Sái Nguyệt đưa A Đồ cách cách về nhà trước, An Long Nhi và Cố Tư Văn khiêng bảy tám cái xác ném xuống dòng Châu Giang, rồi cũng quay về gian nhà ở ven sông. An Long Nhi trầm mặc đứng dưới hàng hiên gian nhà chính, chăm chú nhìn nước mưa đổ xuống qua giếng trời, không vào nhà, cũng không thay quần áo. Cố Tư Văn đóng chặt cổng ngoài, chạy tới trước mặt An Long Nhi, cởi áo ra vắt khô.
Cậu ta thấy An Long Nhi gỡ cây Lôi thích trên người xuống, từ trong Lôi thích rút ra thanh đao dài lưỡi đen tuyền ngậm ngang miệng, bấy giờ mới phát hiện ra thanh đao đầy sát khí này hóa ra được giấu bên trong cây gậy gỗ Lôi thích mà mấy hôm trước mình từng rờ tay vào. An Long Nhi dốc máu bên trong Lôi thích ra xúc rửa, rồi lại chìa lưỡi đao Vô Minh ra ngoài mưa rửa sạch, sau đó cầm chúc mũi đao xuống đất, rung nhẹ một cái như thể giũ nước mưa bám trên chiếc ô, những hạt nước bám trên lưỡi đao liền rơi cả xuống đất, không sót giọt nào.
“Chăn huyết thể phóng khoáng quá, ngươi không phải nhặt được công phu dùng đao của người Nhật, mà là được chân truyền, vả lại còn đạt đến trình độ người đao họp nhất rồi, nhìn bộ dạng ngươi kỳ quái như vậy, có phải cướp biển Nhật không đấy?”
An Long Nhi nhận ra đây là giọng của A Đồ cách cách, đồng thời cũng nghe thấy Sái Nguyệt đứng bên cạnh cô nàng.
A Đồ cách cách đã tiếp xúc nhiều với quân sự và võ học, cô biết động tác rung đao tưởng như nhỏ nhặt ấy của An Long Nhi gọi là chấn huyết, đây không phải cử động tùy tiện, mà là nghi thức rửa đao sau khi tiếp chiến trong kiếm đạo chính thống.
An Long Nhi lau sạch Lôi thích và Vô Minh, nhẹ nhàng cho lưỡi đao vào vỏ, buộc ra sau lưng mình, xoay người lại nói với A Đồ cách cách: “Võ thuật và vũ khí không có thiện ác, nhưng người gì thì cũng có kẻ xấu người tốt.”
A Đồ cách cách cũng rút trong bao ra một mũi tên, giơ đầu mũi tên lên trước miệng hà hơi, rồi dùng tay chà cho bóng lên, sau đó chớp chóp mắt, tinh nghịch nhìn An Long Nhi nói: “Đúng vậy, mũi tên này ở trong tay ta cũng là đồ tốt, giúp ngươi bán chết hai tên cường đạo đấy nhé.”
An Long Nhi thầm chấn động trong lòng, ánh mắt tinh nghịch này, rõ ràng khiến cậu nhớ đến Lục Kiều Kiều.
Sái Nguyệt cau mày, hai hàng lông mày thanh mảnh như chập lại một chỗ, cô lo láng hỏi: “Đám người ấy là cướp hả? Chúng ta có nên báo quan không?”
An Long Nhi chau mày không trả lời, chỉ có Cố Tư Văn cởi trần đứng bên cạnh kích động thốt lên:
“Vừa nhìn đã biết bọn chúng không phải cường đạo rồi, làm gì có cướp nào phục trong rừng tùng đợi người ta để cướp tiền giữa lúc mưa to gió lớn thế này chứ? Bọn người ấy là sát thủ, chính là muốn giết Long thiếu gia! Long thiếu gia, ngươi thành thực khai báo cho chúng ta biết, ngươi đã gây ra chuyện gì, ba năm không gặp ngươi đã đi đâu? Ngươi nhìn võ công của ngươi mà xem, cả mấy thứ binh khí này nữa, hả? Có phải người ta đến cướp thanh đao của ngươi không? Trên người ngươi có gì đáng tiền? Phải rồi, thằng tiểu tử nhà ngươi bị mất thứ gì, ngươi đang tìm cái gì?”
A Đồ cách cách đưa mắt đánh giá thân trên của Cố Tư Văn, ra vẻ nũng nịu nói: “Chà… thân hình ngươi cũng được lắm đó, ha ha ha.”
Cố Tư Văn lập tức dùng tấm áo ướt che trước ngực.
An Long Nhi lấy trên người ra một bọc giấy dầu, rút trong đó năm tờ ngân phiếu đưa cho Sái Nguyệt, rồi nói với ba người họ:
“Sự việc phức tạp lắm, ta chỉ có thể nói cho các ngươi chuyện này, các ngươi không thể tiếp tục ở đây được nữa; một là ta đã mang phiền phức đến liên lụy các ngươi, hai là Châu Giang có thể sẽ có lũ lớn, nhà các ngươi ở bên bờ sông, sẽ nhanh chóng bị nhấn chìm hoặc cuốn trôi, các ngươi phải lập tức dọn đi, đây là một thỉnh cầu của người làm huynh đệ như ta.”
“Ngươi còn coi bọn ta là huynh đệ nữa sao? Ta thấy ngươi càng lúc càng không có nghĩa khí rồi đó!” Cố Tư Văn vung tay ném chiếc áo ướt lên cây sào tre phơi đồ, chống nạnh tức tối nói: “Bọn chúng ta ở đây toàn là trẻ mồ côi, từ nhỏ đã ăn chung một bát ngủ chung một giường, có phúc cùng hưởng có nạn cùng gánh, à… con thỏ kia thì không tính…”
“Không tính cái gì, giờ ta cũng là trẻ mồ côi rồi!” Dường như A Đồ cách cách coi chuyện làm trẻ mồ côi là một việc rất hấp dẫn, hấp tấp chứng tỏ thân thế mới của mình, cũng hai tay chống nạnh lớn tiếng chen miệng vào.
“Câm miệng!” Cố Tư Văn nhắm mắt gầm lên như phát cuồng: “Kẻ mới đến cấm không được chõ miệng!”
Nhân lúc Cố Tư Văn nhám mắt, A Đồ cách cách vung tay giáng cho cậu ta một cái tát như trời giáng khiến họ Cố chỉ biết ôm nửa bên mặt bị đánh, há hốc miệng sững sờ nhìn cô nàng.
Trong lúc hai thế hệ trẻ mồ côi cũ và mới đang ẩu đả, Sái Nguyệt đi tới bên cạnh An Long Nhi nói: “Long ca, ta tin ngươi không bao giờ làm chuyện xấu, ngươi không nói cho chúng ta thì thôi, đằng nào nơi này cũng không thể ở được nữa. vả lại, ngươi xem chuyện vừa rồi đấy, ta cũng có thể giúp ngươi phần nào, ngươi đi đâu, làm gì, ta đều sẵn lòng đi cùng ngươi…”
“Ta cũng đi!” Cố Tư Văn lớn tiếng nói xong, giơ tay ra rút luôn năm lượng ngân phiếu trên tay An Long Nhi.
“Ta cũng muốn đi!” A Đồ cách cách vừa nghe Cố Tư Văn nói muốn đi, cũng không chịu tụt hậu.
An Long Nhi cố nén nỗi xúc động trong lòng, cười khổ lắc lắc đầu: “Đừng đi cùng ta, chết người đấy. Ta đi đây, mọi người bảo trọng.”
An Long Nhi đang định cất bước rời đi thì Cố Tư Văn thình lình nhảy phốc lên lưng, hai tay ôm rịt lấy tay cậu, đoạn quay đầu nói với Sái Nguyệt: “Mau thu dọn đồ đạc lên đường!”
An Long Nhi cõng Cố Tư Văn ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Sái Nguyệt và A Đồ cách cách đã lao vào trong nhà thu dọn hành lý, cậu thoáng nghĩ ngợi, rồi cất tiếng gọi hai người: “Mang thêm mấy tấm vải dầu, trận mưa này có thể sẽ kéo dài nhiều ngày đấy.”
Sái Nguyệt và A Đồ cách cách vừa nghe thấy An Long Nhi dặn dò, đều mừng rỡ lớn tiếng trả lời “được” rõ to. Cố Tư Văn cũng lập tức nhảy xuống, lao về phòng mình thu dọn đồ đac.
An Long Nhi đứng ngoài hành lang tiếp tục lớn tiếng cắt đặt: “Trên đường tất cả mọi việc đều do một mình ta sắp xếp, có kẻ nào không nghe lời là ta sẽ lén bỏ đi! Lát nữa ta về nhà trước thu dọn chút đồ đạc, sau đó sẽ cùng các ngươi từ đây ngồi thuyền qua sông đi Phật Sơn. Chúng ta sẽ đi một mạch về hướng Tây, có điều cũng không biết phải đi bao xa, có thể cứ đi như vậy mãi cũng không chừng. Cách cách đã có hai con ngựa rồi, nhưng sau khi qua sông, chúng ta còn phải mua thêm hai con nữa…”
Cố Tư Văn nói: “Ta bảo vệ ngươi về nhà, Mặt như trăng rầm và Thỏ con ở đây đợi chúng ta quay về.”
Ngay hôm ấy, bốn người đi về phía Tây qua sông, nghỉ một đêm ở Phương Thôn, sáng sớm hôm sau vừa thức dậy đã xuất phát đến thành Phật Sơn mua ngựa. An Long Nhi nói mua ở đây rẻ hơn ở Quảng Châu, sau một ngày bôn ba vất vả, rốt cuộc họ cũng đã sám sanh đủ các loại vật dụng cần thiết.
Mưa lớn không hề ngớt đi chút nào, bọn họ đội nón tre, khoác áo tơi vải dầu, thoạt nhìn qua không thể phân biệt được ai với ai, muốn nói chuyện cũng phải gào to lên mới được.
Đôi chân dài của Cố Tư Văn lắc la lác lư, cơ hồ quết đất, cậu ta cằn nhằn với An Long Nhi: “Không phải nói là ngựa sao? Sao bây giờ lại biến thành lừa thế này…”
“Quan phủ treo bảng vàng cấm chỉ bán ngựa, ở đây lại không có chợ đen, có lừa cưỡi đã là khá lắm rồi, lừa ăn ít mà lại khỏe, dễ nuôi.” An Long Nhi cưỡi trên lưng lừa, lắc lư trả lời Cố Tư Văn.
Cố Tư Văn nghi ngờ nhìn vẻ mặt thản nhiên của An Long Nhi: “Ngươi ham rẻ chứ gì?”
An Long Nhi nói: “Rẻ hơn được sáu phàn.”
A Đồ cách cách cưỡi trên lưng con ngựa nhỏ, nói với Cố Tư Văn: “Ngươi còn đòi cưỡi ngựa nữa, sắp ngã khỏi lưng lừa đến nơi rồi kia kìa, nếu mà cưỡi ngựa, chác ngươi ngã chết từ đời nào rồi ấy chứ.”
Cố Tư Văn ngẩng lên chửi: “Ngươi mới là cái đồ chẳng ra sao! Bỏ nhà ra đi mà lại chỉ dẫn theo có hai con ngựa lùn hồi nhỏ mắc bệnh nên giờ chẳng lớn nổi, lúc ta mới trông thấy còn tưởng là hai con la cơ đấy! Phì!”
“Ngươi thì hiểu cái rám gì, đây là ngựa Mông cổ thuần chủng tốt nhất thế gian này đấy, chạy giỏi mà lại khỏe, ăn rất ít mà cũng không hề kén chọn, có thể chạy nhanh lại có thể kéo xe lớn, chỉ có doanh trại Bát Kỳ mới có loại ngựa này thôi nhé, Lục doanh của người Hán có muốn chúng ta cũng chẳng cho.”
Câu trả lời chuyên nghiệp của A Đồ cách cách khiến Cố Tư Văn tức tối hậm hực ngoảnh đầu nhìn ra phía khác. Sái Nguyệt nghe cô nàng nói thế, cũng không kìm được bám vào cổ ngựa, nghiêng đầu nhìn xem mặt ngựa Mông cổ trông thế nào. Phía trên đôi mắt to long lanh của nó có cả hàng lông mi dài, trông có vẻ hiền lành và khôn ngoan, Sái Nguyệt cười cười, vươn tay ra vuốt ve mặt ngựa, đoạn nói với A Đồ cách cách:
“Cách cách, sao cô lại dẫn theo hai con ngựa đi vậy? Có phải sớm đã chuẩn bị cùng chúng ta xông pha giang hồ không?”
A Đồ cách cách đầy tự hào nói: “Người Mãn chúng ta sở trường nhất là cưỡi ngựa tác chiến, tập kích đường xa, khi chiến đấu thực sự, mỗi binh sĩ đều mang theo ít nhất hai con ngựa, như vậy có thể cưỡi luân phiên, ngựa không mệt thì chạy mới xa được.”
An Long Nhi bật cười nói: “Ha ha, xem chừng cô đúng là định tập kích đường dài chứ không có ý quay về nhà rồi.”
Vừa đi vừa nói chuyện, họ tới bên bờ một con sông lớn, bốn người trông thấy dòng nước lũ vàng đục đang cuồn cuộn dâng trào, cuốn theo rất nhiều đồ lặt vặt và xác các loài động vật, xem chừng trên thượng du đang có lũ lớn.
Sái Nguyệt hỏi An Long Nhi: “Thượng du xem ra rất nguy hiểm, ngươi định đi hướng đó à?”
An Long Nhi quan sát nước lũ dưới sông, rồi lại ngẩng đầu nhìn về phía Tây, bầu không phương ấy vẫn sáng bừng lên kỳ dị, cậu nói: “Ta vẫn chưa biết, ta muốn tìm đến ngọn nguồn của mưa lớn và nước lũ. Chúng ta cần phải đi trên chỗ mặt đất có đá ấy, từ giờ trở đi bắt đầu xếp hàng một, ta đi trước dẫn đường.”
Đường đi tiếp về phía Tây quả nhiên càng lúc càng thêm khó đi, mỗi lúc một nhiều những khe rãnh và hầm hố do nước lũ xối qua tạo thành, cả bọn thường xuyên phải xuống ngựa xắn quàn, người ngựa đỡ lẫn nhau mới có thể tiếp tục đi về phía trước.
Quãng đường có mấy chục dặm mà họ đi mất trọn một ngày, buổi tối đến được một thị trấn nhỏ nghỉ ngơi, người nào người nấy đều mệt đến nỗi chỉ biết lăn quay ra ngủ, sau khi thức giấc lại vội vã lên đường. Trên đường, mấy người đã chẳng còn sức đâu mà nói chuyện nữa, chỉ có A Đồ cách cách là làu bàu oán trách, nhưng những lời cô nàng nói đều là suy nghĩ trong lòng cả bọn, dẫu có khó nghe nhưng cũng không ai ngăn lại.
Đi đến hết đường, trước mặt họ là một vùng nước trải dài vô tận, một nửa của vùng nước gần với bọn họ có màu xanh, nửa phía xa lại là màu vàng, A Đồ cách cách cưỡi trên lưng ngựa nghển cổ nhìn sang bờ bến mờ mịt phía bên kia: “Đây là biển hả?”
“Không phải biển, nơi này là ngã ba sông.” Cố Tư Văn ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt, nhưng vẫn trả lời: “Hồi không có nước lớn ta từng đi qua, Tây Giang và Bắc Giang hội hợp ở đây, ở giữa vùng nước mênh mông này vốn có đảo nhỏ và ruộng đồng, bên trên còn có cả thôn làng, giờ thì tất cả đều bị nhấn chìm rồi…”
An Long Nhi lấy la kinh trong hành lý ra đo đạc, ba người bạn đồng hành tò mò xúm lại xem, nhưng trên mặt la kinh chi chít toàn chữ là chữ, rõ ràng không phải thứ cắm mặt vào nhìn mà hiểu được. Sái Nguyệt nói với vẻ sùng bái: “Long ca, ngươi hiểu được loại la kinh phong thủy phức tạp thế này kia à, thật là lợi hại quá!”
“Ha ha, ta chỉ xác định phương hướng một chút thôi.” Ngay sau đó, An Long Nhi lại nghiêm sác mặt nói: “Vùng nước lớn này không nhìn thấy bến bờ đâu cả, nhưng vẫn có thể phân rõ nước của hai dòng sông; nước chảy từ thượng du Bắc Giang xuống là màu xanh bình thường, dòng nước cũng bình thường; nhưng các ngươi hãy nhìn chỗ xa nhất phía Tây kia xem, nước ở đó toàn là màu vàng, vả lại còn chảy xiết, sóng to cuồn cuộn, ngọn nguồn của cơn lũ hẳn là Tây Giang. Giờ thế nước lớn như vậy, ngôi làng giữa sông đã bị lũ nhấn chìm cả rồi, mấy chục dặm quanh đây chác chắn chẳng có ai dám đưa chúng ta qua sông. Chúng ta cần qua sông trên thượng du sông Bắc Giang, ở đó thế nước bình lặng hơn, sau đó đi tiếp xuống phía Nam để quay về lưu vực Tây Giang, xuất phát!”
Bọn họ theo kế hoạch của An Long Nhi, đi vòng một ngày, men theo bờ đối diện của Bắc Giang nhanh chóng đi xuống phía Nam trong cơn mưa tầm tã, An Long Nhi cũng bắt đầu quan sát tỉ mỉ từng gò núi, từng ngọn đồi.
Lúc ở bên bờ đầm Bạch Nga ở Quảng Châu, An Long Nhi đã ý thức được cơn gió Tây giữa tháng Sáu này không chỉ là một cơn bão tàm thường, bởi lẽ bão ở Quảng Đông chỉ đến từ vùng duyên hải phía Đông và phía Nam. Cơn gió quái lạ này lại kèm theo địa chấn nhỏ, điều này khiến An Long Nhi lập tức liên tưởng đến cuộc đại chiến phong thủy ở đỉnh núi Phù Dung mấy năm trước. Ngày hôm ấy, gió nổi mây cồn, đất động núi lay, chẳng phải cũng giống như hôm nay sao? Cơn gió Tây không hợp thời tiết này không phải do khí hậu thay đổi, mà rất có khả năng là do long mạch đang động.
Trong kỳ vọng của An Long Nhi, An Thanh Nguyên chỉ có được bí kíp Trảm long quyết, muốn trảm sát được long mạch cần phải có Lôi thích trên tay cậu, cùng với đạo pháp Long quyết truyền miệng, chỉ cần Lôi thích còn trên tay, cậu sẽ được an toàn, đồng thời An Thanh Nguyên cũng sẽ dốc hết toàn lực tìm kiếm cậu. Thế nhưng, mấy năm nay, An Thanh Nguyên lại biến mất không thấy tăm tích.
Khi An Long Nhi ở phủ Thiên Sư, bảo rằng An Thanh Nguyên kiêng dè thực lực của Thiên Sư, không dám làm xằng thì cũng miễn cưỡng chấp nhận được, nhưng giờ An Long Nhi đã đến Quảng Châu, chủ động để lộ mình trước mắt tất cả mọi người, sau khi dị tượng động đất và mưa lớn xuất hiện, thứ chờ đón cậu lại không phải là bát bớ, uy hiếp, dụ dỗ, mà là một trận chém giết, trực tiếp muốn lấy mạng mình, chính điều này đã khiến An Long Nhi thay đổi suy nghĩ.
Hai sự kiện này chứng tỏ có người đang phá hoại long mạch trên quy mô lớn xưa nay chưa từng có, đồng thời, đối phương không thể chấp nhận người có năng lực trảm sát long mạch như An Long Nhi tồn tại trên đời này, có kẻ muốn cậu chết.
An Long Nhi học đạo ở phủ Thiên Sư ba năm, mặc dù huyền học, đạo học và võ công đều tăng tiến nhanh chóng, nhưng dẫu sao, bí kíp Trảm long quyết ghi chép lại tử huyệt của các loại long mạch đã bị An Thanh Nguyên cướp đi. Bản thân cậu có năng lực trảm sát long mạch, nhưng lại không thể dựa theo bản đồ mà tìm được chuẩn xác địa điểm để ra tay.
Cậu ngay lập tức tìm đến long mạch bị phá hoại, một là dốc sức cứu viện kịp thời, hai là cũng thực lòng hy vọng có thể gặp được An Thanh Nguyên, chỉ gặp được y, chuyện này mới có thể rõ ràng chân tướng.
Khi họ đến ven bờ Tây Giang, chỉ thấy cảnh tượng còn thê thảm hơn lúc ban đầu trông thấy bội phần. Dọc đường, dân chạy nạn bỏ chạy gào khóc trong mưa, dưới sông nước đục cuồn cuộn, trên đường toàn những cảnh tiêu điều tan hoang, lắm nhà dân chỉ còn lộ ra mỗi cái nóc trên mặt nước, thi thoảng lại có xác chết trôi nổi giữa cơn sóng.
Phía trước đã không còn đất bằng để đi nữa, toàn bộ đều ngập trong nước, bọn họ chỉ có thể đi trên những con dốc dưới chân ngọn núi lớn. Giữa lòng sông xuất hiện một ngọn núi nhỏ, bên bờ đối diện là một dải núi lớn, An Long Nhi hơi nheo mắt quan sát cẩn thận, nơi này là huyệt kết long mạch đầu tiên họ gặp từ khi sang phía Tây Giang này, đi lên ngọn núi phía sau lưng bọn họ là sẽ đến nơi long mạch ngẩng đầu,ở vùng phụ cận ắt hẳn phải có ấp lớn đông xưởng nghề và cửa hàng buôn bán. Có điều, thành thị nằm bên bờ sông Tây Giang này, khi gặp họa chỉ càng thêm thê thảm.
An Long Nhi nói với cả bọn: “Nơi này có thể chính là nơi ta muốn tìm, địa hình này gọi là băng hồng quá hiệp, vốn dĩ là một nơi phong thủy rất đẹp. Chúng ta cần phải lên trên cao xem xét tình hình xung quanh, chốc nữa Tiểu Nguyệt hãy hỏi người trong vùng xem đất này tên là gì, mọi người đi trên đường núi phải đi chầm chậm thôi, người này bám người kia, không được tùy tiện kêu la ầm ĩ, khiến lũ ngựa hoảng lên là nguy hiểm lắm đấy.”
Cả bọn do An Long Nhi dẫn đầu, dò dẫm từng bước đi lên núi. Trên sườn núi cao hơn một chút, bốn người gặp một đám đông dân chạy nạn đang dựng lều hạ trại, Tiểu Nguyệt bước tới tìm hiểu tình hình rồi quay trở lại nói, nơi này thuộc địa phận phủ Triệu Khánh, ngọn núi cao này tên là núi Đỉnh Hồ, từ đây nhìn xuống dưới, ngọn núi nhỏ ngập trong dòng nước Tây Giang tên là núi Linh Dương, giữa chân núi này và núi Linh Dương vốn là vạn mẫu ruộng tốt, giờ tất cả đều đã bị lũ lớn nhấn chìm rồi. Dòng sông phía ngoài núi Linh Dương mới là Tây Giang thực sự, phía ngoài sông Tây Giang là núi Bút Giá, đoạn sông Tây Giang này bị núi Linh Dương và núi Bút Giá kẹp vào giữa, gọi là hẻm Linh Dương.
A Đồ cách cách mấy ngày nay phải dầm mình trong cơn mưa lớn, vốn đã oán than rầm rĩ, giờ lại phải đi đường nhỏ lên núi cao, cô nàng càng không cam lòng, bèn nói với An Long Nhi: “Ngươi lên trên đó làm gì vậy? Lên lâu không? Hay là ta ở dưới này đợi các ngươi xuống nhé… cứu mạng với, ta mệt quá rồi…”
An Long Nhi nói: “Lẽ ra trời mưa thì không nên lên núi, ngộ nhỡ núi lở hoặc ngựa trượt chân xuống đều rất nguy hiểm; nhưng dưới núi đang có lũ lớn, vừa nãy cô cũng thấy rồi đó, dưới kia còn có dân chạy nạn, trong đám nạn dân ấy không biết có kẻ xấu nào trà trộn hay không, nếu để lại cô một mình ta càng không yên tâm được. Hay là thế này, lát nữa ta sẽ tìm chỗ đất bằng, ba người dựng một căn lều đợi ta trở lại, một mình ta lên núi là được rồi.”
“Không, ta và ngươi cùng đi, vô văn hóa và cách cách ở đây dựng lều đi.” Sái Nguyệt lập tức nói rõ lập trường của mình.
Cố Tư Văn làm ra vẻ khinh khỉnh bất cần đời nói: “Một chút mưa này thì có đáng gì chứ, người anh em này hai mạng sườn cắm hai thanh đao cũng sẽ theo ngươi lên núi, để con thỏ con kia tự đi mà dựng lều.”
“Hu hu… các ngươi kết bè lại ăn hiếp ta!” A Đồ cách cách khóc lóc xịu mặt thúc ngựa bám theo cả bọn.
Cố Tư Văn giục lừa tiến lại gần An Long Nhi hỏi: “Long thiếu gia, lên núi xem xong rồi đi hả?”
“Cũng chưa chắc, có thể xem xong rồi mới bắt đầu có chuyện để làm.” “Chuyện gì mà thần bí thế?”
“Bình thường thì ta sẽ không nói cho ngươi.”
Cố Tư Văn lại hỏi: “Chúng ta đi lên như vậy liệu có chuyện gì nguy hiểm không?”
“Có thể là có, ở Quảng Châu đã gặp sát thủ, nơi này cũng có khả năng đụng độ thích khách, vì vậy ta đã nghĩ kỹ rồi, lát nữa có chỗ nào thích hợp dựng lều cám trại, các ngươi hãy dựng một căn lều mà nghỉ lại, một mình ta lên núi thôi.”
“Không được!”
“Các ngươi không nghe ta sắp xếp, ta sẽ bỏ trốn.” An Long Nhi nói như chém đinh chặt sắt.
Đi qua một chỗ ngoặt, cả bọn trông thấy một khoảnh đất trống tương đối bằng phẳng, từ đây có thể nhìn thấy không gian dưới chân núi trải rộng hơn nữa. An Long Nhi dẫn theo ba người còn lại nhanh chóng trải vải dầu dựng lều nhóm lửa. Cố Tư Văn bận tíu tít, An Long Nhi thấy cậu ta thường ngày hay ăn to nói lớn, không ngờ làm những việc lặt vặt này cũng rất nhanh nhẹn. A Đồ cách cách cứ lẵng nhẵng theo sau Cố Tư Văn, hệt như cái đuôi của họ Cố vậy. Sái Nguyệt nói với An Long Nhi, thường ngày Cố Tư Văn cũng hay làm việc nhà, chặt củi gánh nước đều rất thành thạo, cứ để cậu ta làm một mình là được rồi.
Sái Nguyệt đứng ở rìa ngoài khu đất bằng, từ đây nhìn xuống, có thể trông rõ hẻm Linh Dương trên dòng Tây Giang, cũng có thể nhìn thấy núi Bút Giá ở phía xa, đúng là dáng núi vừa thẳng vừa dài, tựa hồ một chiếc bút lông khổng lồ dài mấy chục dặm gác trên mặt đất, cô hỏi: “Long ca, vừa nãy ngươi nói nơi này phong thủy đẹp, sao ta nhìn mãi cũng chẳng thấy có gì đẹp vậy? Toàn là núi non sông nước, có gì khác biệt đâu chứ?”
An Long Nhi cũng đi tới chỗ mép núi quan sát, cậu chỉ tay xuống dưới nói: “Chúng ta đang đứng trên núi Đỉnh Hồ, giữa chỗ này và núi Linh Dương mặc dù có ruộng đồng ngăn cách không nối liền với nhau, nhưng khoảng cách và tính chất của đất đá thổ nhưỡng, độ cao và dáng núi lại vẫn liền kề tiếp nối, thế núi hình đoạn mà khí không đoạn này gọi là quá hiệp tức là qua khe; mà núi Linh Dương cùng núi Bút Giá tuy cách nhau một dòng Tây Giang, hình thành nên hẻm Linh Dương, nhưng ngươi nhìn kỹ mà xem, núi Linh Dương và núi Bút Giá kỳ thực có chiều cao và chiều rộng tương đương, vốn dĩ là một, chỉ là thế núi chìm xuống sông Tây Giang mà thôi, đây gọi làbăng hồng quá hiệp. Trước khi long mạch kết huyệt nếu không đi qua chỗ quá hiệpthắt họng lại, thì phong cảnh nơi kết long huyệt có đẹp mấy cũng không thể thành chân long được, chỗ thắt càng nhỏ càng chật hẹp, càng không nhìn rõ được hình tích, thì long huyệt kết ra lại càng mạnh.”
“ừm, chẳng trách vừa nãy ngươi lại nói chỗ này có phong thủy đẹp.” Sái Nguyệt nói.
“Vùng đất được gọi là phong thủy đẹp phải thỏa mãn rất nhiều điều kiện, nhưng long mạch qua khe có thể coi là một trong những yếu tố chủ yếu, chỉ có chân long mạch thì mới qua khe, mà chỉ có sau khi qua khe, long mạch mới có thể sinh ra long huyệt thực sự được.”
Cố Tư Văn ở đằng sau lên tiếng hỏi: “Ta ở dưới quê cũng gặp một số ông thầy phong thủy, đến một khu đất xem xong liền bảo là chỗ tốt, rồi nhanh chóng chỉ ra huyệt vị, nhận lấy tiền công, mà không hề chạy đến chỗ quá hiệp để chứng minh cái huyệt ấy là thật hay giả. Loại ấy là quân lường gạt đúng không?”
An Long Nhi bật cười nói: “Ngươi là Tiểu Thần Tiên cơ mà, người ta có phải quân bịp bợm hay không, ngươi không phân biệt được chắc?”
“Đừng thế nữa mà, mau nói cho ta biết đi.”
“Những thầy phong thủy không lên núi nhìn long mạch ấy, có một số kẻ không hiểu biết gì cả, hoàn toàn là bịp bợm; nhưng cũng có một số là thầy phong thủy già ở địa phương, bọn họ sớm đã quan sát thế cục phong thủy từ lâu, nắm rất rõ địa lý và hình thế núi sông ở khu vực phụ cận, những người như thế thì không cần phải lên núi xem lại lần nữa làm gì. Vậy nên ta cũng không thể nói là thật hay giả được, nếu ngươi không hiểu phong thủy thì cũng chỉ có cách tin người ta thôi.”
An Long Nhi nói đến chuyện phong thủy, làm A Đồ cách cách cũng bị thu hút tới, cô nàng nghe xong bèn ra bộ am hiểu, nói: “Chậc, thì ra là thế đấy.”
An Long Nhi thấy chiếc lều đơn giản đã dựng xong, bèn nói với mọi người: “Chuẩn bị tốt binh khí để đề phòng vạn nhất, nếu mãi không thấy ta trở về, các ngươi hãy ở đây một đêm, khi trời sáng thì theo đường cũ trở về Quảng Châu. Đừng đợi ta, cũng đừng tới phủ Triệu Khánh, nhìn thế nước ở đây, phủ Triệu Khánh có thể cũng đang có lũ lớn, có đến đấy cũng chẳng có chỗ nào đặt chân đâu.”
“Có thế thôi à?” Cố Tư Văn hoang mang hỏi: “Hay là qua hai canh giờ mà ngươi không quay lại, chúng ta sẽ đi tìm ngươi nhé?”
“Không cần, cứ quyết định như vậy đi.” An Long Nhi nói đoạn liền tung mình nhảy lên lưng lừa, chạy lên núi.
Sái Nguyệt rút thanh trường đao của A Đồ cách cách để bên trong lều ra, nói với Cố Tư Văn: “Ta lên núi với Long ca, có chuyện gì ta có thể chạy xuống gọi các ngươi, ngươi ở đây để ý cách cách nhé.”
Cố Tư Văn lập tức đứng bật dậy: “Ta cũng đi…”
“Không được, A Đồ cách cách là con gái, một thân một mình ở đây rất nguy hiểm, vả lại, nếu chúng ta có gặp nguy thì cũng cần có tiếp viện nữa, các ngươi cứ trông chừng ở đây… nếu ta không quay về…”
Cố Tư Văn nghe Sái Nguyệt nói tới đây, mất hết kiên nhẫn ngắt lời: “Được rồi, được rồi, các ngươi không quay lại thì chúng ta về Quảng Châu lấy nhau rồi đẻ mấy đứa con, đi nhanh đi.”
Chỉ có một con đường duy nhất dẫn lên núi, Sái Nguyệt cưỡi ngựa Mông cổ nhanh chóng đuổi theo, thoáng sau đã có thể nhìn thấy bóng lưng An Long Nhi trên con đường núi ngoằn ngoèo.
Sắc trời đột nhiên sáng bừng, trên bầu không ngoài tiếng mưa còn lẫn cả tiếng sấm ì ùng, chốc chốc lại vẳng lên tiếng sét đùng đoàng, Sái Nguyệt phát hiện xung quanh không có rừng cây gì, bản thân đang cưỡi ngựa chạy trên đỉnh núi trọc. Cô tăng tốc chạy về phía trước, liền trông thấy An Long Nhi đang đủng đỉnh cưỡi lừa đi chẳng nhanh cũng chẳng chậm, bốn năm gã đàn ông ngã lăn lộn hai bên đường đang ôm vết thương rên rỉ, dưới đất rải rác binh khí của bọn chúng, có thể thấy bọn này vừa mới tập kích An Long Nhi và bị cậu phản kích mạnh mẽ.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy, trong lòng Sái Nguyệt không hề sợ hãi, ngược lại còn có chút cao hứng. Đối thủ của An Long Nhi càng sớm xuất hiện, bọn họ càng nhanh chóng có được kết quả. Cô không lớn tiếng gọi, chỉ lẳng lặng thúc ngựa đuổi theo An Long Nhi rồi đi song song bên cạnh cậu, An Long Nhi ngoảnh đầu nhìn cô, cũng không nói không rằng, chỉ kẹp chặt bụng lừa, tăng tốc tiến lên, thái độ này của cậu khiến Sái Nguyệt hết sức hoan hỉ trong lòng.
Họ đi được chừng nửa dặm đường, tiếng sấm sét càng lúc càng gàn hơn. Hai người kinh ngạc phát hiện ra một cảnh tượng kỳ lạ, trên đỉnh núi không ngờ lại có một cái hồ, nước hồ đã đầy tràn, tụ thành mấy con lũ quét từ ven hồ xối thẳng xuống chân núi; trên mặt hồ có một tầng mây xám đen dày đặc hạ xuống rất thấp, cuộn lên như nồi cháo đang đun sôi ùng ục, giữa tầng mây và nước hồ có mấy cơn lốc nhỏ đang cần quét xung quanh một cách dữ dội và không theo phương hướng gì, tựa hồ không ngừng hút nước hồ vào trong quầng mây.
An Long Nhi dang tay ngăn Sái Nguyệt lại, cẩn trọng quan sát cảnh vật bốn phía xung quanh.
Nước ở giữa hồ đột nhiên sôi trào mãnh liệt, trong nước hiện ra một bình đài bằng gỗ nổi trên mặt hồ, trên bình đài có vẽ Bát quái đồ, xung quanh có tám đứa trẻ chưa đầy mười tuổi đang đứng yên bất động, làn lượt chiếm tám cung vị của Bát quái. Bọn chúng đứa nào đứa nấy sắc mặt tái nhợt, không nhúc nhích gì, đứng dưới làn sấm chớp ầm ầm cũng không hề có dấu hiệu kinh hoảng né tránh, khiến người ta có cảm giác bọn trẻ con ấy chỉ là hình nhân bằng gỗ.
Bên hồ chợt xuất hiện một con thuyền nhỏ, trên con thuyền ấy có một người đàn ông cầm ô đang đứng, người này thân hình cao lớn, mặc áo dài màu xanh sẫm, đầu đội mũ lụa đen, tuy không nhìn rõ mặt mũi, nhưng thoáng lướt qua vóc hình khí chất cũng có thể nhận ra phong thái nho nhã. Phía sau, người lái thuyền đang ngồi dùng một chiếc mái chèo ngắn chuyên dụng cho thuyền rồng, chàm chậm khua nước, nhưng con thuyền lại lướt về phía tâm hồ với vận tốc rất nhanh.
Khi người đàn ông kia đặt chân lên bình đài, An Long Nhi lập tức khẳng định y chính là An Thanh Nguyên.
An Thanh Nguyên vẫy tay với An Long Nhi, cậu liền bảo Sái Nguyệt: “Ngươi quay về hội hợp với bọn họ, đừng để hai người ấy phải lo lắng, lát nữa ta sẽ quay lại.”
Nói dứt lời, cậu tung mình nhảy xuống khỏi lưng lừa, cả người như một viên đạn pháo tách đôi mặt nước, xông qua sấm sét và lốc xoáy, chạy thẳng lên bình đài ở giữa hồ. Mấy năm trước, khi thấy Tôn Tồn Chân giở ra chiêu Thủy thượng phiêu này, cậu và Jack từng trợn mắt há hốc miệng ngạc nhiên, còn giờ đây, sau khi tu luyện ở phủ Thiên Sư, An Long Nhi cũng đã có thể đạp nước như trên đất bằng. Một chiêu này, cùng lúc nhận được tràng vỗ tay từ phía Sái Nguyệt và An Thanh Nguyên.
An Long Nhi nhẹ nhàng bước lên bình đài ở giữa hồ, quay đầu nhìn Sái Nguyệt đứng ven bờ. Sái Nguyệt vẫy tay chào cậu, rồi quất ngựa xuống núi. An Thanh Nguyên tay cầm ô, miệng mỉm cười nhìn An Long Nhi đang khoác áo tơi, hỏi: “Long Nhi đã cao như vậy rồi, kia là tiểu tình nhân của cậu à?”
An Long Nhi chắp tay chào An Thanh Nguyên: “An đại thúc, lâu nay vẫn khỏe chứ?”
An Thanh Nguyên ngửa mặt cười dài nói: “Ha ha ha, càng lúc cậu lại càng ra bộ nho nhã rồi đấy.”
An Long Nhi chắp tay với người lái thuyền, nói một tiếng: “Xin chào,” đoạn đưa mắt nhìn tám đứa trẻ ở xung quanh. Cậu ngạc nhiên phát hiện ra trong tám đứa trẻ này có bốn nam bốn nữ, đứa nào cũng ăn mặc hoa lệ, hai mắt nhắm nghiền, nơi gáy có một vết thương rất sâu. Đây là tám đứa trẻ đã chết bị người ta cắm vào cọc gỗ, máu bị rút hết sạch, thi thể bắt đầu trương lên.
An Long Nhi lộ vẻ kinh hãi hỏi An Thanh Nguyên: “Lũ trẻ này là thế nào? Nơi này đang xảy ra chuyện gì?”
“Cậu thực sự không biết nơi này đang xảy ra chuyện gì sao?” An Thanh Nguyên nở một nụ cười như xưa nay vẫn thế, nói: “À, phải rồi, cậu vẫn chưa có thời gian xem Trảm long quyết, với kiến thức phong thủy Dương Công của cậu, không thể hiểu nổi Thiên trì này là nơi nào cũng phải thôi.”
“Ông đang dùng Trảm long quyết trảm long?” An Long Nhi sớm đã đoán ra khả năng này, nhưng cậu vẫn không thể tưởng tượng nổi An Thanh Nguyên làm sao có thể sử dụng được Trảm long quyết, sau khi dùng xong, sẽ có kết quả như thế nào.
“Cậu không ngờ ta có thể trảm long đúng không? Hà hà…” An Thanh Nguyên khẽ bật cười, trong tiếng cười của y, có thể nhận thấy cảm giác thành công, đồng thời cũng nghe ra được nỗi bi thương u uất, y nghiêng đầu nhìn túi vải bố dài đeo sau lưng An Long Nhi: “Kia là cây gậy cậu lấy được ở phủ Thiên Sư chứ gì?”
An Long Nhi lùi lại nửa bước, nhìn An Thanh Nguyên với ánh mắt cảnh giác, cũng không trả lời câu hỏi của y. Trong lời nói của An Thanh Nguyên, cậu cảm nhận được tà khí mạnh mẽ, trực giác mách bảo cậu, An Thanh Nguyên đã không còn là vị quốc sư vì hoài bão của mình mà phải đau khổ dằn vặt với các lựa chọn ba năm trước nữa rồi.
An Thanh Nguyên trông thấy phản ứng của An Long Nhi, chỉ lắc đầu thở dài nói: “Chậc, Long Nhi à, cậu đến đây làm gì? Muốn lấy lại Trảm long quyết sao?”
“Đúng, tôi muốn lấy lại Trảm long quyết.”
An Thanh Nguyên lấy tay gõ gõ lên đầu mình, nói: “Đều ở đây cả, cậu không lấy lại được nữa đâu.”
“Sách đâu rồi?”
An Thanh Nguyên bình tĩnh nói: “Đốt rồi, dưới gầm trời này từ nay không còn quyển sách nào tên là Trảm long quyết nữa, cũng không còn người nào khác biết trảm long.”
Quả tim An Long Nhi trầm xuống, mặc dù có thể An Thanh Nguyên đang nói dối, nhưng cũng hoàn toàn có khả năng y nói thật, với học thức và trí tuệ của An Thanh Nguyên, muốn học thuộc lòng một quyển sách, để rồi sau khi hoàn toàn lý giải được, viết ra một quyển sách còn hay hơn cũng không có gì là lạ.
An Thanh Nguyên không phải hạng người chịu đầu hàng khi bị đánh bại hoặc bị đem cái chết ra uy hiếp, y đã nói không giao ra Trảm long quyết, dù có dùng phương pháp gì cũng không thể khiến y thay đổi được. Trảm long quyết sẽ không xuất hiện nữa, An Long Nhi có một thân đạo pháp có thể trảm long, nhưng lại không thể tìm được tử huyệt của long mạch, sự việc cậu chờ đợi ba năm đã không xảy ra, vậy thì cậu đứng ở đây còn có thể làm được gì nữa? Cậu hỏi An Thanh Nguyên:
“Cái đài bằng gỗ này dùng để làm gì?”
“Trảm long.”
“Ông đã trảm sát long mạch ở đây rồi ư?”
‘ăm dặm sẽ không có khí thiên ti.h đế đô.”
“Lũ trẻ này đều do ông sát hại?”
“Đúng, long huyệt ở núi Bút Giá phía saubăng hòng quá hiệp sẽ không thể xuất hiện hậu nhân làm hoàng đế được nữa; một trăm dặm quanh đây, sẽ không có kẻ nào mưu đồ phản nghịch; chỉ cần trảm hết cửu long, Quảng Châu và các đại minh đường trong vòng ba trăm dặm sẽ không có khí thiên tử nữa, Quảng Châu cũng vĩnh viễn không bao giờ trở thành đế đô.
“Đúng vậy… ba năm nay ta vùi đầu nghiên cứu vô số phương thuật khác nhau, tóc trên đầu bạc đi không ít mới tìm ra được phương pháp trảm long, hiện giờ rốt cuộc đã thành công rồi. Thực ra, cậu đến được đây ta cũng rất lấy làm cao hứng, nhà họ An chúng ta đã phải trả giá quá nhiều vì Long quyết, hôm nay cuối cùng cũng có chút thành tựu rồi. Ta rất muốn để cậu chứng kiến uy lực của Trảm long quyết, nếu cha ta và Tiểu Như cũng có thể đến xem thì tốt quá rồi…”
An Thanh Nguyên nói xong liền đi tới trước mặt thi thể một đứa bé gái, đưa tay nhẹ nhàng vuốt tóc nó, cái xác dưới sự thao túng của y yếu ớt lắc lư cần cổ và đầu lâu, vết thương không có máu trên gáy bị lay lắc làm lộ cả da thịt, nhìn y làm vậy, An Long Nhi thấy tởm lợm chỉ muốn nôn mửa, cậu hét lên trong mưa gió: “Cho dù ông muốn trảm long, cũng không thể giết lũ trẻ con được!”
“Chết một người, sống mười người, chết mười người, sống vạn người… bọn chúng không chết, thiên hạ làm sao thái bình được.” An Thanh Nguyên vừa nói, vừa cảm thán vỗ vỗ vai đứa bé gái.
“Thả nó ra! Giờ tôi đã hiểu tại sao cô Kiều căm ghét ông như thế, ông là kẻ để đạt được mục đích có thể bất chấp thủ đoạn. Dọc đường tôi tới đây, dưới sông nổi đày xác người chết, khắp núi non rặt những dân chạy nạn không có nhà mà về, ông làm vậy căn bản không phải đang cứu vớt thiên hạ, mà là đang tàn sát!”
“Đến giờ cậu vẫn chưa hiểu ta sao?” An Thanh Nguyên chau mày nhìn An Long Nhi nói:
“Gần nghìn năm nay mỗi lần thay triều đổi đại, người chết đều phải tính bằng con số nghìn vạn, đám người này chết rồi thì sao? Ngoài thay một hoàng đế khác ra thì có gì thay đổi đâu? Trời không đổi đất không đổi, quan chế không đổi, dân phong cũng không đổi, ngay cả luật Đại Thanh hiện nay cũng là sao chép từ luật Đại Minh triều trước, cậu nói xem, có tạo phản nữa thì có thể phản ra cái gì? Pháp chế của triều đình Đại Thanh đã chín muồi, cơ cấu vận hành đã hoàn chỉnh, chỉ cần nội bộ cải cách một chút, mạnh dạn thúc đấy giao thiệp với nước ngoài là có thể trở thành một triều đình mạnh mẽ. Để một triều đình đã có cơ sở thay đổi cho tốt, hay dùng một triều đình còn non yếu thay thế Đại Thanh, lại phải mài giũa thêm mấy trăm năm, phương pháp nào tốt hơn đây? Để một hoàng triều bình yên quá độ theo trào lưu của thế giới, dân chúng mới có thể trả cái giá thấp nhất mà được an cư lạc nghiệp, nhìn thấy quốc gia này lớn mạnh.
Lũ lụt dưới núi là do ta gây nên sao? Long mạch bị trảm long khí, tự nhiên phải vùng vẫy quằn quại, dẫn đến lũ lụt bạo phát, mà lượng nước khổng lồ chính là bản chất của hai long mạch hai bên bờ Tây Giang. Thuộc tính ngũ hành của mỗi long mạch mỗi khác, sức mạnh ngũ hành mỗi mùa cũng khác nhau, nếu ta trảm long vào mùa đông, sẽ dẫn đến giá lạnh kéo dài, tuyết phủ đầy trời, cậu nói xem sẽ chết nhiều người hơn hay ít người hơn? Khí số Đại Thanh đã tận, trảm nghịch long thành ra việc làm trái ý trời, nhưng trái với ý trời mà lại thuận lòng dân, Long Nhi, cậu không muốn thử dùng sức mạnh của chúng ta để cứu vớt thiên hạ thương sinh sao?”
An Long Nhi đã đến tuổi có thể hiểu được những lời An Thanh Nguyên nói, nhưng cậu không hề đồng tình với y, cậu lại lùi thêm một bước, ngẩng đầu nhìn An Thanh Nguyên đáp:
“Tôi không biết nói những lý lẽ lớn lao, nhưng giờ thiên hạ vẫn còn chưa đại loạn, tôi chỉ thấy ông đang vô duyên vô cớ trảm sát long mạch, lại cũng giết vô số người vô tội, chỉ xét riêng tám đứa trẻ chết ở nơi này thôi, tôi cũng không bao giờ giúp ông rồi.”
An Thanh Nguyên vẫn thành khẩn nói: “Long Nhi à, người mà cậu giết còn ít chắc? Ta phái tám người đến Quảng Châu, bị cậu giết mất bảy, vừa nãy lên núi, chắc cậu cũng giết mấy tên canh chừng đỉnh núi rồi đúng không? Bọn họ không có cha mẹ sao? Cậu mười mấy tuổi đầu đã giết người như ngóe, là một tên cường đạo phạm vào tội chết, nhưng cậu lại không cảm thấy mình có tội, là vì tất cả mọi chuyện đều có nguyên nhân, cậu có nỗi khổ trong lòng mà, ta đây há chẳng có nỗi khổ trong lòng hay sao? Thế giới này chính là như thế đấy, có một số chuyện buộc người ta phải trả giá.”
“Tại sao ông phái người đi giết tôi?” An Long Nhi rất muốn biết liệu mình có đoán được tâm tư của An Thanh Nguyên hay không.
An Thanh Nguyên nói:
“Sau khi giành được Trảm long quyết, ta phát hiện dựa theo sách chỉ có thể tìm được tử huyệt của long mạch mà không thể trảm long, ta liền hiểu ra mình đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Vì lúc ở phủ Thiên Sư, Trương thiên sư thà để ta lấy đi Trảm long quyết cũng phải giữ cậu lại, điều này chứng tỏ cậu còn quan trọng hơn cả quyển sách đó, cậu mới là mấu chốt để trảm long. Khi ta ngộ ra điểm này, lẽ ra nên lập tức phát binh phong tỏa phủ Thiên Sư bắt cậu trở về, nhưng vì trảm long thất bại mà triều đình đã biếm ta làm thứ dân. Trong tay không còn binh quyền, ta không thể bày kế vây bắt được nữa, với sức một mình ta, cũng không thể nào đến phủ Thiên Sư đòi người, vì vậy ta chỉ còn cách đợi câu xuất hiên.
Bị động chờ đợi đương nhiên không phải là phong cách hành sự của An Thanh Nguyên ta, ta đã đi khắp thiên hạ bái kiến danh sư, mỗi ngày đều phân tích các điều kiện để trảm long, hồi tưởng lại lần cuối cùng gặp cậu, quần áo nét mặt như thế nào, từng chi tiết và từng câu nói. Đầu năm nay, ta có được gợi ý từ phương pháp giết hại cả thôn làng bộ tộc của một thầy mo vùng núi Xuyên Nam, chỉ cần dùng máu thuần dương và thuần âm, đổ vào tử huyệt ghi chép trong Trảm long quyết, là có thể khiến long khí mất đi sự cân bằng âm dương mà trở thành sát khí, vẩn đề nằm ở chỗ, thuần âm và thuần dương là gì, phải dùng bao nhiêu phân lượng, dùng như thế nào?”
An Long Nhi chỉ vào lũ trẻ ở mép bình đài, hỏi: “ông đã nghiên cứu ra thứ phương pháp này? Dùng máu trẻ con để trảm long?”
An Thanh Nguyên cười cười với An Long Nhi, đoạn nói: “Chuyện này còn phải cảm ơn cậu nữa, không có cậu thì ta cũng không nghĩ ra là phải dùng trẻ con. Cậu vẫn còn là thân đồng tử âm dương chưa thông, trước khi hình thành dương khí đã theo Tiểu Như học tập công phu nữ đan, trên người cậu nhất định có hai khí âm dương thuần chính nhất, nhưng hai khí này ở bên trong cơ thể cậu lại không hề quán thông với nhau, vì vậy muốn tìm người thay thế cậu, ta chỉ còn cách tìm những đứa trẻ chưa trưởng thành thôi. Chẳng ngờ lượng máu dùng để trảm long thật không ít, nếu dùng máu của người đã tu luyện như cậu, ta nghĩ chỉ cần một hai đứa là đủ rồi… Có điều, Long Nhi đã trưởng thành, thành tựu về mặt võ thuật của cậu vượt xa dự liệu của ta, nếu là ba năm trước, tám người ta phái đi Quảng Châu ấy hẳn đã đưa được cậu vào chỗ chết rồi. Còn giờ đây, muốn lấy máu của cậu thật không dễ dàng, phải vậy không?”
“Để lấy máu của tôi mà ông muốn giết tôi?”
“Không, động cơ của ta không thấp kém như vậy, nếu giết cậu lấy máu, dùng được một lần cũng không có lần thứ hai.” An Thanh Nguyên lắc đầu nói: “Ta đã có cách thay thế máu của cậu, ta giết cậu là vì không thể để trên đời này có thêm một người trảm long nữa. Ta trảm long là vì thiên hạ thái bình, nhưng ta không thể đảm bảo cậu cũng có chí hướng như thế, cậu quá mức nguy hiểm.”
An Long Nhi biết tình thế trước mắt hết sức hung hiểm, cậu gắng nén nỗi phẫn nộ trong lòng, cố hết sức giữ bình tĩnh, chậm rãi nói:
“An Thanh Nguyên, ông đã là thứ dân, tại sao không thể đứng ở lập trường của dân chúng mà nghĩ thử, nghĩ xem thiên hạ thái bình nhất thiết phải trả giá bằng mạng người hay sao?”
“Đúng vậy, các triều đại xưa nay đều phải trả giá bằng mạng người, chỉ khác nhau ở chỗ nhiều hay ít mà thôi…” An Thanh Nguyên chầm chậm ngẩng đầu lên nhìn tầng mây thấp kỳ dị trên bầu không: “Vả lại, lần này trảm cả song long, trước khi hành sự ta đã gửi mật thư thông cáo cho Vương gia, một khi thành công, ta sẽ giành lại được những thứ đã mất.”
“Cái gì là trảm cả song long?!”
“Cậu không biết sao? Đây là huyệt song long do hai long mạch lớn núi Thiên Vụ và Vân Vụ giao hội tạo thành, từ nay trở đi, chín long mạch của Quảng Đông chỉ còn lại bảy, đợi ta phục hồi quan chức liền có thể đẩy nhanh tốc độ hoàn thành đại kế…”
An Thanh Nguyên xoay người lại nhìn An Long Nhi nói: “Long Nhi, ta là kẻ dễ mềm lòng, nhược điểm lớn nhất chính là khi mặt đối mặt với người rất khó xuống tay. Mấy năm trước, cậu từng giúp Tiểu Như làm không ít chuyện sai làm, ta đã nhiều lần hạ lệnh truy giết cậu, nhưng mỗi làn cậu đứng trước mặt, ta lại thấy bất nhẫn, hai chúng ta xét cho cùng cũng có duyên làm bạn, ta hy vọng cậu có thể giúp ta, gọi ta một tiếng An Đại thúc. Nếu cả cậu và Tiểu Như đều có thể giúp ta một tay, nhà họ An chúng ta lo gì không lưu danh muôn đời.”
“Đây chính là tử huyệt song long được ghi chép trong sách ư?”
An Thanh Nguyên nghe An Long Nhi hỏi như vậy, trong lòng không khỏi có chút cao hứng và đác ý, có lẽ An Long Nhi thực sự có hứng thú với công việc trảm long, có thể trở thành trợ thủ của y cũng không chừng. Y giảng giải với An Long Nhi như thầy giảng cho trò:
“Phong thủy Dương Công là thuật phong thủy của người sống, coi trọng nhất là sự cân bằng âm dương, nhưng Long quyết của An Công là thuật phong thủy thiên tử, phàm chuyện gì cũng chỉ cầu đạt được trình độ tối cao trong thiên hạ. Cậu nhìn đỉnh núi cao này xem, nghìn vạn năm nay nó chịu sát phong từ tám hướng thổi tới, long khí từ long mạch khai huyệt hình thành hồ ở trên cao. Long khí từ đây xông ra, giao hòa với sát khí, mới thành ra khí thiên tử mà người thường không thể tiếp nhận, nơi này chính là khởi nguyên của khí thiên tử. Khí thiên tử sinh ra ở đây, nhưng lại không thể phát sinh linh lực ở đây được, những điều này đều có đề cập đến trong Trảm long quyết, nếu Tiểu Như ở đây, nó có thể lập tức chỉ ra huyệt thiên tử ở đâu. Cậu cũng là người nhà họ An, sau này ta có thể từ từ dạy cho cậu biết.
Tuy ở đây không phải chính huyệt để hạ táng, nhưng chúng ta muốn trảm long mạch, thì phải ra tay ở chỗ sinh ra long khí, đây chính là phép Phong trảm trong chín phép Trảm long được ghi trong Trảm long quyết.”
An Long Nhi đã học tập phong thủy Dương Công đến mức thấu triệt, nhưng những lý luận mà An Thanh Nguyên vừa nói, cậu lại chưa từng nghe nói bao giờ, trong lòng cậu lúc này đã vạch ra một kế hoạch, nhưng vẫn muốn hỏi thêm một vấn đề:
“Ông có thể cho tôi biết sử dụng bình đài và lũ trẻ này như thế nào hay không?”
“Cậu có thể nói cho ta cậu ở phủ Thiên Sư đã học được bí pháp gì phối hợp với Trảm long quyết trước không?” Câu hỏi ngược lại của An Thanh Nguyên khiến An Long Nhi nghẹn họng.
An Long Nhi đã không còn bất cứ ảo tưởng nào về sự tồn tại của độc bản cuốn kỳ thư Trảm long quyết kia nữa, nhưng qua những gì An Thanh Nguyên vừa nói, cậu đã có được một sự gợi ý. An Thanh Nguyên có thể dựa vào độc bản của Trảm long quyết và sự kiện cuối cùng ở phủ Thiên Sư mà suy luận ra phương pháp trảm long; nếu cậu có thể hiểu thêm về y, từ miệng y biết được dăm câu ba điều về Trảm long quyết, biết đâu có thể thông qua Tầm long quyết và Ngự long quyết mà suy luận ra vị trí trảm long ghi chép trong Trảm long quyết cũng không chừng.
Chín long mạch ở Quảng Đông vẫn còn bảy có thể bảo tồn, cậu cũng không vội trở mặt với An Thanh Nguyên làm gì, ngược lại còn tính toán từ từ khiến An Thanh Nguyên thể hiện ra thành quả nghiên cứu của y. Nhưng An Long Nhi xưa nay không biết nói dối làm sao có thể qua mặt được An Thanh Nguyên, An Thanh Nguyên chỉ hỏi ngược lại một câu đã khiến An Long Nhi nhất thời cứng họng. Cậu biết rõ An Thanh Nguyên đang cố ý gợi chuyện để mình nói, nhưng nếu cậu không trả lời, tình thế ắt hẳn sẽ biến chuyển theo chiều hướng xấu. Đầu óc An Long Nhi thoáng mơ hồ, nhưng rồi nhanh chóng tỉnh táo trở lại, những việc cậu không nghĩ ra cách, Lục Kiều Kiều nhất định sẽ có biện pháp giải quyết. Nếu Lục Kiều Kiều ở đây, cô hẳn sẽ nói:
“Bí pháp thì có đấy, nhưng phải tu luyện mất mấy năm, có thể còn không nhanh chóng hiệu quả bằng phương pháp của anh bây giờ. Trước khi trảm long cần phải vận công, rồi để máu mình chảy vào tử huyệt của long mạch, giống như kết quả nghiên cứu của anh vậy, lượng máu cần thiết rất lớn, người tiến hành trảm long cũng sẽ gặp nguy hiểm tính mạng.”
An Long Nhi chỉ đề cập đến chỗ hại của trảm long đối với người thi triển thuật pháp, mà tuyệt không hề nhắc tới Lôi thích và tâm pháp Trảm long quyết, nhưng An Thanh Nguyên đã nghe ra được đầu mối từ những gì cậu nói. Y bảo An Long Nhi:
“Long mạch chia ra làm chín loại, tử huyệt của mỗi loại đều có độ sâu khác nhau. Nhanh chóng đào tới độ sâu thích hợp trên nền đất cứng rán, dùng sát khí thuần dương phá huyệt, đổ máu tươi vào là một vấn đề rất khó. Nếu muốn thuận lợi làm được đến điểm này, chỉ có cách dùng gỗ thích bị sét đánh có khí thuần dương hung mãnh nhất thiên hạ, dùng công phu nội đơn thuần dương mở ra tử huyệt trong nháy mắt… sau lưng cậu đang đeo một cây gỗ thích bị sét đánh phải không?”
An Long Nhi không khỏi kinh ngạc và khâm phục trước kiến thức phong phú lẫn suy luận tinh tế cẩn mật của An Thanh Nguyên, cậu nhận ra những bí mật trên người mình đang bị An Thanh Nguyên làn lượt nhìn thấu, còn mình thì lại chẳng có cách nào cạy miệng đối phương nửa lời. Cậu biết nói càng nhiều thì vấp càng nhiều, chi bằng cứ để mặc An Thanh Nguyên phát triển suy luận, bản thân mình sẽ tùy cơ mà hành sự. Cậu lùi lại hai bước đến chỗ rìa mép bình đài, tay phải rút thanh Vô Minh đao, chém một cái ra phía sau, trong không khí liền vang lên âm thanh như xé vải. Liền sau đó, phía sau An Long Nhi lập tức vang lên tiếng đứt gãy, một góc bình đài bằng gỗ đã bị đao khí chém lìa rơi xuống nước. An Long Nhi nói: “Đây chỉ là một thanh đao.” Lời vừa dứt, đã tra đao vào vỏ.
An Thanh Nguyên lẳng lặng nhìn cảnh tượng ấy, trong lòng cũng hiểu uy lực của nhát đao này, thầm nhủ với năng lực của mình, muốn giết chết An Long Nhi trên bình đài này là điều không thể, bèn mỉm cười nói: “Long Nhi giờ đã rất lợi hại rồi, thực sự không thể coi thường cậu được nữa… Giờ song long huyệt của Đỉnh Hồ đã bị trảm sát, ta chỉ cần đợi triều đình phục hồi chức quan, có quyền điều phối các loại tài nguyên là có thể phóng tay làm nên một phen sự nghiệp; nếu thuận lợi, trong một năm ta có thể dẹp yên chín mạch nghịch long ở Quảng Đông này, sau đó chúng ta về kinh phát triển Tây học, thúc đấy giao thiệp với người nước ngoài, Đại Thanh lo gì không thể cùng phân cao thấp với người Tây, dương uy bốn biển. Long Nhi, theo ta trở về đi, nước nhà đang cần những người trẻ tuổi ưu tú mở mang phong hóa để chữa trị căn bệnh trầm kha.”
An Long Nhi không hề tỏ thái độ gì trước đề nghị của An Thanh Nguyên, chỉ nói:
“Ông vẫn chưa nói với tôi, ông trảm long như thế nào?”
“Chậc chậc, cậu đúng là hiếu học đấy, sau khi ta nói cho cậu biết, cậu phải dạy ta phương pháp mà Trương thiên sư truyền thụ, Trảm long quyết do người nhà họ An chúng ta bảo vệ, dùng Trảm long quyết chân chính, mới giảm được nạn tai xuống mức thấp nhất.”
An Thanh Nguyên chỉ vào nền bình đài gỗ nói: “Cậu hãy nhìn tám tên tiểu đồng này, bọn chúng được sắp đặt theo âm dương của tám cung mà chọn nam hay nữ, vốn dĩ đây là cách phối hợp tệ nhất trong huyền học, theo Dịch lý, âm dương giao thoa phối hợp với nhau mới có sinh khí, âm phối âm, dương phối dương sẽ chỉ sản sinh ra sát khí, có điều, trảm long cần chính là sát khí… ta dựa theo trình tự của Vũ hoàng canh bộ, lần lượt đổ máu của bọn chúng vào lỗ nhỏ ở chính giữa bình đài…”
Trên bình đài có tám rãnh máu hình rẻ quạt tập trung về phía chính giữa, nghe An Thanh Nguyên tỉ mỉ giải thích cách sử dụng bình đài gỗ, An Long Nhi tựa như nhìn thấy y bước theo Vũ hoàng canh bộ, dùng trường kiếm lần lượt đâm thủng cổ họng của lũ trẻ con bị trói trên cọc gỗ để lấy máu tươi. An Long Nhi thực không thể tưởng tượng ra cảnh tượng tàn nhẫn tựa như dưới chốn A Tỳ địa ngục lúc đó, cũng không thể tính toán nổi, y đã giết bao nhiêu người để thử nghiệm ra được loại canh bộ, số lượng người, và loại người cần thiết. Bên tai cậu, An Thanh Nguyên vẫn đang tiếp tục nói:
“Ta vẫn luôn suy đoán rằng chất gỗ thích bị sét đánh và độ sâu của tử huyệt có liên hệ với nhau, thiết tưởng, cách làm chính thống là dùng Lôi thích đâm vào tử huyệt, vì vậy ta định sử dụng bộc phá, cũng là thứ thuần dương chí liệt để thay thế… vấn đề lớn nhất ở đây là tử huyệt nằm dưới đáy hồ trên đỉnh núi. Khi trước, nước ở đây chỉ sâu hơn hai chục thước, người ở trong hồ như ở dưới đáy nồi vậy. Trước tiên, ta dựng bình đài nổi này, sau đó dùng ống tre cắm vào lỗ máu ở chính giữa bình đài, thông xuống đáy hồ, lại thả thủy lôi mua được của Hải quân Tây Dương xuống đáy hồ; khi máu của tám đứa trẻ toàn bộ chảy xuống đáy hồ, ta liền dịch chuyển bình đài, cho nổ thủy lôi, ép máu chảy vào tử huyệt vừa bị nổ toang ra ấy. Lúc bấy giờ, phong vân biến sắc, đất trời chẩn động, cảnh tượng ấy thực sự rất tráng lệ, ta đã thấy được sự nhỏ bé của con người, đồng thời cũng thấy được sức mạnh lớn lao của phong thủy… Có phải chấn động lan đến tận Quảng Châu không?”
Trong mắt An Thanh Nguyên ánh lên một thứ ánh sáng kỳ dị khiến An Long Nhi không rét mà run, cậu trả lời đối phương:
“Đúng vậy, trong phương viên mấy trăm dặm, mưa lớn thành lụt, nước lũ dâng tràn, dân chạy nạn không có chốn về nhiều không kể xiết, đây chính là tân thế giới mà ông sáng tạo ra đấy!”
An Thanh Nguyên thu lại vẻ hưng phấn trên nét mặt: “Long Nhi, đạo lý ta đã nói nhiều rồi, cậu có nguyện ý cùng ta làm nên một phen sự nghiệp không?”
An Long Nhi lắc lắc đầu, đồng thời cậu nghe thấy sau lưng có tiếng chó sủa, quay đầu lại nhìn về phía bờ hồ, liền trông thấy Sái Nguyệt, Cố Tư Văn và A Đồ cách cách đều đứng bên đó, Đại Hoa Bối nhảy ra khỏi cái sọt trên lưng lừa, hướng về phía tâm hồ sủa nhặng xị.
An Thanh Nguyên gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, y lấy trong tay một lá bùa màu vàng, miệng lẩm nhẩm Kỳ tinh chú, sau đó châm lửa đốt bùa ném xuống hồ, rồi lập tức xoay người bước lên con thuyền nhỏ, người lái thuyền nhẹ nhàng khua mái chèo, con thuyền nhỏ lao vút đi như một mũi tên, chỉ để lại An Long Nhi đứng ngây ra trên bình đài ở giữa hồ, không biết làm sao.
Khi An Thanh Nguyên đi đến bờ hồ, tiếng sấm đột nhiên ngớt hẳn, lốc xoáy cần quét trên mặt hồ cũng biến mất, mây tan mưa tạnh, sắc trời sáng dần. An Long Nhi vẫy vẫy tay với Sái Nguyệt, đang định lặn xuống đáy hồ xem xét tình hình, chợt nghe thấy một giọng nữ quen thuộc và thân thiết gọi tên mình:
“Long Nhi chạy mau! cẩn thận súng!”
An Long Nhi mừng rỡ trong lòng, cậu ngẩng đầu nhìn về phía tiếng gọi, liền trông thấy Lục Kiều Kiều đang khoác một chiếc áo choàng màu xanh lục mỏng mảnh, cưỡi trên lưng con ngựa lớn gấp gáp chạy dọc theo bờ hồ từ hướng Tây sang Đông, sau lưng cô có hai con ngựa, trên ngựa lần lượt là Jack và An Thanh Viễn.