim Aksoy đang chờ chúng ta ở phi trườngIstanbul. ‘Paul!’ Turgut ôm hôn và vỗ vỗ lên vai cha. ‘Chào bà giáo sư!’ Ông bắt tay Helen bằng cả hai tay. ‘Ơn trời các bạn vẫn bình yên và mạnh khỏe. Chào mừng chiến thắng trở về!’
“ ‘Chà, tôi không gọi chuyến đi này là chiến thắng đâu,’ cha trả lời, bật cười dù không định thế.
“ ‘Chúng ta sẽ nói chuyện sau, chúng ta sẽ nói chuyện sau!’ Turgut vừa hét lên vừa vỗ mạnh lên lưng cha. Selim Aksoy nối tiếp tất cả những ồn ào đó bằng một câu chào trầm lặng hơn. Một giờ đồng hồ sau, chúng ta đã đứng trước cửa căn hộ của Turgut, nơi bà Bora rõ ràng là tươi hẳn nét mặt trước sự xuất hiện trở lại của chúng ta. Cả Helen và cha đều trầm trồ khi thấy bà: hôm nay bà diện bộ cánh màu xanh rất nhạt, trông như một đóa hoa xuân nhỏ bé. Bà nhìn chúng ta, vẻ bối rối. ‘Chúng tôi thích bộ đồ của bà quá!’ Helen reo lên và nắm bàn tay nhỏ nhắn của bà Bora trong bàn tay thanh mảnh của mình.
“Bà Bora cười lớn. ‘Cám ơn các bạn,’ bà đáp. ‘Còn tôi muốn lôi tất cả đám quần áo của mình ra tòa mà thôi.’ Sau đó, bà và Selim Aksoy mời chúng ta uống cà phê và ăn một món mà bà gọi là bưrek, bánh nướng nhân pho mát mặn, cùng một bữa tối năm sáu món.
“ ‘Nào, các bạn, kể cho tôi xem mình biết được những gì đi chứ.’
“Đó là một nhiệm vụ nặng nề, nhưng rồi cha và Helen vẫn cùng nhau kể cho ông những việc đã xảy ra tại hội nghị ở Budapest, cuộc gặp gỡ với Hugh James, câu chuyện của mẹ Helen, những lá thư của thầy Rossi; Turgut trố mắt lắng nghe khi cha mô tả việc Hugh James tìm thấy cuốn sách có hình con rồng. Khi kể lại chi tiết tất cả những chuyện đó, cha cảm thấy quả thực mình đã biết thêm được nhiều điều. Nhưng đáng buồn thay, chẳng điều nào cho biết thầy Rossi đang ở đâu.
“Đến lượt Turgut kể với chúng ta là họ đã gặp những rắc rối nghiêm trọng trong thời gian chúng ta vắng mặt ở Istanbul; hai đêm trước, người bạn tử tế của ông, ông bạn chuyên viên lưu trữ, đã bị tấn công lần thứ hai trong căn hộ mà lúc này ông ta đang tĩnh dưỡng. Người đầu tiên mà họ thuê trông nom ông ta đã ngủ khi đang làm nhiệm vụ và không trông thấy gì cả. Bây giờ họ đã có một người bảo vệ mới, người mà họ hy vọng sẽ cẩn thận hơn. Họ đang phòng ngừa mọi bất trắc, nhưng ông Erozan khốn khổ lại không được khỏe lắm.
“Họ cũng còn một tin tức khác. Turgut nốc tách cà phê thứ hai và bước vội về căn phòng làm việc ghê rợn của mình để lấy một thứ gì đó. (Cha thấy nhẹ cả người khi không bị mời vào căn phòng đó hôm nay). Turgut xuất hiện trở lại, mang theo một cuốn sổ và ngồi xuống bên cạnh Selim Aksoy. Cả hai nhìn chúng ta, vẻ trầm trọng. ‘Như đã nói với anh qua điện thoại, trong thời gian các bạn vắng mặt chúng tôi đã tìm thấy một lá thư,’ Turgut nói. ‘Nguyên bản lá thư được viết bằng tiếng Xlavơ, một ngôn ngữ cổ của các nhà thờ Thiên Chúa giáo. Như tôi đã nói với anh, lá thư do một tu sĩ đến từ vùng núi Carpates viết về những chuyến đi của ông ta đến Istanbul. Anh bạn Selim đã ngạc nhiên khi thấy lá thư không viết bằng tiếng Latin, nhưng có lẽ vị tu sĩ này là người Xlavơ. Tôi đọc lướt qua nhé?’
“ ‘Tất nhiên,’ cha trả lời, nhưng Helen đưa tay lên ngăn lại.
“ ‘Gượm đã nào, thưa giáo sư. Hai người đã tìm thấy lá thư ở đâu và như thế nào?’
“Turgut gật đầu vẻ đồng tình. ‘Thực ra, anh Aksoy đã tìm thấy nó trong trung tâm lưu trữ - nơi các bạn cùng viếng thăm với chúng tôi. Anh ấy mất ba ngày để xem xét tất cả bản thảo viết tay của thế kỷ mười lăm trong trung tâm lưu trữ đó và đã tìm thấy lá thư này trong một bộ tài liệu của các nhà thờ ngoại đạo - tức nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo được phép duy trì hoạt động trong thời trị vì của Người Chinh phục và những Quốc vương kế vị ông ta. Không có nhiều bộ tài liệu như vậy trong trung tâm lưu trữ vì chúng thường được các tu viện, và nhất là giáo trưởng thành Constantinople lưu giữ lại. Nhưng một số tài liệu của nhà thờ đã lọt vào tay Quốc vương Mehmed, đặc biệt là các tài liệu liên quan đến những thỏa thuận mới đối với các nhà thờ dưới thời đế quốc - một thỏa thuận như vậy được gọi là một sắc chỉ. Thỉnh thoảng, vị Quốc vương này nhận những lá thư - người ta gọi là gì nhỉ? - thư thỉnh cầu về một vấn đề nào đó của nhà thờ, trong trung tâm lưu trữ cũng có những lá thư như vậy.’
“Turgut dịch nhanh lời Aksoy, anh muốn ông giải thích thêm một điều gì khác. ‘Vâng, anh bạn tôi muốn nói rõ về chuyện đó. Anh ta nhắc tôi là chẳng bao lâu sau khi chiếm được thành phố, Người Chinh phục đã bổ nhiệm một giáo trưởng mới cho người Thiên Chúa giáo, giáo trưởng Gennadius.’ Aksoy vừa lắng nghe vừa gật đầu lia lịa. ‘Và vị Quốc vương cùng Gennadius đã có mối giao tình rất thân mật - tôi đã nói với các bạn là Người Chinh phục rất khoan dung với tín đồ Thiên Chúa giáo trong đế quốc của mình một khi đã chinh phục được họ. Quốc vương Mehmed đã yêu cầu Gennadius viết một bản giải trình về đức tin Chính Thống giáo rồi cho dịch một bản dành cho thư viện riêng của mình. Trung tâm lưu trữ có một bản sao bản dịch này. Ngoài ra ở đó còn có bản sao các hiến chương của một vài nhà thờ được đệ trình lên Người Chinh phục. Trong khi lướt qua một trong các bản hiến chương của một nhà thờ ở Tiểu Á, anh Aksoy đã phát hiện ra lá thư này kẹp giữa hai trang bản hiến chương đó.’
“ ‘Cám ơn ông.’ Helen ngồi lại xuống ghế nệm.
“ ‘Than ôi, chúng tôi không thể đưa cho các bạn xem bản gốc, vì tất nhiên là chúng tôi không được phép mang lá thư đó ra khỏi trung tâm lưu trữ rồi. Nếu muốn, các bạn có thể đến xem tận mắt trong thời gian còn ở lại đây. Lá thư đó là một tờ giấy da nhỏ, một rìa bị xé rách và chữ viết tay rất đẹp. Bây giờ, tôi sẽ đọc bản dịch tiếng Anh. Xin nhớ đây là bản dịch của một bản dịch, và qua quá trình đó một vài điểm có thể không còn ý nghĩa nguyên thủy của nó.’
“Và ông đã đọc cho chúng ta bản dịch sau:
Thưa Đức cha tu viện trưởng Maxim Eupraxius:
Cầu xin ngài hãy lắng nghe kẻ hèn mọn tội lỗi này. Như tôi đã mô tả, đã có sự tranh luận gay gắt trong đội này kể từ hôm qua khi sứ mệnh của chúng tôi thất bại. Thành phố đó không phải là một nơi an toàn đối với chúng tôi, tuy vậy chúng tôi vẫn tin là mình không thể rời nơi đó mà chưa biết vật báu chúng ta tìm kiếm đã trở thành cái gì. Sáng hôm nay, nhờ ơn Đấng Toàn năng, một con đường mới đã mở ra, mà tôi phải ghi lại ở đây trình ngài. Sau khi nghe cha tu viện trưởng nơi chúng tôi trú ngụ nói về hoàn cảnh khốn cùng của chúng tôi, với tư cách là bạn thân của ngài, cha tu viện trưởng Panachrantos đã đích thân đến gặp chúng tôi ở Saint Irine. Ông ấy khoảng năm mươi tuổi và là một người nhân từ thánh thiện, trước đây ông đã sống một thời gian ở Great Lavra, Athos và từ nhiều năm nay là cha tu viện trưởng ở Panachrantos. Khi đến chỗ chúng tôi, ông bàn bạc riêng với cha tu viện trưởng chủ nhà và sau đó nói chuyện với chúng tôi ngay trong phòng cha tu viện trưởng chủ nhà, hoàn toàn bí mật, sau khi đã đuổi các giáo sinh và người hầu ra khỏi phòng. Ông bảo cho đến sáng nay ông vẫn chưa nghe nói đến sự hiện diện của chúng tôi ở nơi này, và chỉ biết được tin tức qua người bạn, người này không báo cho ông sớm hơn vì không muốn đưa ông và các tu sĩ vào vòng nguy hiểm. Tóm lại, ông tiết lộ với chúng tôi rằng cái mà chúng ta tìm kiếm đã được chuyển ra khỏi thành phố, đến một nơi an toàn trong vùng đất bị chiếm đóng của Bungari. Ông đã cho chúng tôi những chỉ dẫn tối mật để đi đến nơi đó an toàn, cũng như nói tên của thánh đường mà chúng tôi phải tìm. Chúng tôi định chờ ở đây một thời gian ngắn để báo cho ngài biết và nhận lệnh của ngài về chuyện này, nhưng hai cha tu viện trưởng cũng cho biết một vài tên vệ binh hoàng gia đã đến tra vấn cha giáo trưởng về sự biến mất của vật mà chúng ta đang tìm kiếm. Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo. Thưa Đức cha, xin ngài tha thứ cho việc chúng tôi ra đi khi chưa nhận được chỉ dạy của ngài, cầu Chúa và ngài ban phước lành cho quyết định của chúng tôi. Nếu cần thiết, tôi sẵn sàng hủy báo cáo này trước khi nó đến được tay ngài, và sẽ đích thân đến báo lại với ngài về việc tìm kiếm của chúng tôi, nếu lưỡi tôi chưa bị cắt mất.
Kẻ tôi tớ hèn mọn tội lỗi, Sư huynh Kiril
Tháng Tư, năm của Chúa 6985
“Khi Turgut dứt lời, tất cả lặng ngắt như tờ. Selim và bà Bora ngồi im lặng, Turgut bồn chồn đưa tay cào cào lên mái tóc bạc trắng bờm xờm. Helen và cha đưa mắt nhìn nhau.
“ ‘Năm của Chúa 6985 ư?’ cuối cùng cha thốt lên. “Con số đó có nghĩa gì?’
“ ‘Tài liệu thời Trung cổ được ghi ngày tháng theo lịch Cựu ước,’ Helen giải thích.
“ ‘Đúng vậy,’ Turgut gật đầu, ‘Năm 6985, theo lịch hiện đại, là năm 1477.’
“Cha không thể ngăn tiếng thở dài. ‘Đúng là một lá thư rất sinh động và rõ ràng là đầy quan ngại về một điều gì đó. Nhưng đến đây thì quá tầm hiểu biết của tôi rồi,’ cha nói, giọng chán nản. ‘Ngày tháng đề trên lá thư chắc chắn làm tôi nghĩ đến mối liên hệ nào đó với đoạn trích dẫn mà anh Aksoy đã phát hiện trước đây. Nhưng đâu có gì chứng tỏ vị tu sĩ viết lá thư này đến từ vùng Carpates? Và lý do nào khiến hai người nghĩ lá thư này có liên quan đến Vlad Dracula?’
“Turgut mỉm cười. ‘Vẫn những câu hỏi tuyệt vời như thường lệ, nhà điều tra trẻ tuổi ạ. Tôi sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi đó. Như tôi đã kể với anh, anh Selim rất rành thành phố này, và khi phát hiện ra lá thư rồi hiểu rằng nó có thể hữu ích, anh ấy đã mang nó đến người trông coi thư viện của cái tu viện cổ vẫn còn tồn tại ở Saint Irine. Ông bạn này đã dịch lá thư sang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tỏ ra rất quan tâm vì nó đề cập đến tu viện của ông ta. Tuy nhiên, ông ta không tìm thấy trong thư viện của mình tư liệu nào về một cuộc thăm viếng như vậy vào năm 1477 - hoặc chuyện đó không được ghi chép lại hoặc có thể bất kỳ tài liệu nào liên quan đã biến mất từ lâu.’
“ ‘Nếu sứ mệnh họ mô tả là một sứ mệnh bí mật và nguy hiểm,’ Helen phân tích, ‘họ sẽ không đời nào ghi lại.’
“ ‘Đúng vậy,’ Turgut gật đầu với Helen. ‘Dù sao chăng nữa, anh bạn ở tu viện của Selim đã giúp chúng tôi một việc quan trọng - anh ta tìm trong các câu chuyện nhà thờ cổ xưa nhất có ở đó và phát hiện ra Cha tu viện trưởng mà lá thư này gửi đến, ông Maxim Eupraxius, những năm cuối đời là một tu viện trưởng cao quý ở núi Athos. Nhưng năm 1477, khi lá thư này được viết ra, ông ấy là trưởng tu viện ở hồ Snagov.’ Turgut thốt ra những từ sau cùng kia với giọng gằn mạnh ra vẻ đắc thắng.
“Mọi người ngồi lặng im một lúc, dù trong lòng vô cùng khích động. Cuối cùng Helen phá vỡ sự yên lặng. ‘ “Chúng ta là người của Thượng đế, người đến từ vùng Carpates,” ’ cô thì thầm.
“ ‘Xin lỗi, cô vừa nói gì vậy?’ Turgut nhìn cô chằm chằm đầy vẻ quan tâm.
“ ‘Đúng rồi!’ cha tiếp lời Helen. ‘ “Người đến từ vùng Carpates.” Đó là lời một bài hát, một bài dân ca Rumani mà Helen phát hiện ra ở Budapest.’ Cha kể lại khoảng thời gian chúng ta lần giở lại cuốn sách dân ca cổ ở thư viện Đại học Budapest, bức tranh khắc gỗ ở đầu trang hình một con rồng và một nhà thờ nằm khuất giữa đám cây cối. Khi cha đề cập đến chi tiết đó, Turgut nhướn mày lên cao đến nỗi gần như chạm vào mái tóc bờm xờm, rồi cha lục lọi trong mớ giấy tờ của mình. ‘Nó ở đâu nhỉ?’ Một lát sau, cha tìm thấy bản dịch do chính tay mình viết giữa các tập hồ sơ trong cặp - Lạy Chúa, cha thầm nghĩ, nếu mình mất cái cặp này thì sao nhỉ! - rồi cha đọc to bản dịch đó cho tất cả bọn họ nghe, thỉnh thoảng dừng lại để chờ Turgut dịch cho Selim và bà Bora:
Họ đánh xe đến cổng, đến tận thành phố vĩ đại.
Họ đánh xe đến thành phố vĩ đại từ vùng đất chết.
“Chúng ta là người của Chúa, người đến từ vùng Carpates.
Chúng ta là những tu sĩ thánh thiện, nhưng chỉ mang theo những tin tức xấu xa.
Chúng ta mang đến thành phố vĩ đại này tin tức về một bệnh dịch.
Phụng sự chủ nhân, chúng ta than khóc cho cái chết của Người.”
Họ đánh xe đến tận cổng thành và thành phố khóc than cùng họ
Khi họ đi vào.
“ ‘Trời ơi, quả thực kỳ lạ và đáng sợ,’ Turgut thốt lên. ‘Chẳng lẽ tất cả những bài dân ca của dân tộc cô đều như vậy sao?’
“ ‘Vâng, phần lớn đều như vậy,’ Helen vừa trả lời vừa cười lớn. Cha nhận ra vì quá phấn khích mà trong hai phút vừa rồR cha đã quên bẵng rằng Helen vẫn đang ngồi sát bên cạnh. Khó khăn lắm cha mới ngăn mình không đưa tay ra nắm lấy tay cô, không nhìn chằm chằm vào nụ cười hay mớ tóc đen lòa xòa trên má cô.
“ ‘Và con rồng ở đầu trang, giữa đám cây cối - hẳn phải có một sự liên quan.’
“ ‘Ước gì tôi được thấy bức tranh đó nhỉ.’ Turgut thở dài. Rồi đột nhiên, ông vỗ mạnh vào gờ chiếc bàn bằng đồng làm cho cốc chén nảy bật cả lên. Bà Bora nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay ông, và Turgut vỗ vỗ lên bàn tay ấy vẻ trấn an. ‘Không - xem này - bệnh dịch!’ Ông quay qua Selim và cả hai trao đổi một tràng tiếng Thổ.
“ ‘Cái gì?’ Mắt Helen nhíu lại, vẻ tập trung cao độ. ‘Bệnh dịch trong bài hát đó ư?’
“ ‘Phải.’ Turgut vuốt ngược tóc ra phía sau. ‘Ngoài lá thư này, chúng tôi còn phát hiện ra một sự kiện khác ở Istanbul vào đúng thời kỳ đó - thực ra, đó là một điều mà anh bạn Aksoy đây đã biết rồi. Cuối mùa hè năm 1477, lúc thời tiết nóng bức nhất, đã xảy ra cái mà sử gia nước tôi gọi là một trận Tiểu Dịch. Nó đã cướp đi mạng sống của nhiều người trong khu Pera thành phố này - giờ chúng tôi gọi đó là khu Galata. Xác người chết bị đóng cọc vào tim trước khi đem đi thiêu. Anh Aksoy nói đây là điều khá bất thường, bởi bình thường thi thể của những người bất hạnh chỉ bị thiêu ngoài cổng thành để ngăn ngừa sự lây nhiễm. Nhưng đó chỉ là bệnh dịch xảy ra trong một thời gian ngắn và không làm chết nhiều người.’
“ ‘Ông có cho rằng các tu sĩ này, nếu họ cũng chính là những người trong bài hát, mang dịch bệnh này đến thành phố?’
“ ‘Lẽ tất nhiên là chúng tôi không biết,’ Turgut thừa nhận. ‘Nhưng nếu bài hát của các bạn đề cập đến cùng một nhóm tu sĩ ở bức thư...’
“ ‘Tôi đang nghĩ đến một điều.’ Helen đặt cốc cà phê xuống. ‘Em không nhớ đã nói với anh điều này chưa Paul ạ, nhưng trong lịch sử Vlad Dracula là một trong các chiến lược gia quân sự đầu tiên sử dụng - ngườR ta gọi là gì nhỉ? - bệnh tật trong chiến tranh.’
“ ‘Chiến tranh vi trùng,’ cha bổ sung. ‘Hugh James đã nói với anh như vậy.’
“ ‘Đúng rồi.’ Cô ngồi gập chân lại. ‘Suốt các cuộc xâm lấn xứ llachia của Quốc vương Mehmed, Dracula thường phái người đã nhiễm bệnh đậu mùa hoặc một bệnh dịch nào đó cải trang thành người Thổ và xâm nhập vào doanh trạR quân Thổ. Trước khi chết ở đó, những người này cố làm lây nhiễm cho càng nhiều người càng tốt.’
“Cha hẳn đã mỉm cười nếu câu chuyện không đáng sợ đến vậy. Ông hoàng xứ llachia quả là vừa vô cùng sáng tạo vừa có khả năng hủy diệt đáng sợ, một kẻ thù cực kỳ thông minh. Một lát sau cha nhận ra mình vừa mới nghĩ về ông ta như là một con người đương thời.
“ ‘Tôi hiểu.’ Turgut gật đầu. ‘Ý cô là, có lẽ nhóm tu sĩ này, nếu họ quả thực là cùng một nhóm với nhóm tu sĩ trong bài hát, là những người mang theo bệnh dịch từ llachia.’
“ ‘Tuy nhRên, vẫn còn một điều không giảR thích được.’ Helen cau mày. ‘Nếu một vài người trong số họ nhiễm bệnh, tại sao Cha tu vRện trưởng ở Sain Irine cho phép họ ở lại đó?’
“ ‘Thực vậy,’ Turgut lại thừa nhận. ‘Dù rằng nếu đó không phải là bệnh dịch mà là một loại lây nhiễm nào đó - nhưng cũng chẳng có cách nào để biết được.’ Chúng ta ngồi nghiền ngẫm trong tâm trạng chán nản.
“ ‘Nhiều tu sĩ Chính Thống giáo vẫn hành hương qua Constantinople ngay cả sau cuộc chinh phục,’ sau cùng Helen cũng lên tiếng trở lại. ‘Có thể đây chỉ là một nhóm những người hành hương.’
“ ‘Nhưng họ đang tìm kiếm một cái gì đó mà có vẻ như họ đã không tìm được trong chuyến hành hương của mình, ít ra là ở Constantinople,’ cha phân tích. ‘Và Sư huynh Kiril nói rằng họ sẽ hóa trang thành người hành hương để đi Bungari, như thể họ không phải là những người hành hương thực sự - ít nhất, đó dường như là điều ông ta muốn nói.’
“Turgut gãi đầu. ‘Aksoy cũng đã suy nghĩ về điều này,’ ông nói. ‘Anh ấy giải thích với tôi là suốt cuộc xâm lăng hầu hết các thánh tích quan trọng của Thiên Chúa giáo trong các nhà thờ tại Constantinople đều bị phá hủy hoặc đánh cắp - ảnh thánh, thánh giá, di hài các vị thánh. Dĩ nhiên là vào năm 1453 ở đây không còn nhiều vàng bạc châu báu như thời cực thịnh của thành phố Byzantium, những món đồ cổ đẹp đẽ nhất đã bị đánh cắp trong cuộc Thập tự chinh của dân Latin vào năm 1204 rồi mang về Rome, Venice và các thành phố phương Tây khác - chắc hẳn các bạn cũng biết chuyện đó.’ Turgut xòe đôi bàn tay ra phía trước, cử chỉ như bày tỏ sự phản đối. ‘Cha tôi đã kể với tôi về những chú ngựa tuyệt vời tại thánh đường San Marco ở Venice đã bị Thập tự quân đánh cắp ở Byzantium. Các bạn thấy đó, những kẻ xâm lăng Thiên Chúa giáo cũng tồi tệ đâu kém quân Thổ Nhĩ Kỳ. Dù sao chăng nữa, các bạn ạ, trong cuộc xâm lăng năm 1453, một vài vật báu của các nhà thờ đã được cất giấu, thậm chí một số còn được mang ra khỏi thành phố trước cuộc bao vây của Quốc vương Mehmed rồi được giấu trong các tu viện ngoại thành hoặc bí mật chuyển đến những xứ khác. Nếu các tu sĩ của chúng ta là người hành hương, có lẽ họ đến thành phố này với hy vọng viếng thăm một thánh vật nào đó nhưng rồi lại phát hiện ra vật này đã biến mất. Có lẽ đRều mà Cha tu viện trưởng của tu viện thứ hai kể với họ là câu chuyện về một ảnh thánh quan trọng nào đó đã được đưa đến Bungari an toàn. Nhưng chúng ta không có cách nào để biết rõ, qua lá thư này.’
“ ‘Giờ thì tôi đã hiểu vì sao ông muốn chúng tôi đi Bungari.’ Cha lại phải kìm nén lại cái thôi thúc muốn cầm tay Helen. ‘Mặc dù tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ làm thế nào để tìm hiểu thêm về câu chuyện này khi đến nơi, chưa nói đến việc làm sao để vào được đất nước đó. Ông chắc chắn chúng ta không còn chỗ nào để tìm kiếm ở Istanbul này chứ?’
“Turgut buồn bã lắc đầu và cầm lấy cốc cà phê ông bỏ quên nãy giờ. ‘Tôi đã sử dụng mọi nguồn thông tin có thể nghĩ đến, kể cả vài nguồn - tôi rất tiếc phải nói rằng - không thể tiết lộ với các bạn. Anh Aksoy đã xem xét khắp nơi, trong các cuốn sách của riêng anh, trong thư viện của bạn bè, trong các kho lưu trữ của trường đại học. Tôi đã nói chuyện với mọi sử gia có thể tìm được, kể cả một vị chuyên nghiên cứu về các nghĩa địa ở Istanbul - các bạn đã thấy các nghĩa địa xinh xắn của chúng tôi rồi đấy. Chúng tôi không tìm thấy bất kỳ sự đề cập nào đến vụ mai táng bất thường một người ngoại quốc ở đây, trong thời kỳ ấy. Có thể chúng tôi đã bỏ sót gì đó, nhưng trong một thời gian ngắn thì tôi không biết phải tìm ở nơi nào khác nữa.’ Ông nhìn chúng ta đăm đăm, vẻ nghiêm trang. ‘Tôi biết với các bạn phải đi Bungari là một việc rất khó khăn. Tôi cũng có thể đi, nhưng đối với tôi đó cũng là một việc thậm chí còn khó khăn hơn. Là người Thổ, thậm chí tôi còn không thể tham dự bất kỳ hội nghị học thuật nào của họ. Không dân tộc nào ghét con cháu của đế quốc Ottoman như người Bungari.’
“ ‘Ồ, còn có người Rumani,’ Helen trấn an ông, nhưng lời của cô đã được làm nhẹ đi bằng một nụ cười khiến Turgut đáp lại bằng một tiếng cười khúc khích.
“ ‘Nhưng - Chúa ơi.’ Cha lại ngồi dựa vào đám đệm trên trường kỷ, cảm giác như mình đang bị cuốn vào một trong những cơn sóng hão huyền càng lúc càng dồn dập dâng trào. ‘Tôi vẫn chưa nghĩ ra mình có thể tiến hành việc này như thế nào.’
“Turgut chồm tới, đặt bản dịch sang tiếng Anh lá thư của vị tu sĩ trước mặt cha. ‘Ông ta cũng không biết.’
“ ‘Ai kia chứ?’ cha rên lên.
“ ‘Sư huynh Kiril. Nghe đây, anh bạn, giáo sư Rossi mất tích từ khi nào?’
“ ‘Hơn hai tuần rồi,’ cha trả lời.
“ ‘Anh đừng để hao phí thời gian thêm nữa. Chúng ta đã biết Dracula không có trong hầm mộ của hắn ở Snagov. Chúng ta cho rằng hắn không được chôn ở Istanbul. Nhưng’ - ông gõ gõ lên tờ giấy - ‘đây là một chứng cứ. Về cái gì, chúng ta chưa biết, nhưng vào năm 1477, một ai đó từ tu viện Snagov đã đi Bungari - hoặc cố gắng tới đó. Đây là một việc đáng để tìm hiểu. Nếu anh không tìm thấy điều gì, anh cũng đã làm hết sức mình. Lúc đó anh có thể trở về nhà mà khóc thương ông thầy của mình với một tấm lòng thanh thản, còn chúng tôi, bạn anh, sẽ ghi nhớ mãi lòng dũng cảm của anh. Nhưng nếu anh không cố gắng, anh sẽ luôn băn khoăn và không bao giờ nguôi ngoai được nỗi buồn đau của mình.’
“Ông lại cầm bản dịch lên, rà ngón tay trên tờ giấy rồi đọc to, ‘ “Đối với chúng tôi, hiện tại phải lưu lại nơi này dù chỉ một ngày cũng là vô cùng nguy hiểm, chúng tôi sẽ an toàn hơn dù đang trên đường đi giữa những vùng đất ngoại đạo.” Đây, anh bạn. Hãy cất bản dịch này vào túi xách. Đây là bản của anh, bản tiếng Anh. Kèm theo đây là một bản tiếng Xlavơ mà ông bạn ở tu viện của anh Aksoy đã chép ra.’
“Turgut ngả người về phía trước. ‘Ngoài ra, tôi biết có một học giả ở Bungari mà các bạn có thể nhờ giúp đỡ. Tên ông ta là Anton Stoichev. Anh bạn Aksoy của tôi rất ngưỡng mộ các tác phẩm của ông ấy, vốn đã được xuất bản dưới nhiều thứ tiếng.’ Selim Aksoy gật đầu khi nghe cái tên đó. ‘Stoichev hiểu biết về vùng Balkan thời Trung cổ hơn bất kỳ người nào, đặc biệt là về Bungari. Ông ta ở gần Sofia - các bạn phảR hỏi thăm để tìm ra ông ấy.’
“Helen bất chợt nắm lấy tay cha, một cách công khai, khiến cha vô cùng ngạc nhiên; cha nghĩ chúng ta chưa nên công khai mối quan hệ ngay cả ở đây, trước những người bạn này. Cha thấy ánh mắt Turgut dừng lại nơi cử động nhỏ ấy. Những nếp nhăn nồng hậu chung quanh mắt và miệng ông như hằn sâu hơn, còn bà Bora nhìn chúng ta và nở nụ cười hiền hậu, đan đôi bàn tay nhỏ nhắn như tay con gái quanh đầu gối. Rõ ràng bà tán thành sự kết hợp của chúng ta, và cha như cảm nhận được những lời chúc phúc bất chợt từ những con người nhân hậu này.
“ ‘Được rồi, để em gọi cho bác em,’ Helen siết chặt tay cha và nói giọng dứt khoát.
“ ‘Bác Éva ư? Bác ấy có thể làm được gì?’
“ ‘Anh bRết đấy, bác Éva có thể làm bất kỳ điều gì.’ Helen mỉm cười với cha. ‘Không, em không biết chính xác bác ấy có thể hoặc sẽ làm gì. Nhưng bác ấy có bạn bè cũng như kẻ thù trong lực lượng cảnh sát mật của đất nước chúng ta’ - cô hạ giọng, có vẻ như một phản xạ vô điều kiện - ‘mà bọn họ thì lại có bạn bè khắp vùng Đông Âu này. Và lẽ dĩ nhiên, cả kẻ thù nữa - tất thảy bọn họ đều canh chừng lẫn nhau. Việc này có thể khiến bác ấy gặp chút nguy hiểm - đó là đRều duy nhất làm em cảm thấy hốR tiếc. Và chúng ta cũng sẽ cần một khoản đút lót rất, rất lớn đấy.’
“ ‘Tiền trà nước ấy mà.’ Turgut gật đầu. ‘Dĩ nhiên là vậy. Anh Selim và tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Các bạn có thể sử dụng hai mươi ngàn lia mà chúng tôi có. Và mặc dù không thể cùng đi với các bạn nhưng tôi sẽ hỗ trợ bất cứ việc gì có thể, anh Aksoy cũng vậy.’
“Lúc đó, cha nhìn sững ông, và cả Aksoy nữa - họ ngồi ngay trước mặt chúng ta, không đụng đến cốc cà phê, người thẳng đơ và nghiêm túc. Một nét gì đó trên mặt họ - khuôn mặt to hồng hào của Turgut, khuôn mặt thanh tú của Aksoy, sự tinh tường, điềm tĩnh nhưng cũng vô cùng cảnh giác trên gương mặt cả hai - bỗng trở nên quen thuộc với cha. Một cảm giác cha không thể gọi tên chợt trào dâng trong cha; trong khoảnh khắc, cảm xúc đó như níu lại câu hỏi trên miệng cha. Rồi cha siết tay Helen chặt hơn trong tay mình - bàn tay mạnh mẽ, rắn chắc mà thành thân thương ấy - và nhìn vào đôi mắt đăm đăm tối đen của Turgut.
“ ‘Ông là ai?’ cha gằn giọng.
“Turgut và Selim liếc nhìn nhau, và có vẻ như đang ngầm trao đổi một điều gì đó. Rồi Turgut lên tiếng, giọng trầm nhưng rõ ràng. ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương.’ ”