Trở Lại Địa Đàng

Chương 45

Bon Dieu. Trông chú không khỏe, chú em nhỏ ạ.”

Jack không thể cãi lại nhận xét của Randy. Anh cảm thấy như ai đó đã đổ chì lỏng vào trong các khớp xương của anh trong khi làn da liên tục bị nóng ran hay ẩm ướt vì mồ hôi lạnh. Anh đã uống vài liều TheraFlu chống buồn ngủ và hi vọng nó đủ để giữ cho anh chống chọi thêm hai mươi bốn giờ nữa.

“Em sẽ ổn thôi,” anh nói với Randy, cũng để nhắc nhở mình.

Anh trai anh đứng cách đó khoảng vài mét trên chiếc trực thăng A-Star loại nhỏ khi động cơ đang khởi động, cánh quạt quay hết tốc lực. Tiếng gầm rú của cánh quạt như chiếc cưa gỉ sét cứa vào đầu anh. Chiếc trực thăng sẽ đưa Randy và Kyle đi đến tàu của anh em Thibodeaux, chiếc tàu đang tiến về Đảo Địa Đàng.

Ở bên cạnh, Kyle đứng khoanh tay lại, lo lắng khi phải di chuyển, một móng tay của cậu bấm sâu vào bó bột như chú chó lo lắng cho khúc xương. Cậu đã muốn gia nhập đội phục kích của Jack để trực tiếp đến chỗ chị, nhưng cánh tay gãy đã ngăn cậu đồng hành với họ. Không phải vì Jack sẽ để cậu tham gia. Anh ấy cần những người có thể tin tưởng được, những người trải qua huấn luyện quân đội để hoạt động bí mật.

Dù vậy, Kyle trông như đã sẵn sàng để tháo bột ra và gia nhập đội của Jack. Mack Higgins và Bruce Kim đợi ở hai tầng bên dưới, cạnh đầu máy khoan cùng với đội khoan dầu. Thậm chí xa hơn bên dưới, một chiếc thủy phi cơ nổi cạnh chân giàn khoan ngoài khơi, sẵn sàng để đưa đội tấn công lên hòn đảo và thả họ cùng các dụng cụ cách bờ biển một dặm.

“Anh có bảng thời gian kế hoạch không?” Jack hỏi Randy.

Anh trai cậu chỉ một ngón tay vào đầu. “Mais oui. Mọi thứ nằm trong đây.”

Jack không thích nghe câu nói đó. Anh vừa dành nửa giờ trước để thông qua kế hoạch tấn công ở văn phòng của nhà địa chất ở giàn khoan. Để kế hoạch thành công, mỗi nhóm phải ăn khớp hoàn hảo với nhau.

Kyle bước tới và làm chuyển ánh nhìn cau có của Randy. “Đừng lo. Tôi đã viết lại hết rồi. Bọn tôi sẽ đợi ám hiệu của anh trước khi tiếp cận hòn đảo.”

Jack gật đầu, anh vui vì ít nhất có ai đó giỏi tính toán ở trên tàu của anh em Thibodeaux. Anh hoàn toàn tự tin về Randy và các bạn của anh ấy khi họ ẩu đả lung tung tại quán bar, nhưng đối với một kế hoạch đòi hỏi làm đúng thời gian, những người Cajun hiếm khi thực hiện được.

Randy chỉ nhún vai. “Sao cũng được. Bọn anh sẽ ở đúng nơi cần đến.”

“Và tôi sẽ chắc chắn mọi người đúng tiến độ,” Kyle nói thêm.

Giờ đến lượt Randy nhìn trừng trừng. “Je vais passer une calotte,” anh ta đe dọa lại.

Hoàn toàn giữa hai người đó không có thiện cảm. Jack chỉ hi vọng rằng nỗi hận từ lâu – đã hằn sâu giữa hai gia đình – không sục sôi lên làm hỏng nhiệm vụ này.

“Xuống trực thăng nào,” Jack nói. “Tôi sẽ mở bộ đàm liền khi chúng ta tiếp sóng.”

Hai người quay về phía chiếc trực thăng. Họ giữ khoảng cách thận trọng lẫn nhau khi bước đi khỏi.

Jack không nghĩ đến họ nữa và hướng đến các bậc thang dẫn xuống đường bay trực thăng. Anh muốn thoát khỏi những âm thanh trực tiếp lọt qua tai khi trực thăng bay lên. Đầu anh đập thình thình theo từng nhịp quay của cánh quạt khi anh đang bước xuống bậc thang dốc. Hết được gió từ cánh quạt che chở, giờ anh lại bị tấn công bởi mùi dầu và mỡ bôi trơn từ giàn khoan. Anh càng xuống sâu, thứ mùi càng đậm hơn, cho đến khi anh chửi thề rằng mình có thể nếm thấy vị mỡ bôi trơn ở đầu dưới lưỡi.

Đấu tranh để khỏi bị nghẹn, anh dừng lại trên một bục nằm phía trước nhìn ra Vịnh. Một làn gió trong lành thổi qua mặt ạnh. Anh uống vài ngụm nước để đầu óc tỉnh táo lại. Khi anh làm vậy thì chiếc trực thăng A-Star bay lên phía trên đầu và qua khỏi mặt nước.

Anh quan sát chiếc trực thăng bay về phía nam – rồi điện thoại di động rung lên trong túi anh. Gì nữa đây? Anh lấy điện thoại ra và đọc số gọi đến. Anh không nhận ra số đó, ngoại trừ việc nó mang mã vùng New Orleans. Không chắc là ai gọi, anh trả lời sống sượng.

Một giọng nói quen thuộc đáp lại, bình tĩnh và từ tốn như thể đó là lời mời uống bữa trà mặn. “Đặc vụ Menard... Tôi vui vì còn gọi được cho anh.”

“Gì vậy Tiến sĩ Metoyer?” Jack để lộ cả sự ngạc nhiên lẫn sự mất kiên nhẫn trong câu hỏi.

“Tôi biết cậu đang rất vội,” Carlton Metoyer nói, “nhưng tôi tin mình có thông tin đáng giá cho nhiệm vụ của cậu.”

Jack bước lùi lại hòa mình vào làn gió trong lành từ Vịnh để nghe. “Là gì vậy?”

“Liên quan đến những việc đã làm trên các con thú. Với tất cả những gì xảy ra ở phòng thí nghiệm, chúng tôi chưa có thời gian xem lại bản phân tích ADN về cặp nhiễm sắc thể thêm vào ở các con thú.”

Jack nhớ lại Lorna đã đề cập gì đó về cặp nhiễm sắc thể dư. Cô ấy tin rằng đó là nguyên nhân tạo nên các đột biến kì lạ ở các con thú.

“Khi chúng tôi đến được Vườn Thú Audubon này, Zoë và tôi có cơ hội xem qua các kết quả đó. Cặp nhiễm sắc thể cho thấy vài đặc điểm đáng kinh ngạc. Một thứ mà anh nên biết đến.”

“Nói đi. Nhưng tôi đang rất gấp.”

“Dĩ nhiên, đặc vụ Menard. Để tôi vào vấn đề. Tôi không biết rằng anh có biết về mã di truyền không, đặc biệt là các ADN thừa?”

Jack thở dài, cảm thấy đau nhói ở trong đầu. “Sinh học không phải là thế mạnh của tôi, tiến sĩ.”

“Đừng lo. Chỉ là căn bản về sinh học thôi. Tôi chắc là cậu biết rồi, ADN là một kho lưu trữ thông tin di truyền khổng lồ. Bộ mã gen người dài đến ba tỉ kí tự. Nhưng điều cậu phải hiểu được là chỉ một phần trăm rất nhỏ của ADN – ba phần trăm – thực sự hoạt động. Còn chín mươi bảy phần trăm khác là gen rác, đơn giản đó là thứ hành lý ta đã tích góp và mang theo trong hàng thiên niên kỷ.”

“Vậy tại sao chúng ta mang chúng theo?”

“Câu hỏi hay đấy. Các nghiên cứu mới đây cho thấy không phải toàn bộ ADN rác đều thuần túy là thừa thãi. Các nhà nghiên cứu nhận thấy một phần đặc biệt của ADN rác khớp với nguyên tắc bổ sung bazơ trong mã gen của các vi rút cổ xưa.”

Jack xem đồng hồ, không chắc rằng cuộc đối thoại dẫn đến đâu.

Carlton nói tiếp, “Có hai giả thuyết tại sao chúng ta mang theo mã gen vi rút cổ xưa. Một nhóm nhà khoa học cho rằng nó tồn tại để bảo vệ con người khỏi bị tấn công bởi vi rút mới, kí ức di truyền cơ bản nằm đó đợi đến khi nó lại được cần đến. Nhóm khác cho rằng đơn thuần mã gen vi rút cổ được hấp thụ vào ADN của chúng ta sau hàng thiên niên kỷ. Nói đơn giản là hành trang của sự tiến hóa. Tôi tin rằng có thể cả hai đều đúng. Đặc biệt khi những đoạn mã gen vi rút được tìm thấy trong ADN của các loài vật, từ những con chuột chũi đến chúng ta, loài người. Như thể chúng ta mang theo những đoạn gen giống nhau từ nguồn gốc cổ xưa và giữ lại vì lý do nào đó cho tương lai.”

Jack nghe thấy sự hứng thú lan vào giọng nói vị tiến sĩ. “Vậy điểm chính ở đây là gì, tiến sĩ?”

“À, dĩ nhiên. Tôi đang huyên thuyên. Chúng tôi đang nghiên cứu mã gen trong cặp nhiễm sắc thể lạ, và Zoë đã nảy ra ý tưởng hay khi so sánh chuỗi gen ở các ngân hàng dữ liệu khác nhau, bao gồm cả Dự Án Bộ Gen Di Truyền Người. Trong vòng một giờ, chúng tôi đã thành công.”

“Ý ông là sao?”

“Mã di truyền của cặp nhiễm sắc thể dư. Chúng tôi phát hiện đúng mã gen đó nằm sẵn trong ADN rác của chúng ta – và không chỉ của chúng ta mà còn của hầu hết động vật.”

“Sao?”

“Cặp nhiễm sắc thể thêm vào các mẫu vật khớp với đoạn gen vi rút cổ bị khóa bên trong ADN của tất cả động vật, bao gồm cả chúng ta.”

“Ok, nhưng tất cả điều đó có nghĩa gì?”

“Nghĩa là loài động vật – ít ra đối với động vật có xương sống – có thể từng biểu hiện đoạn mã di truyền thêm vào trước đây. Ở thời điểm nào đó trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Chúng ta đã tương thích, và nó đã trở thành một phần trơ trong bộ di truyền của chúng ta. Chỉ đến bây giờ chúng ta mới gặp lại nó. Ở dạng hoạt động.”

“Hoạt động?”

“Tôi sẽ để Zoë giải thích. Cô ấy hiểu rõ thứ này hơn.”

Trước khi Jack kịp phản đối, có tiếng sột soạt chuyển máy và một giọng nói khác cất lên. “Chào Jack, xin lỗi vì làm phiền anh.”

“Cô vẫn khỏe chứ, Zoë?”

“Ổn. Tôi chỉ cần giữ mình bận rộn, để thấy hữu ích.”

Tai anh nghe thấy sự căng thẳng, nước mắt ẩn đằng sau những lời của cô. Nỗi lo cho Lorna vang vọng lại, nó khiến tim anh nhói đau. “Nói tôi nghe cô tìm hiểu được gì đi Zoë.”

Giọng cô mạnh mẽ hơn, trở về từ trạng thái đau buồn ấy. “Trước khi chúng ta rời ACRES, chồng tôi, Paul, đã nghiên cứu mẫu ADN, tô màu lại những đoạn mã chính, chúng tôi gọi thứ đó là dấu gen. Các dấu gen thì không nhầm lẫn được.”

“Không nhầm lẫn với cái gì?” Jack hỏi.

“Các dấu gen chỉ rõ rằng cặp nhiễm sắc thể lạ có nguồn gốc vi rút.”

“Vi rút? Đợi đã. Cô đang nói cặp nhiễm sắc thể là một con vi rút?”

“Chúng tôi bắt đầu tin điều đó. Hầu hết vi rút xâm nhập vào nhân tế bào, rồi tấn công ADN của vật chủ bằng cách nối vào đoạn gen mới bằng cách nào đó. Điều đó giải thích tại sao có nhiều đoạn mã gen vi rút trong đoạn ADN thừa của chúng ta. Chỉ có vi rút này là không chỉ tấn công ADN của vật chủ. Nó tự biến mình thành cặp nhiễm sắc thể riêng.”

Lần nữa Jack cảm thấy cơn lạnh luồn qua. Anh bắt đầu mơ hồ hiểu tại sao Carlton gọi cho anh.

“Chúng tôi cho rằng ai đó đã dùng kĩ thuật cấy gn trên các con vật này,” Zoë tiếp tục, “họ đang dùng các vật liệu gen lạ và cấy nhân tạo vào các con thú. Đó là cách chúng tôi cấy gen phát sáng của loài sứa vào trứng của chuột để chúng sinh ra chuột con phát sáng. Nhưng đó là một giả thuyết mà chúng tôi vội vã đưa ra. Sau các kết quả này, có khả năng các con thú chỉ đơn thuần biểu hiện đặc tính vi rút này, bị nó lây nhiễm. Rồi chúng di truyền mã gen lại cho thế hệ sau, các con vật được sinh ra mang những thay đổi kì lạ này.”

Giờ Jack hiểu ra tại sao anh được gọi. Anh nhìn chăm chăm về vùng nước Vịnh trống trải. Chẳng lạ gì khi bọn bắt cóc chọn hòn đảo tách biệt này để làm thí nghiệm.

“Vi rút này,” anh nói. “Cô nghĩ nó có thể truyền nhiễm không?”

“Có thể. Chúng tôi không biết. Chúng tôi đã đặt các con thú ở đây, cách ly nghiêm ngặt. Nhưng chúng tôi nghĩ anh nên biết trước khi đến được hòn đảo. Để thận trọng.”

“Cảm ơn. Chúng tôi sẽ thận trọng.” Đột nhiên Jack nhận thức về các triệu chứng cúm của anh, nhưng anh không có thời gian để lo lắng về nó. Anh còn một việc phải làm.

Tiếng giày nện bộp bộp trên cầu thang thép khiến anh rời sự chú ý khỏi Vịnh. Mack Higgins leo lên bục. Anh ta vẫn ngậm đầu còn lại của điếu xì gà đã nguội lạnh. Đôi mắt anh ta mở to khi tìm thấy Jack ở đó.

“Chờ một giây nhé Zoë?” Jack bỏ điện thoại xuống và gật đầu chào Mack. “Gì vậy?”

“Viên phi công nói ta đã nạp đầy nhiên liệu.”

Jack gật đầu và nhấc điện thoại lên lại. “Đó là tất cả những gì cô muốn nói phải không Zoë?”

“Chỉ một điều cuối nữa.” Có một quãng đứt dài. Giọng cô trở nên hậm hực và đau khổ. “Tìm Lorna. Mang cô ấy về. Và bắt bọn khốn đã giết Paul phải trả giá.”

“Tôi hứa, Zoë. Cả hai điều.” Anh cúp máy. Bỏ điện thoại xuống, anh nhìn Mack. “Chúng ta sẵn sàng đi chưa?”

“Viên phi công cần mười phút nữa để làm thủ tục cuối kiểm tra trước khi bay, rồi chúng ta sẽ bay. Nhưng anh nên biết. Tôi vừa nghe cuộc điện thoại từ Jimmy ở trạm. Paxton đang điên tiết ở đó. Biết rằng ta đi khỏi mà không xin phép và không tin tưởng ông ấy.”

Jack nhăn mặt. Đó là tin xấu, nhưng đã lường trước. Paxton không ngốc. Sự liều lĩnh của Jack có thể khiến tất cả bọn họ mất việc, nếu không nói là phải ngồi bóc lịch.

“Vẫn chưa quá muộn nếu anh và Bruce quay lại,” anh đề nghị.

Mack nhoẻn miệng cười ngang tàng ngậm điếu xì gà. “Làm ở đó thì có gì vui chứ?”

Jack vỗ lên vai anh ta cảm ơn và chỉ anh ta quay về phía cầu thang. “Còn chuyên viên FBI có tin tức gì không? Có tín hiệu nào từ thiết bị GPS trên người Tiến sĩ Polk không?”

Cử chỉ của Mack khựng lại. “Không một tiếng bíp hay tiếng boong từ ngoài kia, sếp.”

Jack thầm chửi bên trong. Giá như anh có nhiều bằng chứng hơn rằng Lorna ở ngoài kia, không chỉ cho Paxton, mà cả bản thân anh. Khi anh bước xuống cầu thang, sự nghi ngờ bắt đầu xâu xé sự quyết tâm của anh. Nếu như thậm chí cô ấy không ở trên hòn đảo đó? Hay nếu như cô ấy đã chết rồi? Anh nuốt lại những dòng lệ đó. Chúng không giúp được anh.

Cô ấy phải còn sống – và bằng cách nào đó anh biết điều đó là đúng. Nhưng nó không đồng nghĩa rằng cô không gặp rắc rối. Và không may là anh cảm thấy điều đó rất mạnh và nỗi sợ cứ lớn lên từng phút.

“Chúng ta vẫn bay khỏi đây trong mười phút nữa chứ?” Mack hỏi.

Jack lắc đầu. “Không. Chúng ta đi ngay bây giờ.”