Dòng Trinh Giang phía Đông đổ lại cùng Vũ Giang ngả Tây chảy vào, kẹp lấy bán đảo phủ Thiều Châu hình cá, hợp với nhánh chính của Bắc Giang bắt nguồn từ Quảng Châu tại miệng cá. Từ đây, Bắc Giang bắt đầu cuộc trường chinh ngàn dặm, chảy từ Bắc xuống Nam tỉnh Quảng Đông, khúc sông ở phía Nam lại hợp với Đông Giang, Tây Giang thành Châu Giang chảy ra biển Hoa Đông.
Lục Kiều Kiều chẳng lạ gì điều này, sáu năm trước cô từng phá giải tà cục phong thủy trong nha môn phủ Thiều Châu cho châu quan Phạm Trọng Lương, còn bày cục thế kỳ lạ giúp họ Phạm bắt sống đám tham quan ô lại. Hôm nay, một lần nữa đi trên đường phố Thiều Châu, song tâm trạng cô lại phức tạp khác thường.
Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều đều mặc kỳ bào thanh nhã, ngồi trên xe ngựa lớn của nhà giàu sang, hai chị em Nguyệt Quế Hương Quế vận đồ a hoàn ngồi phía trước, điều khiển cỗ xe thong thả tiến vào thành Thiều Châu. Lục Kiều Kiều vén rèm xe lên nhìn ra ngoài, thấy mực nước sông rất thấp, mặt sông cũng hẹp hơn hẳn khi xưa, thuyền bè qua lại thưa thớt, cũng không có cảm giác vì mặt sông hẹp mà ảnh hưởng đến việc qua lại. Lục Kiều Kiều biết năm nay mưa xuân rất ít, đến hè sẽ có lũ lớn, mùa xuân không gieo được mạ đến hè lũ lại về, vụ mùa hai bên bờ Bắc Giang sẽ gặp cảnh thất bát.
Xe ngựa đến trước nha môn, Lục Kiều Kiều thấy cửa lớn đã rộng hơn khi xưa nhiều, ngoài ra nơi đây còn khác hẳn các nha môn khác, từ cửa chính có thể nhìn thẳng vào công đường nơi châu quan xử án. Điều này do Lục Kiều Kiều kiến nghị với Phạm Trọng Lương năm xưa, mở toang nha môn ra thành cục diện tán tài, khiến tiền thuế mà châu phủ thu được từ dân đều được chi dùng cho dân, xem ra Phạm Trọng Lương đã làm được. Bên kia đường đối diện nha môn có một bức tường cao, vốn là chiếu bích ở sau nha môn để tụ tài cản sát khí và ngăn dân chúng nhìn vào, song năm xưa Jack đã đề nghị với Phạm Trọng Lương, dời chiếu bích ra mặt phố, biến thành một bức tường bày tỏ, để trăm họ tùy ý đưa ra những phát biểu hữu ích, phê bình nha lại, một con đường rất tốt để quan và dân trao đổi. Giờ đây tường đã được dựng, bên trên dán những bài văn thơ mới tinh, có thể thấy nha môn thường bóc lấy những lời phát biểu của dân chúng đem đọc kỹ, dân chúng cũng thích đưa ra những bình luận mới tại đây.
Trước nha môn có hai nha sai canh cửa, Nguyệt Quế bèn xuống xe cúi đầu cầu kiến, nói mấy câu với nha sai rồi quay lại nói nhỏ vào trong xe: “Thưa Đại tiểu thư Nhị tiểu thư, nha sai nói Phạm đại nhân không có nhà, bảo chúng ta chiều hãy quay lại, nếu không thì cứ chờ ngoài cửa.”
Từ trong rèm xe, một cánh tay nhỏ nhắn thò ra, bỏ hai mẩu bạc vụn vào tay Nguyệt Quế, Nguyệt Quế lại chạy đến trước nha môn dúi tiền cho nha sai. Lục Kiều Kiều vén một góc rèm lên nhìn hai người nói chuyện, thấy nha sai xuôi tay lắc đầu không nhận tiền, chỉ bảo Nguyệt Quế đứng ngoài đợi. Nguyệt Quế nài nỉ một hồi rồi chạy về báo: “Nha sai đại ca nói không cần tiền, Phạm lão gia thực sự đã ra sông thị sát thủy lợi từ sáng sớm rồi, đến trưa mới về ăn cơm.”
Lục Kiều Kiều nhìn Hồng Tuyên Kiều, Hồng Tuyên Kiều cười nói: “Vờ vịt, Mãn Thanh mà còn có hạng quan ấy ư?”
Lục Kiều Kiều cười khổ: “Người khác thì tôi không dám nói, song nếu là Phạm đại nhân thì có khi thế thật, lát nữa gặp rồi nói.”
Mọi người đánh xe sang bên cạnh đợi chốc lát thì trông thấy mấy thớt ngựa thong thả chạy đến trước nha môn, người ngồi trên ngựa đều mặc áo vải, trong đó có hai người là tri châu phủ Thiều Châu Phạm Trọng Lương và quan chủ bạc Dương Phổ, cả hai đều gầy gò, Phạm Trọng Lương tóc bạc phơ, đã già hơn khi xưa nhiều, song tinh thần không thua sút năm xưa chút nào, ông nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều lập tức vén rèm xe nhảy xuống, tiến về phía ông.
Phạm Trọng Lương giao ngựa cho mã quan đã chạy ra đón sẵn, đang định đi vào nha môn thì trông thấy hai cô gái xinh đẹp tiến về phía mình, định thần nhìn lại liền nhận ra một trong hai cô là Lục Kiều Kiều, lập tức tươi cười rảo bước tiến đến, chắp tay chào Lục Kiều Kiều trước: “Thì ra An tiểu thư đến, quả là khách quý.”
Lục Kiều Kiều uyển chuyển tiến lên mấy bước, cùng Hồng Tuyên Kiều nhún mình chúc phúc Phạm Trọng Lương, dịu dàng mà phóng khoáng nói: “Phạm đại nhân vạn phúc, Dương đại nhân vạn phúc, dân nữ Lục Kiều Kiều và chị dọc đường ngang qua đây, chị ấy xưa nay vẫn ngưỡng mộ thanh danh Phạm đại nhân nên chị em chúng tôi cùng tới vấn an ngài.”
Hồng Tuyên Kiều cũng góp lời: “Dân nữ Đại Kiều tham kiến Phạm đại nhân.”
Phạm Trọng Lương cười khà đáp lễ, rồi bảo Lục Kiều Kiều: “An tiểu thư thật có ý tứ, sao lại đổi cả tên đi thế, cái tên này… chậc chậc…”
Lục Kiều Kiều hỏi bằng giọng hơi nũng nịu: “Dung tục lắm đúng không? Đại nhân có thể gọi tôi là Tiểu Kiều.”
“Ha ha ha…” Phạm Trọng Lương ngửa mặt cười phá lên: “Đâu có dung tục, dù gì cũng hay hơn cái tên Tây ban đầu, năm xưa cô vẫn gọi là An Kỳ Nhi đúng không? Ha ha ha…”
Đoạn ông khoanh tay trước ngực, chăm chú nhìn Lục Kiều Kiều như cha nhìn con gái lâu ngày không gặp: “Ồ, khí sắc của An tiểu thư khác hẳn năm xưa, chẳng những càng lúc càng trẻ ra, mà ấn đường còn sáng rực, quan tinh rất vượng, nếu là đàn ông hẳn đã làm quan đến nhị phẩm, song cô lại là phụ nữ, ai dà, lão phu không biết xem tướng mà, An huynh đệ và Jack tiên sinh có khỏe không?”
Hai người còn đương mải hàn huyên, song quan chủ bạc Dương Phổ đứng sau lưng Phạm Trọng Lương lại từ từ tắt hẳn nụ cười, cau mày quan sát Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều, cùng cỗ xe ngựa và hai a hoàn của họ, thầm nhớ lại cái tên là lạ này, Lục Kiều Kiều là một cái tên rất dễ nhớ, y nhớ mình từng trông thấy nó trên lệnh truy nã. Hiện giờ cô lại dám nói ra tên họ của mình, lẽ nào người trên lệnh truy nã năm ấy không phải là cô? Hay cô gan lớn bằng trời dám đến đây gây hấn ra oai? Từ nụ cười ngại ngùng của Hồng Tuyên Kiều, y đọc thấy bốn chữ: người đến không tốt.
Phạm Trọng Lương nhiệt tình mời hai người vào nhà sau nha môn dùng cơm trưa, Lục Kiều Kiều thấy sáu chiếc đĩa trên bàn toàn những món thanh đạm như cải xanh xào thịt, đậu rán, bèn cười bảo Phạm Trọng Lương: “Hằng ngày ăn uống thế này, tiết kiệm được bao nhiêu bổng lộc của Phạm đại nhân.”
Phạm Trọng Lương rất vui vì bạn cũ đột ngột tới thăm, bèn hồ hởi đáp: “Ha ha, đúng là tiết kiệm được đôi chút, vợ con ở quê cũng phải sống mà. Tường bày tỏ mà Jack tiên sinh kiến nghị rất hữu dụng, mấy năm nay dân chúng đã bày mưu hiến kế trên đó, giải quyết giúp nha môn rất nhiều vấn đề, tôi cũng dựa theo bố cục phong thủy mà An Long Nhi sắp đặt sửa sang lại nha môn, hiện giờ nề nếp nha môn thanh liêm, trăm họ trong phạm vi quản hạt đều được an cư lạc nghiệp, kiến nghị của các vị năm xưa đúng là cái phúc cho muôn dân, nào, lão phu kính cô một chén.”
Mọi người uống hết một tuần rượu, Hồng Tuyên Kiều liền hỏi: “Quê dân nữ hết hạn hán lại lũ lụt, liền mấy năm mùa màng thất bát, chẳng hay thời tiết phủ Thiều Châu ra sao?”
Phạm Trọng Lương lắc đầu đáp: “Cũng thế cả thôi, trước đây mỗi năm phủ Thiều Châu có thể nộp lên triều đình mấy trăm vạn lạng, song vài năm gần đây đều không đầy trăm vạn, thỉnh thoảng còn phải xin triều đình giảm thuế.”
Lục Kiều Kiều hỏi: “Một dải Thiều Châu núi nhiều ruộng ít, nguồn thu thuế chủ yếu vốn không phải nông nghiệp, dù gặp lúc mất mùa đói kém cũng không ảnh hưởng nhiều chứ?”
Dương Phổ cảm thấy đây không phải vấn đề mà một cô gái nên hỏi, lại thấy Phạm Trọng Lương hoàn toàn không có ý đề phòng, bèn tiếp lời: “Lục tiểu thư am hiểu tình hình quá, đủ sức đảm đương cả chức quan châu này đấy…”
Lục Kiều Kiều che miệng cười: “Dương đại nhân chê cười rồi.”
Dương Phổ lại nói: “Vốn dĩ cả nước chỉ có một cửa thông thương, giao thông hàng hóa giữa nước ngoài và hai miền Nam Bắc nước ta đều bắt nguồn từ Quảng Châu, rồi nhất định phải qua Thiều Châu, thuế quan thu được đương nhiên rất nhiều, song hiện giờ biển Hoa Đông và khu vực gần kinh thành cũng mở cửa quan, việc vận chuyển buôn bán của họ cũng ngày càng phát triển, khách buôn đến Thiều Châu mỗi lúc một ít, nên nông nghiệp lại trở thành nguồn thuế chủ yếu, bởi vậy mỗi trận thiên tai đều là một đòn cực mạnh giáng vào đời sống người dân.”
Hồng Tuyên Kiều vẫn chăm chú quan sát Phạm Trọng Lương và Dương Phổ, đợi Dương Phổ dứt lời, cô liền nói: “Nếu có thiên tai thì báo lên triều đình cũng sẽ có tiền cứu trợ chứ?”
Phạm Trọng Lương cả cười: “Thực không ngờ Đại Kiều Tiểu Kiều đều là kỳ nữ quan tâm đến đại sự quốc gia, nếu các người là đàn ông, lão phu nhất định sẽ tiến cử cả hai ra giúp sức cho đất nước.” Đoạn ông nhấp một ngụm rượu, đằng hắng hai tiếng: “Lúc Đạo Quang gia tại thế, tiền cứu trợ của triều đình còn đến kịp, chỉ cần quan lại không tham ô rút ruột thì trăm họ coi như cũng có bát cơm ăn, giữ được con đường sống. Còn bây giờ hoàng đế Hàm Phong cũng không thể nói là không quản, song mấy năm nay ở Quảng Đông Hồng binh nổi dậy càng lúc càng dồn dập, ngân khố tiết kiệm được phải hao phí nhiều, đằng Quảng Tây còn dấy lên khởi nghĩa Thái Bình, nghe người trong triều nói, chỉ riêng ngân sách dẹp loạn ở Quảng Tây mỗi tháng đã tiêu hao bảy mươi vạn lạng, gần bằng tiền thuế một năm của phủ Thiều Châu, tốn phí như thế, dù các nơi gặp thiên tai báo lên xin tiền, e rằng cũng chẳng cách nào cứu trợ nổi…”
Dương Phổ cũng góp lời: “Bởi vậy hiện giờ chúng tôi chẳng trông mong gì vào thuế quan nữa, chỉ dốc tiền bạc xây đắp chống lũ phòng hạn, giúp địa chủ và nông dân cấy cày cho tốt, dù tiền bạc trong châu nha thiếu hụt, thậm chí hết tiền, vẫn có thể dâng tấu lên triều đình xin giảm thuế, song ít ra phải bảo đảm trong châu phủ có lương thực.”
Hồng Tuyên Kiều nhìn quanh, thấy người hầu kẻ hạ đều đã đi nghỉ trưa, trong sân cũng chẳng có nha sai nào khác đi lại, bèn đưa mắt nhìn Lục Kiều Kiều. Lục Kiều Kiều bưng ấm trà lên rót cho mỗi người thêm một tuần trà, khi đặt ấm trà xuống, miệng ấm vừa khéo hướng thẳng vào chén trà của Phạm Trọng Lương, đây là ám hiệu của Hồng môn, ý bảo: nói toạc móng heo ra.
Hồng Tuyên Kiều bèn hỏi: “Phạm đại nhân, ông thấy Hồng binh nguy hại hơn hay quân Thái Bình nguy hại hơn?”
Phạm Trọng Lương lấy làm lạ, không hiểu sao cô gái xinh đẹp này lại hỏi vấn đề kinh người nhường ấy, trái lại Dương Phổ càng lúc càng thêm chắc chắn vào phán đoán của mình, biết rằng trong lời nói của Hồng Tuyên Kiều nhất định có ẩn ý, bèn cướp lời đáp: “Hồng môn đã tạo phản hơn trăm năm nay, Quảng Đông vẫn có thể áp chế, song theo triều đình cấp báo thì quân Thái Bình đã hội quân sáu vạn người, rời khỏi Quảng Tây, nhiều khả năng sẽ tấn công các tỉnh, dựa trên tình huống hiện tại, đương nhiên quân Thái Bình gây họa lớn hơn. Lẽ nào Đại Kiều cũng có cao kiến gì ư?”
Hồng Tuyên Kiều cười nói: “Tôi không biết mới thỉnh giáo Phạm đại nhân chứ, Hồng môn tự cho mình là bề tôi triều trước, họ muốn phản Thanh phục Minh, thực ra là cuộc đấu tranh giữa triều đại cũ và triều đại mới, thiên hạ thay triều đổi đại, chẳng qua đều thắng làm vua thua làm giặc, chẳng có gì là phải trái đúng sai cả; còn quân Thái Bình lại là nông dân tạo phản, ông thấy đó là cái sai của triều đình hay cái sai của nông dân?”
Tim Phạm Trọng Lương đập thình thịch, kinh ngạc nhìn Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều, chủ đề này liên quan đến tội lớn mưu phản, trả lời thế nào cũng sai cả, vấn đề lớn nhất là cô gái xinh đẹp trông như con nhà giàu có kia hỏi như vậy làm gì? Ông còn đương do dự chưa dám đáp ngay thì Dương Phổ đã ung dung hỏi: “Lục tiểu thư, sáu năm trước cô cũng tên Lục Kiều Kiều phải không?”
Lục Kiều Kiều che miệng cười khúc khích, ngả người tựa vào lưng ghế đáp: “Mười năm trước tôi đã tên Lục Kiều Kiều rồi, trí nhớ của Dương đại nhân tốt thật.”
Phạm Trọng Lương vội hỏi Dương Phổ: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Dương Phổ vốn đang ngồi yên đột ngột đứng phắt dậy, cùng lúc tay Lục Kiều Kiều từ dưới bàn cũng rút lên, trong tay đã cầm một khẩu súng lục ổ quay chĩa thẳng vào Dương Phổ. Phạm Trọng Lương sợ đến nỗi ngã ngửa ra sau, Hồng Tuyên Kiều vội bước theo bộ pháp Tam giác mã, nhẹ nhàng lách ra sau lưng Lục Kiều Kiều, chẳng đợi Phạm Trọng Lương chạm đất đã đỡ lấy cả ông lẫn chiếc ghế, đồng thời kề tụ lý đao lên cổ ông.
Phạm Trọng Lương chưa hết hoảng sợ, thất thanh hỏi: “Các ngươi là ai?”
Dương Phổ bình tĩnh trỏ Lục Kiều Kiều đáp: “Phạm đại nhân, Lục Kiều Kiều chính là tội phạm bị truy nã sáu năm trước vì hành thích mệnh quan triều đình, lần trước đến Thiều Châu ả giấu tên thật nên chúng ta không phát hiện ra, giờ còn to gan dám ngang nhiên đến nha môn gây hấn.”
Lục Kiều Kiều đặt ngón tay lên môi, cười yểu điệu: “Suỵt, nói khẽ thôi, nếu ngài làm tôi giật mình khẩu súng này sẽ cướp cò đấy, ngồi xuống ngồi xuống đi, tôi cũng đặt súng xuống dưới bàn, như thế mọi người chuyện trò mới tiện.”
Phạm Trọng Lương vội vàng giục Dương Phổ ngồi xuống, mọi người đều trở về chỗ của mình, song bầu không khí đã hoàn toàn thay đổi.
Phạm Trọng Lương thấy cả đao lẫn súng đều xuất hiện trên bàn ăn, biết chẳng còn đường vòng vo, bèn hỏi thẳng: “Lục tiểu thư, cô đùa lão phu dai quá, năm xưa cô mang tội mà vẫn giúp trăm họ Thiều Châu trừ bọn ác ôn chấn chỉnh nha lại, không thu một đồng tiền, có thể thấy cũng là người ôm chí lớn, lão phu xưa nay vẫn đánh giá cô rất cao, không ngờ cô lại đến đây động dao súng, hẳn cô cũng biết lão phu là thư sinh hai bàn tay trắng, rốt cuộc cô muốn gì đây?”
Lục Kiều Kiều đáp: “Năm xưa tôi giúp đại nhân chấn chỉnh nha lại, có điều hôm nay tôi muốn giúp thiên hạ chấn chỉnh giang sơn, Phạm đại nhân thấy thế nào?”
Dương Phổ nghiêm giọng hỏi: “Các ngươi muốn làm phản ư?”
Hồng Tuyên Kiều ngồi xuống bên cạnh Phạm Trọng Lương, nắm lấy cổ tay ông: “Vị này là nữ tướng quân Lục Kiều Kiều của Thái Bình thiên quốc, còn ta là nữ thừa tướng Hồng Tuyên Kiều.”
Phạm Trọng Lương nghe cô nói quả nhiên giãy giụa kịch liệt, nhưng lại bị Hồng Tuyên Kiều ấn xuống ghế. Trái lại Dương Phổ bình tĩnh đáp: “Hừ hừ, nói ra cũng chẳng sợ người ta cười, tự mình phong quan cho mình, còn muốn đến đây diễu võ dương oai, để ta xem hai ả thừa tướng và tướng quân các ngươi có bước ra khỏi nha môn này được không?”
Hồng Tuyên Kiều cũng cười nhạt đáp trả: “Quan chức của ngươi là do ai phong? Ngươi có bản lĩnh tự mình phong quan à? Yêu nhân ngoại tộc phong cho ngươi một chức cửu phẩm nhãi nhép, giúp chúng cai trị người Hán, thu lấy tiền mồ hôi nước mắt của trăm họ, áp bức hương thân phụ lão mình, còn tự cho rằng bản thân tài giỏi lắm, cứ sủa nhặng lên như chó, thể diện mấy nghìn năm nay của con cháu Viêm Hoàng đều bị bọn các ngươi làm mất cả…”
Lục Kiều Kiều thấy Hồng Tuyên Kiều mắng hai vị quan thanh liêm có hơi quá lời, bèn nói: “Chúng ta không có nhiều thời gian đâu, đừng nói vấn đề thể diện nữa, Dương đại nhân cũng đừng khoác lác, trên dưới nha môn này một trăm năm mươi người không ngăn nổi hai phụ nữ bọn tôi đâu. Ông có biết mười vạn quân Thanh vây thành Vĩnh An Quảng Tây không? Chúng tôi vừa từ đó chém giết xông ra, ông bảo chúng tôi có thể chém giết xông ra khỏi nha môn bé xíu này không hả?”
Dương Phổ và Phạm Trọng Lương đưa mắt nhìn nhau, thực ra mật báo từ triều đình vừa nhận được đã đủ chứng minh điều Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều nói, thời gian, địa điểm và nhân số mà chỉ đương sự mới biết đều chuẩn xác, cả hai chẳng dám ho he nữa, chỉ đợi Lục Kiều Kiều đưa ra yêu cầu.
Lục Kiều Kiều lại nói tiếp: “Thiên quân muốn đánh đến Bắc Kinh, giết ông chủ của các người, đoạt lại giang sơn của người Hán, cùng hưởng thái bình, song bọn chó Thanh sẽ điều quân ở Quảng Châu lên phía Bắc chi viện, chúng tôi đến đây là muốn chặn đánh cánh quân ấy.”
Phạm Trọng Lương ngờ vực hỏi: “Chỉ mấy người các ngươi ư?”
Lục Kiều Kiều đáp: “Ha ha, người ngựa tại gò Tẩu Mã phía Bắc thành đông gấp mười lần đại quân trấn thủ Thiều Châu kia, chị em tôi chỉ là tới thăm lão nhân gia, nếu được thì đòi ông trả nốt món nợ ân tình ông nợ tôi năm ấy, còn bằng không trả thì cứ coi như Lục Kiều Kiều tới tham kiến trước, chúng ta hẹn gặp lại trên tường thành.”
Phạm Trọng Lương và Dương Phổ đều tái mặt: “Các ngươi muốn tấn công thành?”
Hồng Tuyên Kiều gằn giọng nói khẽ: “Tự động mở cửa thành và ngân khố nghênh đón Thiên quân, ta bảo đảm sẽ không mảy may làm hại đến dân chúng trong thành, nếu dám có một mũi tên một khẩu súng kháng cự, thì ngày Thiên quân phá thành cũng là lúc các người rơi đầu đó.”
Phạm Trọng Lương đấu tranh tư tưởng dữ dội, cảm thấy cả người từ ngoài vào trong như bị mắc mưa, vừa lạnh vừa ướt, ông dùng tay áo lau mồ hôi lạnh đầm đìa trên trán, nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Không được, các ngươi không thể tiến vào thành, Thiều Châu là con đường quan trọng nối liền Nam Bắc, một khi quân Thái Bình vào thành, quân Thanh tiến lên phía Bắc ắt cũng phải ngang qua Thiều Châu, nơi này sẽ khó tránh một trận ác chiến, không bàn đến việc hai phe tử thương, chẳng lẽ trăm họ trong thành tránh được tai ương sao? Huống hồ… ngân khố thu được đều đem nộp thuế lên trên cả, trong kho chẳng có bao nhiêu tiền, lại đều là tiền mồ hôi nước mắt của bách tính dùng để cứu trợ khi khẩn cấp, không chịu nổi họa binh đao như thế đâu…”
Hồng Tuyên Kiều siết cổ tay Phạm Trọng Lương chặt hơn: “Phạm đại nhân thương xót dân chúng, song Thiên quân toàn là dân đói không có nổi bát cơm ăn, số lượng không ít hơn dân chúng trong thành Thiều Châu, mỗi ngày đều vào sinh ra tử tác chiến với đám chó Thanh, trước mắt Thiên quân chỉ có hai con đường, đánh thắng hoặc là chết, ngươi cho rằng chúng ta sẽ rời khỏi Thiều Châu như không có chuyện gì ư?”
Dương Phổ giận dữ đập bàn đứng dậy mắng: “Các ngươi bỏ trò đó đi, có giỏi thì gặp lại Dương mỗ trên tường thành ấy!”
Phạm Trọng Lương vội quát bảo Dương Phổ câm miệng ngồi xuống, tự trấn tĩnh lại rồi đề nghị với Lục Kiều Kiều: “Lục tiểu thư, cô không đánh vào thành ngay mà tới tìm lão phu nói chuyện trước, chính vì không muốn phát sinh những cái chết vô ích, thế này nhé, tôi rút một vạn lạng trong ngân khố giao cho cô, đổi lại các người lui binh ra ngoài trăm dặm, không làm tổn thương dân chúng vô tội, được không?”
Lục Kiều Kiều lắc đầu đáp: “Chúng tôi tới là muốn ngăn chặn quân Thanh, địa điểm tốt nhất chính là Thiều Châu, nơi này là đất nhà binh tất phải tranh giành cả ngàn năm nay, Phạm đại nhân cũng là người đồng đạo yêu thích phong thủy, hẳn đã dự đoán được năm Nhâm Tý sẽ xảy ra cuộc chiến. Trận chiến này là ý trời, sáu năm trước tôi đã nói với ngài rồi, nếu năm nay không xảy ra trận đánh này thì sát khí dưới đất không có chỗ phát tiết, bốn năm hay tám năm sau, mỗi khi gặp năm thuộc Thủy lại tam hợp với Tý, Thiều Châu sẽ xảy ra chiến tranh ác liệt hơn nữa. Hôm nay chúng tôi chuẩn bị mà đến, chính là tiên lễ hậu binh, binh lính ngày sau kéo tới chưa chắc đã nhẹ nhàng như chị em tôi đâu. Hơn nữa nếu Thiên quân lùi lại ngoài trăm dặm như ngài nói, quân Thanh có thể tiến lên phía Bắc theo bất cứ đường nào, há chẳng phải chúng tôi đi uổng công một chuyến ư? Được, tôi hiểu tâm ý Phạm đại nhân rồi, giờ tôi cũng cho ngài biết, thành nhất định phải phá, ngân khố toàn bộ phải sung vào Thánh khố, còn trăm họ có thể an cư lạc nghiệp nữa không thì phải trông vào Phạm đại nhân ngài rồi. Tôi sẽ đếm từ một đến mười, xin Phạm đại nhân mau mau quyết định cho.”
Phạm Trọng Lương trợn trừng mắt nhìn Lục Kiều Kiều, ánh mắt Lục Kiều Kiều đảo qua đảo lại giữa hai vị quan, môi khẽ mấp máy, bắt đầu đếm: “Mười, chín, tám, bảy, sáu…”
Cô nhìn Phạm Trọng Lương, thấy ông trầm ngâm, vẻ như bị đả kích nặng nề, một lát lại lắc đầu quầy quậy, rồi lại cau rúm mày nghĩ ngợi.
“Năm, bốn, ba…” Lục Kiều Kiều dừng lại, nhìn kỹ vào mắt Phạm Trọng Lương, thấy ánh mắt ông không hề dao động, chỉ kinh hoàng nhìn Lục Kiều Kiều vẻ khẩn cầu, đột nhiên cô nhúng mỗi bàn tay một ngón vào cốc trà, bắn nước trà vào hai người, quát lớn: “Trói!” Phạm Trọng Lương và Dương Phổ tức thì cảm thấy cơ thịt toàn thân vừa cứng vừa đau như bị rút gân, không thể cử động hay nói năng được, thì ra đã trúng phải Phược thân chú của Lục Kiều Kiều.
Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều thu lại dao súng đứng dậy toan đi, Lục Kiều Kiều không ngoái đầu lại, chỉ buông nốt một câu: “Sau hai canh giờ thần chú sẽ hóa giải, nếu không vùng vẫy thì cơ thịt trên người sẽ đỡ đau.”
Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều yên ổn rời thành Thiều Châu, cỗ xe ngựa chẳng nề xóc nảy, dốc hết tốc lực chạy về phía gò Tẩu Mã phía Bắc thành. Trên đường đi, Hồng Tuyên Kiều nói: “Phải mau chóng đánh vào thành, khiến lão ta không kịp trở tay, tôi thấy quân giữ thành không quá năm trăm tên, nếu nhanh thì chỉ trong một ngày có thể hạ được.”
Lục Kiều Kiều bấm ngón tay tính toán rồi nói: “Theo lời Phạm đại nhân thì trong ngân khố Thiều Châu ít nhất cũng có bảy mươi vạn lạng, đủ cho hai ngàn quân ta trấn giữ ở đây hơn nửa năm.”
Hồng Tuyên Kiều bực bội hỏi: “Chẳng phải lão ta nói vừa nộp lên quốc khố rồi đấy ư? Sao còn đến bảy mươi vạn lạng được?”
“Chị không biết rồi, sổ sách kế toán trong nha môn quy định phải có tiền dự trữ, họ không ngu đến nỗi vét sạch ngân khố nộp lên đâu.” Lục Kiều Kiều gấp gáp nói: “Quân Thanh chẳng bao lâu nữa sẽ đến Thiều Châu nên tấn công nhanh là phải, đánh càng nhanh thì dân chúng trong thành tử thương càng ít, sau khi vào thành phải ra sức vỗ yên dân chúng, tiền mua gạo muối có thể chi từ ngân khố ra, đừng để dân chúng đâm sau lưng chúng ta. Nếu chúng ta không lấy ngân khố thì khi quân Thanh đến cũng vơ vét hết thôi, không cướp thì uổng. Đông vương còn hứa những thành trì tôi hạ được sẽ chia cho tôi một nửa ngân khố kia.”
Đánh thành là việc cả đời Lục Kiều Kiều chưa bao giờ nghĩ đến, hiện giờ mảnh đất trọng địa binh gia Thiều Châu kia lại đặt ngay trước mặt, khiến cô hết sức hiếu kỳ muốn thử xem năng lực của mình đến đâu. Về đến gò Tẩu Mã, cô lập tức dẫn theo hai nghìn nữ binh nhanh chóng áp sát Thiều Châu, chỉ sau một canh giờ đã chiếm ngay được núi Mạo Tử, một ngọn núi nhỏ phía Bắc, kẹp lấy Vũ Giang và Trinh Giang, từ đó nhìn xuống có thể quan sát cả thành Thiều Châu.
Lục Kiều Kiều đã thay sang bộ y phục tướng soái đỏ rực, đầu đội mũ rồng vàng, có năm dải tua rủ cả trước lẫn sau, lưng giắt súng tay cầm cờ lệnh năm màu, đứng trước mặt tướng sĩ lần lượt phát lệnh: “Nguyệt Quế Hương Quế nghe lệnh! Mỗi người các ngươi dẫn năm mươi người, mặc thường phục ra ngoài quân phục, chia nhau ngồi thuyền xuôi theo dòng Vũ Giang và Trinh Giang, trà trộn vào miệng cá ở đầu mút phía Nam thành Thiều Châu, sau khi nghe tiếng súng, quân giữ thành sẽ giảm bớt, các ngươi lập tức xông lên chiếm lấy cửa Nam thành, nếu gặp phải quân Thanh chi viện, không chống đỡ được thì rút lui về phía cửa Bắc. Lập tức xuống núi ngay bây giờ!”
“Hồ Cửu Muội nghe lệnh! Dẫn một ngàn quân trấn thủ núi Mạo Tử, phụ trách phục kích và dự bị tấn công, thuyền bè hai bên bờ sông chỉ cho xuôi không cho ngược dòng, nếu phát hiện có thuyền ngược dòng lập tức nổ pháo bắn chìm, không có tướng lệnh không được xuống núi.”
“Tô Tam Nương nghe lệnh! Ngươi dẫn tám trăm người mai phục ngoài cửa Bắc thành, ba khắc sau thì tấn công trực diện vào thành, sau khi phá thành, chia một nửa số người ra chiếm lĩnh toàn bộ tường thành, còn ngươi dẫn nửa còn lại đánh vào nha môn, ai không phản kháng thì không được lạm sát, tiến vào rồi sẽ tự có sắp xếp.”
Hồng Tuyên Kiều ghé tai bảo Lục Kiều Kiều: “Chúng ta còn vào thành được ư? Phược thân chú của cô chỉ có hiệu lực hai canh giờ, đến khi hai tên quan ấy nói được, chẳng phải sẽ lập tức đóng cửa thành sao, giờ sắp ba canh giờ rồi.”
Lục Kiều Kiều cắn môi cười xảo quyệt, thần bí nhìn Hồng Tuyên Kiều: “Phược thân chú phải ba canh giờ mới giải được, hiện giờ chúng ta dẫn một trăm người tiến vào thành, phối hợp đánh thành từ bên trong, còn có thể đến trước nha môn xem bọn họ làm sao điều binh khiển tướng.”
Hồng Tuyên Kiều tưởng tượng ra cảnh Phạm Trọng Lương khó khăn lắm mới đếm được đến hai canh giờ, vậy mà người vẫn cứng đơ không thể cử động, không nhịn được cười bảo Lục Kiều Kiều: “Đồ yêu tinh nhà cô, chẳng biết ngày nào sẽ đùa cợt cả trên đầu tôi nữa.”
“Vậy chị phải cẩn thận đấy, chúng ta lên xe vào thành nào.”
Đàn ông trong thành Thiều Châu đều cảm thấy hôm nay đi đường vui mắt lạ thường, vì trên phố đột nhiên xuất hiện rất nhiều thiếu nữ xinh xắn, không bán nghệ cũng chẳng bán thân, chỉ lượn qua lượn lại trước các tiệm phấn son vải vóc.
Song các cô gái xuất hiện không bao lâu, nha môn liền loạn cả lên, mười mấy quan sai từ bên trong chạy ra, xách chiêng đồng chạy về phía phố lớn ngõ nhỏ bốn hướng, vừa gõ vừa la: “Giặc tóc dài sắp đánh vào thành rồi! Mọi người mau về nhà đóng cửa lại! Giặc tóc dài sắp đánh thành…” Có viên quan sai còn không có chiêng, chỉ cầm nắp vung chậu đồng gõ ầm ĩ lớn tiếng thông báo. Trong chốc lát, toàn thành nhốn nháo cả lên, các tiệm trên phố lũ lượt đóng cửa, người đi đường và thương buôn cuống quýt chạy vội về nhà trốn, Lục Kiều Kiều ngồi trên lầu quán trà đối diện nha môn mỉm cười nhìn dòng người ngựa chen chúc nháo nhào.
Sau đó, thấy quân thủ thành bắt đầu ra vào nha môn, họ biết cửa thành đã đóng, bèn mỗi người dẫn theo năm mươi nữ binh, chạy tới cửa Nam và Bắc thành chuẩn bị phối hợp trong ngoài mở cửa thành. Lục Kiều Kiều phối hợp với Nguyệt Quế Hương Quế tấn công cửa Nam, trước cửa Nam chính là khởi nguồn của Bắc Giang, giữ chắc nơi này có thể đón lõng mọi cánh quân chi viện đi lên phía Bắc. Lục Kiều Kiều cũng chạy chầm chậm như những người trong thành, bên cạnh cô là đám phu khuân vác tìm mãi không thấy chỗ trốn và dăm ba đứa bé gái. Để khỏi bị chú ý, Lục Kiều Kiều đã nhắc nhở mọi người không được chạy tụ lại thành một đội mấy chục người như lúc hành quân thao luyện, mà phải tản ra các ngõ phố, hễ nghe thấy tiếng súng thì chạy về phía cửa Nam.
Trước mặt Lục Kiều Kiều là cửa Nam thành, cửa thành đã đóng chặt, bên trên lố nhố lính Thanh. Sau lưng cô đột nhiên vang lên một tiếng súng, là Tô Tam Nương đã bắt đầu nổ súng từ cửa Bắc đánh vào. Lục Kiều Kiều quay phắt người xé toạc bộ kỳ bào đang mặc ra, để lộ trang phục tướng quân đỏ rực, các cô gái bên cạnh cũng giật tung thường phục đủ màu trên mình ra, chít khăn đỏ lên đầu, một đội nữ binh hùng dũng hiên ngang thình lình xuất hiện trong thành Thiều Châu, Lục Kiều Kiều rút đoản đao ra vung tay hô lớn, mấy chục nữ binh chít khăn đỏ cùng cô chạy về phía cửa Nam thành.
Lục Kiều Kiều còn chưa chạy đến cửa thành thì quân đội của Hương Quế và Nguyệt Quế đã xuất hiện trên đầu thành tấn công lên. Nếu giao chiến cách nhau một bức tường thành, quân Thanh còn có thể bắn mấy phát súng chống đỡ chốc lát, song chúng không ngờ quân Thái Bình lại xuất hiện ngay bên cạnh mình, ngoại trừ mấy viên tướng dũng cảm muốn xông ra ứng chiến, những kẻ khác đa phần đã nhũn chân cúi đầu xin tha. Vì đợt tấn công vào cửa Nam thành chậm nửa khắc so với cửa Bắc, nên quân đội ở cửa Nam đều đã bị điều đến cửa Bắc, binh lính trấn giữ ở đây không đầy trăm người, sau khi Lục Kiều Kiều nổ súng bắn hạ mấy viên tướng toan phản kháng, đám quân Thanh mất chỉ huy lập tức tan rã, nữ quân nhanh chóng chiếm được cửa Nam.
Lục Kiều Kiều sai trói hết đám lính Thanh lại, đóng chặt cửa thành, lệnh cho hai trăm nữ binh chuẩn bị chặn đánh quân Thanh từ hai cửa thành Đông và Tây chạy đến. Tô Tam Nương hai mươi mấy tuổi đã dẫn theo hơn ngàn người ngựa Hồng môn tới đầu nhập quân Thái Bình, thường ngày trầm tính ít nói, Lục Kiều Kiều cũng không biết nhiều về quá khứ của cô, song biết được cô từng cầm quân đánh trận, sở trường công thành, nên rất yên tâm đợi Tô Tam Nương xua đám quân Thanh chạy qua cửa Nam.
Thành Thiều Châu chẳng lấy gì làm rộng, Tô Tam Nương tấn công vào, lại có Hồng Tuyên Kiều trong ngoài phối hợp, mấy trăm lính giữ thành làm sao trụ nổi, cửa Bắc thành nhanh chóng bị hạ, sau khi tiếng súng ngớt dần, lập tức quân Thanh ở cửa Bắc theo hai cửa Đông Tây rút lui về phía cửa Nam. Bị Lục Kiều Kiều và Tô Tam Nương hai mặt giáp công, quân Thanh rất sáng suốt lựa chọn đầu hàng, năm trăm lính Thanh chẳng tử thương là bao, đều bị tước khí giới trói thành một chuỗi dài nhốt trong nhà kho. Trời vừa chạng vạng, thành Thiều Châu và hai dòng sông bốn bên bờ đã hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của nữ quân. Lục Kiều Kiều lập tức sắp đặt tuyến phòng ngự tại thành Thiều Châu dọc theo tường thành ven sông, tập trung toàn bộ thuyền buôn tại bờ sông dưới thành, còn lệnh cho Tô Tam Nương kiểm kê hết nha môn và nhà kho, thu xếp ổn thỏa tiền bạc trong kho.
Sau khi toàn quân ăn no nê một bữa mừng phá được thành, Lục Kiều Kiều nghỉ ngơi chốc lát rồi đích thân dắt Nguyệt Quế Hương Quế đến cửa Nam đi tuần. Đây là cửa ngõ phòng thủ mà quân Thái Bình chú trọng nhất, quân Thanh từ Quảng Châu đi lên phía Bắc sẽ giao chiến với nữ quân tại đây đầu tiên. Lục Kiều Kiều bói quẻ đoán ra binh tình, biết được toán chủ lực của quân Thanh chẳng bao lâu nữa sẽ đến đây, hôm nay đánh trận mở màn tốt đẹp, phá thành thuận lợi, không có nghĩa là tác chiến sau này lúc nào cũng suôn sẻ được như vậy, hiện giờ không thể lơi lỏng việc phòng bị một giờ một khắc.
Trên cửa Nam thành treo một hàng đèn lồng đỏ, bên cạnh cắm đầy cờ đỏ nhằm thông báo với quân Thanh, tòa thành trước mặt đã trở thành lãnh địa của quân Thái Bình. Lục Kiều Kiều vai khoác áo choàng, hai tay chắp sau lưng lặng lẽ đứng trên cửa Nam thành, nhìn dòng Bắc Giang chảy xuống phía Nam, thầm chờ đợi khói lửa chiến tranh sắp dấy lên.
Phía đường chân trời chợt xuất hiện một hàng dài những đốm sáng, chính là đuốc soi đường khi đại đội nhân mã hành quân ban đêm, trên mặt sông cũng hiện ra một con thuyền lớn ngược dòng lên phía Bắc, trên thuyền đèn đuốc sáng rực, hẳn là thuyền chở tướng lĩnh, hành quân nghênh ngang thế này ắt là quân Thanh, chúng đi suốt đêm chứng tỏ đã nhận được cấp báo, phải lên phía Bắc chi viện cấp tốc. Hồng Tuyên Kiều đợi những tướng lĩnh chủ đạo tiếp nhận báo cáo xong cũng đến cửa thành Nam xem tình hình thực tế, Lục Kiều Kiều đã sắp xếp một trăm nữ binh lên mười con thuyền nhỏ, sau khi dặn dò một lượt, mấy con thuyền nhỏ cũng chạy như tên bay về phía ngã ba sông.
Đợi toán quân Thanh đi đầu trên bờ đến gần ngã ba sông, các nữ binh trên mười con thuyền nhỏ nhất tề nổ súng về phía ánh đuốc sáng rực, cho tới khi đám quân Thanh bờ bên kia náo loạn cả lên, đua nhau dập tắt đuốc, con thuyền lớn đang ngược dòng cũng dừng lại. Lần này chúng nhận được tin thành Thiều Châu đã bị công phá, trong đêm tối không nắm được nội tình đối phương nên quân Thanh quyết định không tiến lên nữa mà dừng tại chỗ đóng trại, đúng như suy đoán.
Dân chúng trong thành cũng nghe thấy tiếng súng trên mặt sông, dù ban ngày nữ quân tấn công vào không hề làm ảnh hưởng đến họ, song đám thương buôn và dân thường đều đã sợ vỡ mật, các nhà trong thành lục tục thắp đèn, trong hộ nào hộ ấy bắt đầu xôn xao náo động.
Sau khi bắn bừa một loạt súng, mười con thuyền nhỏ vội vã từ ngã ba sông chạy về cửa Nam thành, Lục Kiều Kiều miệng ngậm ô mai, nhìn quân Thanh bày trận ở bờ bên kia, lại phái thám tử qua sông thám thính tình hình suốt đêm, trong lòng đã nghĩ ra mấy cách đối phó.
Quan sát chừng một canh giờ, thấy quân Thanh về cơ bản đã hạ trại xong, Lục Kiều Kiều đang định quay về nha môn, chợt trông thấy dân chúng bắt đầu tụ tập trên những ngõ nhỏ phố lớn trong thành, nhốn nháo đòi ra khỏi thành chạy nạn. Hồng Tuyên Kiều vừa cắt đặt nữ quân đưa dân chúng về nhà thì Lục Kiều Kiều trông thấy bên cạnh con thuyền lớn của quân Thanh xuất hiện mười chiếc thuyền con đang từ từ tiến về phía thành.
Lục Kiều Kiều thoáng nhìn đã hiểu mười con thuyền này đến thị uy nhằm trả miếng đợt công kích gây rối vừa rồi, điều này có nghĩa là ý chí chiến đấu của quân Thanh đang vượng, nếu không bắn hạ chúng trên mặt sông thì tối nay đừng ai hòng ngủ yên nổi. Cô vội hô lớn: “Ba trăm người mang súng Tây mau lên đầu thành Nam, đánh tan đội thuyền kia cho ta!”
Đội thuyền con của quân Thanh vừa đi vào tầm ngắm của súng Tây, Lục Kiều Kiều liền ra lệnh nổ súng, đây là cách đánh tập trung hỏa lực một đòn chết tươi, có sức uy hiếp cực mạnh. Ba trăm khẩu súng Tây nhất tề nổ vang, không khác nào sấm sét giáng xuống đất bằng, dân chúng trong thành lập tức ré lên kêu khóc ầm ĩ, trên thuyền quân Thanh cũng vang lên những tiếng sắt thép va vào nhau loong coong, đội thuyền vẫn tiếp tục tiến lên phía trước.
Hồng Tuyên Kiều cau mày: “Bọn chúng đã có chuẩn bị rồi, trên thuyền trang bị khiên sắt.”
Lục Kiều Kiều nấp sau ụ tránh tên đáp: “Phải rồi, tới để thị uy mà, cơn giận này không thể nuốt trôi được, sáng mai bắt đầu giao chiến, sĩ khí ngày mai trông cả vào lúc này đây. Chuẩn bị đợi chúng cập bờ lại bắn tiếp một loạt súng nữa, để chúng mang đám binh lính tử thương quay về… Toàn quân trên thành chuẩn bị, bắn!”
Ba trăm khẩu súng lại đồng thời khai hỏa, trong thành càng náo động. Sau khi tiếng súng ngừng, trên thuyền quân Thanh đột nhiên có mấy chục binh lính đứng lên, kẻ nào kẻ nấy đều đeo ống tên, tay cầm cung dài, chỉ nghe một giọng nữ trên thuyền phát lệnh, tức thì tiếng bật dây cung vang lên, tên từ thuyền vun vút bắn lên lưng chừng trời, rồi từ trên trời rơi xuống đầu thành rào rào như mưa.
Ụ tránh tên trên tường thành có thể ngăn được mũi tên hòn đạn bay thẳng, song không có mái nên chẳng cách nào chặn được mưa tên trên trời trút xuống, Lục Kiều Kiều kịp thời nhận định được quỹ đạo và hướng bay của trận mưa tên, lập tức hô lớn: “Trên trời có tên đổ xuống, tất cả tản ra.”
Nữ binh đang lắp đạn vào súng không ngờ đến tình huống này, lập tức có mười mấy người nấp sau ụ tránh tên không kịp giơ khiên lên che chắn đã trúng tên ngã xuống. Công phu nữ đan của Lục Kiều Kiều đã luyện đến cảnh giới tối cao, những mũi tên vun vút bay đến kia trong mắt cô lại chậm đến mức có thể dùng tay chộp lấy, cô nhẹ nhàng lắc đầu tránh tên rồi quay người lách mình đến trước mặt Hồng Tuyên Kiều. Hồng Tuyên Kiều chỉ thấy một vầng hồng thoáng qua trước mắt, Lục Kiều Kiều đã lướt qua mặt mình, chộp lấy hai mũi tên dài nhằm vào đầu và lưng cô, Hồng Tuyên Kiều co người tránh, kinh ngạc thốt lên: “Kẻ này là ai nhỉ, binh pháp khá quá.”
Lục Kiều Kiều ném lại một câu: “Tôi biết cô ta là ai.” Đoạn tuột áo choàng trên mình ra, tiện tay nhặt lấy hai tấm khiên mây trên mặt đất, một cái hộ thân, một cái che đầu như che ô, tung người nhảy xuống dưới thành. Mượn sức nâng của khiên mây, Lục Kiều Kiều chao mình trên không như chim, băng qua mặt sông rộng mười mấy trượng, hô lớn: “A Đồ cách cách, Lục Kiều Kiều đến đây!” Lời còn chưa dứt, cô đã vững vàng đáp xuống con thuyền chỉ huy.
Người trên thành dưới thành đều rộ lên kinh ngạc, quân Thanh trên thuyền càng không sao ngờ được lại có kẻ có thể bay từ đầu thành xuống thuyền mình như chim, vội nhốn nháo vung đao múa cung, song không dám bắn Lục Kiều Kiều, sợ làm bị thương người mình. Lục Kiều Kiều vừa đáp xuống thuyền lập tức ném chiếc khiên cầm trong tay phải đi, tay trái giơ khiên che đầu, tay phải rút súng lục ở thắt lưng ra khai hỏa. Trên thuyền con chỉ có chỗ cho người đứng, đám lính Thanh đối mặt với súng đạn chẳng có cách nào tránh né hay trốn chạy, tiếng súng vừa vang, lập tức có bốn năm tên lính Thanh ngã nhào xuống nước, một loạt những hành động tập kích này chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, khi A Đồ cách cách lùi đến đầu thuyền giương cung nhắm chuẩn vào Lục Kiều Kiều thì trông thấy Lục Kiều Kiều đang quỳ giữa thuyền, tay trái lật khiên ra sau che lưng, tay phải giơ súng nhằm thẳng vào mình.
A Đồ cách cách vận khôi giáp kỵ binh, lồng ngực phập phồng, ánh mắt nhìn Lục Kiều Kiều kinh ngạc không kém gì Hồng Tuyên Kiều. Dù đôi bên gặp nhau giữa chiến trường, cô cũng không tin Lục Kiều Kiều sẽ nổ súng với mình, bèn từ từ hạ cung xuống hỏi: “Chị Kiều… sao chị lại ở đây?”
Lục Kiều Kiều cười đáp: “Tự tôi lựa chọn đấy, còn em sao lại ở đây?”
“Em cũng tự mình lựa chọn thôi, chị ở cùng với A Văn và Long Nhi ư?” Nỗi quan tâm của A Đồ cách cách lồ lộ trong lời nói.
Lục Kiều Kiều đáp: “Họ không phải người của Thiên quân, chẳng biết đã trốn đến đâu rồi. Đây là chiến trường, không phải chỗ chơi đâu, em mau về nhà đi.”
“Em muốn gặp A Văn, em biết hắn là người của Hồng môn, em theo cha đi đánh trận, có thể sẽ gặp được hắn.” Giọng A Đồ cách cách mềm hẳn đi, thậm chí còn gần giống nũng nịu, có cảm giác như sắp khóc.
“Phì! Đâu ra cái kiểu tìm chồng như thế này chứ…” Lục Kiều Kiều nhìn quanh, thấy thuyền con của quân Thanh vừa vớt những binh sĩ rớt xuống sông, vừa từ từ khép vòng vây về phía mình, vội nói: “Em đánh giỏi lắm, nhưng chị không thể để em cứ thế mà lui quân được, để một con thuyền lại đây, khi nào gặp Cố Tư Văn, chị sẽ nhắn là em đang tìm cậu ta.”
A Đồ cách cách phục sau tấm khiên sắt, dịch chuyển một bước về phía trước: “Chị Kiều…”
Lục Kiều Kiều hạ giọng nói: “Được rồi, đừng qua đây, kẻo lát nữa em quay lại cũng khó ăn nói, chị sẽ bắn chỉ thiên một phát, em tự nhảy xuống sông nhé.” Vừa dứt lời, cô liền nổ súng, A Đồ cách cách đành nuốt lại một bụng những lời muốn nói cùng một bụng đầy lửa giận, u oán nhìn Lục Kiều Kiều rồi nhắm mắt xoay người, làm bộ như đang tránh đạn, nhảy ùm xuống sông.
Lục Kiều Kiều lập tức vươn tay tóm lấy tấm khiên sắt trên thuyền, quát lớn một tiếng, vận khí lao mình xuống nước, mượn lực kéo chiếc thuyền con lật nhào. Trên tường thành phía Nam lại rộ lên một tràng tiếng hoan hô. Một chiếc thuyền con trờ tới cứu, A Đồ cách cách leo lên thuyền, chỉ huy quân Thanh mau chóng rút lui, còn Lục Kiều Kiều lặn một hơi đến bờ sông, đứng trên thềm đá nơi bến sông thành Nam, vung tay phải gào lớn, các nữ binh lập tức phất cờ nổ súng, đồng thanh hô ứng.
Từ trên thành, một sợi dây buông xuống kéo Lục Kiều Kiều lên, các nữ binh kéo màn vải che cho cô thay bộ đồ ướt ra, khoác lại áo choàng. Vừa quay lại, Lục Kiều Kiều đã trông thấy dân chúng trong thành ùa cả ra đường. Dưới ánh lửa, họ lặng lẽ tụ lại, mấy trăm nữ binh thủ thành chĩa đao súng về phía họ, song cả đám người đều lặng phắc, chỉ có tiếng khóc của lũ trẻ không biết sống chết. Lục Kiều Kiều biết sau khi công thành thì khống chế dân chúng là mấu chốt của thành bại, giữ thành khó hay dễ phải xem trưng dụng được bao nhiêu sức dân, mà muốn nắm được lòng dân, ngoại trừ lúc quân đội tiến vào phải giữ quân kỷ nghiêm minh, kịp thời tuyên truyền tôn chỉ của nghĩa quân, còn phải trừng phạt những kẻ không phục tùng. Trước đây, sau khi hạ thành đều do Dương Tú Thanh và Phùng Vân Sơn thống lĩnh nam quân chế ngự bách tính, nữ binh chỉ làm vài công tác hậu cần phối hợp, hiện giờ là nữ quân đánh hạ thành, nên xử lý những việc này cũng trở thành một vấn đề lớn.
Lúc ra trận giết địch, phụ nữ có thể sôi sục căm hờn, dũng mãnh không thua gì đàn ông, song đứng trước những người dân tay không tấc sắt, họ không tài nào xuống tay nổi.
Lục Kiều Kiều cau mày nhìn xuống dưới thành, thấy mấy nữ tướng đang tản ra các chỗ rao giảng đại nghĩa phản Thanh cho dân chúng, tuyên truyền rằng quân Thái Bình chiến đấu vì dân, ra sức dẹp yên cơn khủng hoảng của họ. Xa xa, mấy nữ binh đang áp giải một người, rẽ đám đông tiến về phía cửa Nam thành.
Đó là một ông già vận áo dài, đầu tóc bạc phơ, dáng dấp gầy gò bị trói gô lại, trên đầu có một vết thương lớn, mặt đầm đìa máu, loạng choạng chạy tới. Dân chúng trông thấy ông ta đều tránh ra nhường đường, lũ lượt quỳ xuống, một người đàn bà chợt gào lên thảm thiết: “Phạm đại nhân”, tức thời tiếng kêu khóc rộ lên.
Phạm Trọng Lương chạy đến dưới cửa Nam thành, ngẩng đầu tìm bóng dáng Lục Kiều Kiều rồi lập tức chủ động chạy lên trên thành. Lục Kiều Kiều trông thấy ông ta, lòng không khỏi chua xót, vội bước lên đỡ lấy Phạm Trọng Lương, gỡ nùi giẻ nhét trong miệng ông ta ra: “Ai đánh ông đến nông nỗi này? Tôi nhất định nghiêm trị kẻ đó.” Phạm Trọng Lương vừa được gỡ miếng giẻ ra, vội quỳ xuống đất nói: “Lục tướng quân, nữ quân của cô kỷ luật rất nghiêm, không có ai đánh tôi cả, là tôi muốn gặp cô nên mới đập đầu xuống đất lấy cái chết uy hiếp, cô đừng trách các tướng sĩ.”
Dân chúng trong thành thấy Phạm Trọng Lương quỳ xuống, cũng nhất loạt quỳ xuống theo.
Lục Kiều Kiều vội đỡ Phạm Trọng Lương dậy, rút đao cắt dây trói cho ông ta: “Phạm đại nhân muốn nói gì?”
Gương mặt Phạm Trọng Lương hằn rõ nếp nhăn sâu hoắm, trong đôi mắt khô héo thoáng một tia hy vọng, vừa được cởi trói, thân mình ông ta còn đương tê dại, lảo đảo đứng không vững, phải dựa vào tường thành, nhìn về phía doanh trại quân Thanh bên kia sông: “Quả nhiên là quân Thanh tiến lên phía Bắc, vừa rồi nghe tiếng súng nổ tôi đã hiểu ngay. Lục tướng quân, các người chống Thanh, nói nào là đại nghĩa dân tộc, quân Thái Bình đánh trận là để thiên hạ được thái bình, kẻ các người muốn đánh là quân Thanh, nhưng cũng không thể đem dân chúng ra làm bia đỡ đạn được… Cô xem những người dân bên dưới kia, hôm qua họ còn sống yên ổn, vậy mà hôm nay đã phải hãi hùng lo lắng, dắt cả nhà chạy nạn, hiện giờ các người không cho họ đi, giữ họ lại có tác dụng gì chứ? Thu thuế ruộng của họ làm quân lương, ép họ dỡ nhà cửa xây công sự, lúc cần thiết thì dùng họ làm bia đỡ đạn, đó là những việc quân Thái Bình muốn làm sao?”
Lục Kiều Kiều nhìn gương mặt đầm đìa máu của Phạm Trọng Lương, bộ râu cũng bị máu nhuộm thành đỏ thẫm, dưới ánh lửa bập bùng toát lên vẻ hiền hậu mà bất lực, song ánh mắt ông không bợn một tia kinh sợ, hệt như đã chuẩn bị chết bất cứ lúc nào, chỉ riêng dân chúng dưới thành là không thể chết mà thôi. Lục Kiều Kiều sầm mặt đáp:
“Từ xưa đến nay đánh trận chẳng qua là hạ thành chiếm đất, sau khi phá thành, chiến thuật tất nhiên là phong tỏa đường ra vào, canh giữ cẩn mật. Thiên quân đánh trận xưa nay không động đến một tơ một hào của dân chúng, chúng tôi từ Quảng Tây đánh đến đây, không hề lấy không một quả trứng gà của dân. Những thôn làng hạ được ở Vĩnh An Quảng Tây, chúng tôi cũng không lạm sát một người dân nào, nếu có người nghèo khổ neo đơn, còn tặng gạo tặng tiền; trái lại bọn chó Thanh sau khi truy kích Thiên quân kéo vào làng, trưng dụng ngựa xe lương thực xưa nay không hề trả một xu, còn mượn danh nghĩa diệt giặc cướp mà đốt phá cướp bóc, những chuyện này hẳn Phạm đại nhân cũng từng nghe được trên triều chứ?”
Lục Kiều Kiều ngừng lại, bước đến bên tường thành chỉ xuống dân chúng bên dưới nói: “Mỗi thôn làng chúng tôi đánh hạ đều có dân chúng gia nhập Thiên quân, vì họ không có cơm ăn, bị bọn chó Thanh áp bức đến mức sống không bằng chết. Ông xem những nữ binh này của chúng tôi có ai không sinh ra làm thân trâu ngựa, tìm đường sống trong chỗ chết ở nhà phú hộ, để có bát cơm ăn mà phải tự bán mình, trong nữ quân có không dưới năm trăm người được Hồng thừa tướng đích thân cứu về, vì sao các người thấy Thiên quân lại muốn bỏ chạy? Là vì các người xưa nay quen sống sung sướng, làm sao biết được trong thiên hạ còn bao nhiêu người đang phải chịu khổ. Trận đánh hôm nay không diễn ra ở đây, thì ngày mai sẽ có nhiều nghĩa quân nữa đứng dậy tác chiến, Phạm đại nhân, ông bảo vệ được Thiều Châu một ngày, không bảo vệ được hai ngày đâu!”
Phạm Trọng Lương cất giọng khàn khàn: “Lục tướng quân, phủ Thiều Châu núi nhiều ruộng ít, số hộ tá điền nghèo đứng nhất nhì Quảng Đông. Dân chúng bên dưới đa phần chỉ ăn bữa nay lo bữa mai, thảng hoặc có nhà khá giả song không phải ai cũng là hạng giàu bất nhân, thuế khóa của nha môn mỗi năm đều đem phát đến các nơi để cứu tế nạn dân, chỉ cần không xảy ra chiến tranh làm chết người thì trong phạm vi mấy trăm dặm, một ngày nào đó sẽ vượt qua được thiên tai. Song các người lại khai chiến trong thành Thiều Châu, chẳng mấy chốc sẽ có bao người vô tội tử thương, bọn họ chẳng còn cơ hội được nhìn thấy ngày thiên hạ thái bình nữa. Nếu kẻ chết đi là hạng gian thương làm giàu bất nghĩa, đương nhiên ai nấy đều vui mừng, nhưng cô làm sao biết được người chết không phải những dân thường cả đời hiền hậu, chăm chỉ cần cù? Cô nỡ lòng để họ trở thành vật hy sinh khi hai phe giao chiến ư? Hiện giờ họ chỉ muốn chạy nạn, có cản trở gì Thiên quân đâu? Lục tướng quân, tôi muốn hỏi cô một câu này, nếu thả một phần mười dân trong thành đi, có ảnh hưởng gì đến việc tác chiến của Thiên quân không?”
Lục Kiều Kiều đột nhiên quát lên với Phạm Trọng Lương: “Ông bớt giảng lý lẽ với ta đi! Ta bảo có thể cho một phần mười đi, ông sẽ lại hỏi thế hai phần mười có được không chứ gì? Ta nói cho ông biết, không một ai trong thành được rời khỏi cả. Muốn trách thì trách Thiều Châu các người nằm trên mảnh đất nhà binh ắt phải tranh giành, các người chọn ở lại nơi này, đó chính là vận hạn của các người!”
Phạm Trọng Lương nghe giọng điệu dữ dằn của Lục Kiều Kiều, biết rằng có nói nữa cũng chẳng ích lợi gì, bèn ngoái lại nhìn Lục Kiều Kiều rồi run rẩy trèo lên ụ tránh tên. Lục Kiều Kiều biết ông ta lại định lấy cái chết uy hiếp. Nếu người bình thường nhảy xuống khỏi tường thành, có lẽ mọi người chỉ xúm lại coi náo nhiệt, song Phạm Trọng Lương lại là vị quan thanh liêm đức cao vọng trọng, cứ nhìn khi nãy ông ta bị trói giật cánh khuỷu loạng choạng chạy đến, dân chúng quỳ rạp suốt dọc đường, đủ biết được địa vị người này trong lòng người ở đây, nếu ông ta chết đi, khó tránh dân chúng trong thành nổi dậy.
Lục Kiều Kiều vội tóm lấy cổ áo Phạm Trọng Lương, kéo ông ta từ trên ụ tránh tên ngã nhào xuống đất, đoạn gọi nữ binh bên cạnh trói ông ta lại. Lập tức dân chúng dưới thành nhốn nháo cả lên, hết lớp này đến lớp khác xô vào phòng tuyến của nữ binh, muốn xông lên đầu thành. Nữ binh khác với nam binh, ghét nhất phải xô đẩy với đám đông, hễ dân chúng nổi loạn liền tuốt gươm chém ngay, súng Tây ở tuyến sau cũng lũ lượt chĩa về phía đám đông, dùng trận hình tác chiến đối diện với đám người, hành động này càng khơi dậy lòng căm phẫn của dân chúng.
Phạm Trọng Lương giãy giụa: “Mau thả ta ra! Bằng không sẽ xảy ra chuyện đó!”
Lục Kiều Kiều lập tức cởi trói cho ông ta. Phạm Trọng Lương nhoài người trên tường thành, vung tay nói lớn: “Mọi người đừng đánh, quân Thái Bình đều là các chị em chịu khổ chịu nạn, tất cả dừng tay lại đi!”
Ông ta hò hét một hồi lâu, cuối cùng đám dân chúng và nữ binh đang giằng co cũng yên lặng trở lại, song tình thế vẫn hết sức căng thẳng. Phạm Trọng Lương vịn vào lá cờ đỏ chậm rãi đứng thẳng lên trên ụ tránh tên, mồ hôi lẫn máu đã thấm ra khắp người, nói đầy khẩn thiết và phẫn uất:
“Lục tướng quân, cô còn chưa hiểu ư? Kẻ được lòng dân thì được thiên hạ! Dù cô có trăm ngàn đạo lý chăng nữa, cũng làm sao địch nổi lòng dân? Lão phu nợ cô một món ân tình, nhưng không thể đem tính mạng dân chúng toàn thành ra trả được. Cả đời lão phu tiết kiệm chưa được nổi một trăm lạng bạc, chỉ có cái mạng này đem ra trả cô thôi, nếu tôi từ đây nhảy xuống, dân chúng sẽ nổi dậy, các người chưa giao chiến với quân Thanh đã phải chiến đấu với dân chúng trong thành, như vậy là hại các người; song nếu tôi không nhảy xuống thì chẳng còn mặt mũi nào đối diện với người trong thiên hạ nữa, cô bảo lão phu phải làm sao đây? Các người đánh trận xong, tôi cũng chẳng biết còn được bao nhiêu người dân sống nổi, họ chết mất một người, lão phu lại nợ họ một mạng, trời ơi là trời!”
Dứt lời, Phạm Trọng Lương đấm ngực giậm chân ngẩng lên trời khóc òa, dân chúng dưới thành cũng bật khóc theo.
Lúc này, Hồng Tuyên Kiều chạy đến bên cạnh Lục Kiều Kiều, ghé tai nói: “Vừa nhận được tin tình báo, phía quân Thanh đều là tinh binh Bát kỳ từ Quảng Châu phái đi, quân số hơn một vạn, chúng ta phải chuẩn bị cho trận đánh ác liệt sắp tới, không thể hao tổn vào việc này được…”
Lục Kiều Kiều nghĩ ngợi một lát rồi nói nhỏ mấy câu vào tai Hồng Tuyên Kiều, Hồng Tuyên Kiều vội gật đầu tỏ vẻ tán đồng.
Lục Kiều Kiều bước tới cạnh Phạm Trọng Lương đỡ ông ta xuống nói khẽ: “Phạm đại nhân vì muôn dân có thể nói là gan óc lầy đất, nếu để ông tự vẫn thì cả đời này Lục Kiều Kiều cũng chẳng thể yên lòng. Chúng ta có thể lui binh, nhưng ông phải nhận lời giúp chúng ta mấy việc.”
Phạm Trọng Lương nghe nói lập tức quỳ sụp xuống trước mặt Lục Kiều Kiều: “Lục tướng quân, chỉ cần bảo vệ được Thiều Châu bình an, lão phu có chết cũng không hối hận, có việc gì tôi giúp được, xin cô cứ nói ra.”
Sáng sớm hôm sau, quân Thanh phát hiện có hơn trăm con thuyền lớn nhỏ đậu ở giữa sông, trên mỗi thuyền đều cắm cờ đỏ, trên tường thành Thiều Châu cũng thấy cờ đỏ bay phấp phới, từ xa nhìn lại còn thấy bóng khăn đỏ đi lại trên tường thành, xem chừng rõ ràng quân đội toàn thành đã bày trận sẵn sàng đón địch. Trải qua một lượt pháo kích, cũng có dăm ba chiếc thuyền bị đánh chìm, những chiếc còn lại đều lùi về bên bờ phía Thiều Châu. Quân Thanh tạm thời không tìm được đủ thuyền lớn để vượt sông tấn công vào thành, bèn ở bờ bên kia đợi thêm một ngày nữa.
Lại qua một ngày, cờ đỏ trên đầu thành đã biến mất, quân Thanh bèn phái thuyền con thử tiếp cận thành thăm dò, bèn được quan lại trong thành tiếp đãi nhiệt tình, bấy giờ mới nghe nói hơn một vạn quân Thái Bình chiều qua đã rút lui, chia binh làm hai đường theo Trinh Giang và Vũ Giang lùi về phía Bắc, quân Thanh lập tức cũng chia binh hai đường đuổi theo.
Phạm Trọng Lương đầu quấn băng trắng cùng Dương Phổ đứng tại cửa Đông thành nhìn cánh quân Thanh đi xa, cả hai đều thở phào nhẹ nhõm. Dương Phổ nói: “Phạm đại nhân, quân đã rút rồi, chỉ tiếc bạc trong kho đều bị vét sạch nhẵn, giặc tóc dài nói thì hay ho lắm, đến cuối cùng vẫn không bỏ được thói giặc cướp.”
Phạm Trọng Lương thả lỏng người ngồi trên đầu thành, khẽ đáp: “Lục Kiều Kiều lấy ba mươi lăm vạn, để lại cho chúng ta ba mươi lăm vạn.”
“Ồ? Chẳng phải lúc trước ngài nói với tổng binh là bạc trong kho đã mất cả rồi ư?”
“Điểm này Lục Kiều Kiều cũng tính trước rồi.” Phạm Trọng Lương thở dài nói: “Cũng chẳng biết ai là giặc cướp nữa, mấy tên tổng binh tham tướng ấy vừa tới đã đòi chúng ta giao bạc, nếu chúng ta có thì chắc chắn bảy mươi vạn lạng đã bị chúng trưng thu cả rồi, may mà Lục Kiều Kiều đã giúp giấu giùm ba mươi lăm vạn, còn nói có thể đổ tội lên đầu quân Thái Bình, để triều đình miễn thuế hai năm cho phủ Thiều Châu…”
Dương Phổ trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát, rồi lắc đầu phì cười.
Mấy ngày trước, sau khi bàn bạc sách lược lui quân với Phạm Trọng Lương, Lục Kiều Kiều bận rộn suốt đêm bố trí hơn trăm chiếc thuyền không ở giữa sông, rồi nghỉ ngơi trong thành một buổi tối, sáng sớm hôm sau toàn quân lập tức rút lui, chỉ để lại cờ đỏ trên đầu thành. Phạm Trọng Lương cắt đặt một nhóm dân thường chít khăn đỏ trên đầu giả làm quân Thái Bình đi lại trên thành, lại sắp xếp một nhóm người khác, đợi sau khi quân Thanh bắn pháo vào mấy chiếc thuyền không trên dòng Bắc Giang thì kéo những con thuyền còn lại về dưới thành, làm ra vẻ quân Thái Bình vẫn còn đóng giữ trong thành. Nữ quân rút đi tròn một ngày, họ mới gỡ cờ đỏ trên thành xuống, để quân Bát Kỳ vào thành. Lúc này, Lục Kiều Kiều và Hồng Tuyên Kiều đã dẫn nữ quân rút đi theo hướng Tây Bắc.
Hồng Tuyên Kiều và Lục Kiều Kiều cùng ngồi trong xe ngựa, Hồng Tuyên Kiều hỏi: “Ba mươi lăm vạn lạng bạc kia tính thế nào đây? Là phần Đông vương hứa chia cho cô sau khi phá thành đúng không?”
Lục Kiều Kiều soi gương thờ ơ đáp: “Chị có muốn tôi thu phí trước không?”
Hồng Tuyên Kiều ghé sát lại trước mặt Lục Kiều Kiều, nhìn kỹ gương mặt cô: “Nếu cô nuốt cả thì nhiều quá, hồi trước cầu mưa cô chỉ ra giá một vạn lượng thôi mà.”
“Chị nói thế không đúng rồi, bấy giờ Đông vương không có tiền mặt, nếu tính lãi hằng ngày thì ra ba mươi lăm vạn lượng chẳng lạ.” Ánh mắt Lục Kiều Kiều nãy giờ vẫn không rời tấm gương nhỏ: “Hình như tôi càng lúc càng trẻ ra thì phải…”
Hồng Tuyên Kiều cười ngất: “Cô lợi hại nhất rồi, sau khi võ công đại tiến, còn trở thành yêu tinh già.”
“Chỉ là…” Lục Kiều Kiều nhìn bóng thương thân, sờ lên gương mặt trái xoan nõn nà của mình.
Hồng Tuyên Kiều lại hỏi: “À, cô nói xem một vạn quân Thanh kia liệu có chia binh hai đường không?”
Lục Kiều Kiều nói chắc như đinh đóng cột: “Nhất định rồi, việc ông già họ Phạm đã nhận lời thì chắc chắn làm được, có điều tôi cũng chẳng tin ông ta nên đã bói một quẻ, không việc gì đâu. Ông ta nói dối một câu mà giảm được một nửa truy binh cho chúng ta, cũng là công đức to bằng trời rồi. Giờ tôi chỉ sợ quân Thanh đuổi không kịp ta thôi.”
“Hai ngàn người đấu với năm ngàn người, cũng không phải vấn đề lớn.” Hồng Tuyên Kiều cầm lấy tấm gương con trong tay Lục Kiều Kiều, vừa soi vừa nói: “Phía trước sắp tiến vào núi rồi, trước tiên phải qua Cửu Lũng Thập Bát Than, nơi đó núi cao nước xiết, có cần đặt mai phục không?”
Lục Kiều Kiều cũng đang có ý này, bèn thoải mái đáp: “Được thôi, bằng không chúng cũng chẳng có bụng dạ nào đuổi theo.”