[1] “Bát tự” là “tám chữ”, đó là:
Can, chi của năm sinh
Can, chi của tháng sinh
Can, chi của ngày sinh
Can, chi của giờ sinh.
[2] Loạn An sử (chữ Hán: 安史之亂: An Sử chi loạn) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài từ năm 755 đến năm 763, do họ An và họ Sử cầm đầu. Cả họ An và họ Sử đều xưng là Yên Đế trong thời gian nổi dậy.
[3] Tường hoặc bình phong đặt trước cổng lớn trong kiến trúc nhà có sân vườn ở Trung Quốc. Theo quan niệm phong thủy, có tác dụng ngăn luồng khí xấu vào nhà, cản luồng khí tốt thoát ra.
[4] La bàn phong thủy.
[5] Tam nguyên cửu vận là cách người xưa chia các khoảng thời gian lớn, trong đó cứ 20 năm chia làm một vận, ba lần 20 năm hình thành một nguyên.
[6] Một phương pháp ngoại trị của Trung y, dùng giấy bông cuốn sợi ngải cứu thành một que tròn dài, sau khi đốt đặt vào dụng cụ giác (ôn cứu khí), lăn qua kinh lạc, hoặc quanh chỗ bị đau, giúp ôn thông kinh lạc, ôn bổ nguyên khí, điều hòa khí huyết…
[7] Tam công: ba chức quan đứng đầu triều đình phong kiến, gồm Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
[8] 洪
[9] 共
[10] 廿
[11] Nằm ở Trung Nam tỉnh Quảng Đông, đầu phía Bắc vùng châu thổ Chu Giang.
[12] Mỗi khắc bằng mười lăm phút.
[13] Loại binh khí tiêu biểu của Thiếu Lâm.
[14] Cấp thứ mười sáu trong mười tám bậc cửu phẩm phân cấp quan lại xã hội phong kiến.
[15] Say trăng mò vàng.
[16] Lưỡi dao giấu trong tay áo.
[17] Thuật ngữ trong mệnh lý bát tự, nếu trong mệnh có Dịch Mã, chứng tỏ người này phải di chuyển nhiều.
[18] Hồng Quốc Du mặc quan phục nhưng không phải là quan viên. Vốn đời nhà Thanh, nhà nào có chút tiền bạc, khi người thân qua đời, nam sẽ cho mặc quan phục giống quan viên, nữ sẽ cho đội mũ phượng khăn quàng giống phi tần, sau đó mới nhập thổ yên nghỉ. Điều này giống như chúng ta ngày nay thấy các vị tổ tiên đa phần đều mặc vest hoặc bộ đồ Tôn Trung Sơn ở nhà tang lễ.
[19] Jack nói “đủ” (够), tiếng Trung đọc là “câu”, nghe gần giống như “go” trong tiếng Anh.
[20] Một khắc tương đương với mười lăm phút.
[21] Một kiểu chữ Hán, hơi giống chữ Lệ.
[22] 回
[23] Tức là lưng hướng Tuất (Tây Bắc), mặt hướng Thìn (Đông Nam).
[24] Khách Gia, hay Hakka, còn gọi là người Hẹ, là một tộc người Hán được cho là gốc gác ở khu vực các tỉnh Hà Nam và Sơn Tây, miền Bắc Trung Quốc cách đây 2.700 năm.
[25] Tam Nguyên Cửu Vận là một chu kỳ thời gian dài 180 năm. Mỗi một chu kỳ này được chia ra làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn dài 60 năm gọi là Nguyên. Tam Nguyên gồm có Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia thành ba Vận, mỗi Vận dài 20 năm. Vận 1,2,3 thuộc về Thượng Nguyên. Vận 4,5,6 thuộc về Trung Nguyên. Vận 7,8,9 thuộc về Hạ Nguyên. Gọi chung là Cửu Vận.
[26] Một vị thần trong truyền thuyết, dân gian cho rằng thần Thái Tuế ở dưới đất, chuyển động tương ứng với sao Thái Tuế (sao Mộc) trên trời, khi đào đất động thổ, phải tránh phương vị Thái Tuế, bằng không sẽ chuốc họa.
[27] Một chức quan thời Thanh, hàm tòng lục phẩm, thấp hơn tri châu, nhưng cao hơn châu phán.
[28] Trong quan niệm của Đạo gia, tiểu chu thiên và đại chu thiên là đường đi chuẩn tắc của khí qua các huyệt vị trong cơ thể.
[29] Một dạng kiến trúc tương tự như ban công của Trung Quốc.
[30] Một loại binh khí thời xưa, lưỡi dài và hẹp.
[31] Một dạng vũ khí cổ, như quả chùy có gắn dây.
[32] Trăm hay không bằng tay quen. Ở đây để nguyên âm Hán Việt của câu thành ngữ cổ để diễn tả sự khó hiểu của nó đối với người nước ngoài là Jack.
[33] Đây là bài từ “Lâm giang tiên – Giang nhiễu hoàng lăng xuân miếu nhàn” của Ngưu Hy Tế thời Ngũ Đại, tả cảnh ở miếu Hoàng Lăng thơ Nga Hoàng, Nữ Anh, hai người vợ của vua Thuấn, nhân đó bày tỏ cảm xúc của mình. Dịch nghĩa:
Mùa xuân, sông uốn khúc chảy quanh miếu Hoàng Lăng
Chim oanh kêu quan quan một mình
Đình các phủ đầy rêu xanh
Mây đen vô sự, bồng bềnh bao quanh ngọn núi
Tiếng tiêu tiếng trống đã vắng bặt, hương tàn tro lạnh
Chỉ còn vầng trăng sáng giữa trời
Đều nói phong lưu nhất thế gian
Phải biết rằng khách ngông cuồng liều mạng vì hồng nhan.
[34] Cụm từ này có nghĩa là quyết đoán, gặp thời cơ liền lập tức đưa ra quyết định ngay; nhưng giải thích theo nghĩa đen của từng từ, thì là gặp thời liền gãy. Trong trường hợp này, độc giả có thể coi đây như một dạng “đuổi hình bắt chữ” vậy.
[35] Lục Kiều Kiều phát âm sai.
[36] Tác giả chú thích: Đạo giáo là chính giáo sản sinh ở Trung Quốc, có các giáo điều và lễ nghi rất nghiêm khắc, khi chính thức lập đàn làm phép bày trận, bắt buộc pháp sư phải mặc đạo bào. Ví dụ như trong trận Xích Bích thời Tam Quốc, Gia Cát Khổng Minh lập đàn mượn gió Đông cũng phải mặc đạo bào, không phải để trêu tức Chu Du hay làm màu mè, mà chỉ là nghiêm khắc chấp hành lễ nghi lập đàn. Hôm nay Lục Hữu là chủ trận, vì vậy y cũng không ngoại lệ phải mặc đạo bào màu vàng.
[37] Bùa chú trói rồng.
[38] Nguyên thần tách ra khỏi cơ thể.
[39] Tiềm năng bẩm sinh, có sẵn từ trong phôi thai.
[40] Nguyên thần này là một vị tôn thần để thờ phụng, không phải nguyên thần của người tu luyện vẫn được nhắc tới ở trên.
[41] Mùi vị ấy vô cùng vô tận.
[42] Hai câu trong bài Tương tiến tửu của Lý Bạch.
Xưa nay thánh hiền đều bặt tiếng
Chỉ có bọn rượu danh lừng thôi!
(Bản dịch Khương Hữu Dụng)
[43] Hay còn gọi là Chiếu Đại Quyền Hiện (Tõshõ Dai-Gongen, 東照大權現), tước hiệu thần thánh được phong cho Tokugawa Ieyasu sau khi ông qua đời.
[44] Tokugawa Ieyasu (1543-1616) là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shõgun (Tướng quân) đầu tiên của Mạc Phủ Tokugawa, nắm quyền từ sau trận Sekigahara năm 1600 cho đến Minh Trị Duy Tân năm 1868.
[45] Những câu này trích trong bài từ Phá trận tử của Tân Khí Tật.
Say khướt khêu đèn ngắm kiếm,
Mộng về còi rúc liên thanh.
Tiệc mở lộc khao đều quân tướng,
Đàn sáo lừng vang khúc quân hành,
Sa trường thu điểm binh.
(Bản dịch Nguyễn Khắc Phi)
[46] Đây là bài thơ Quá Linh Đinh dương (Qua biển Linh Đinh) của Văn Thiên Tường đời Tống.
Cay đắng gian nan trải phận đành
Can qua lưu lạc bốn năm quanh
Cuộc đời bèo bọt mưa trôi dạt
Sông núi hoa cành gió tướp banh
Hãi sợ bến đầu nghe hãi sợ
Lênh đênh bể tận thán lênh đênh
Người đời tự cổ ai không chết
Lưu giữ lòng son sáng sử xanh.
(Bản dịch Đông A)
[47] Văn Thiên Tường (1236-1282) tự Tống Thụy, hiệu Văn Sơn, tên Vân Tôn. Thiên Tường là tên bạn đặt cho lúc ông 20 tuổi đến Giang Tây thi cống sĩ. Ông sống vào thời nhà Tống bị Mông Cổ xâm lấn. Năm 1271, Hốt Tất Liệt cử binh đánh Nam Tống. Hai thành Tương Dương và Phàn Thành bị vây chặt, thủ đô Lâm An bị uy hiếp. Ông mộ binh được vạn người, kéo về bảo vệ Lâm An. Khi quân Mông Cổ đến đánh Lâm An, quan quân triều đình bỏ chạy, ông đảm nhận chức sứ giả đến trại quân Nguyên đàm phán. Không ngờ ông bị bắt, nhưng sau trốn được chạy về Nam mộ binh đánh tiếp cùng với Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu. Sau cùng lực lượng không đối chọi nổi, ông bị bắt đem về Đại Đô (Bắc Kinh). Hốt Tất Liệt đã chiêu hàng nhưng ông quyết không đầu hàng, cuối cùng bị xử trảm tại đây năm 47 tuổi.
[48] Ngũ uẩn (五蘊), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰), là năm nhóm tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái “ta”.
Ngũ uẩn gồm:
Sắc (色), chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
Thụ (受), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
Tưởng (想), là nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
Hành (行), là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác…
Thức (識), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được màu sắc hay âm thanh v.v…
[49] Tác giả chú thích: Kể cả ngày nay, đạo sĩ trên toàn thế giới đều phải đăng kí tại phủ Thiên Sư ở núi Long Hổ thì mới được thừa nhận là đạo sĩ chân chính, nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì phủ Thiên Sư này là nơi duy nhất được chỉ định phát giấy chứng nhận đạo sĩ trên toàn cầu.
[50] Đây là một khái niệm trong mệnh lý học, dụng thần là mấu chốt của bát tự, là một hoặc hai loại trong Ngũ hành có thể gây nên các tác động đến bát tự, khiến cho Ngũ hành của bát tự được cân bằng.
[51] Bốn trong tám nỗi khổ theo quan niệm Phật giáo. Lần lượt là khổ vì không được toại nguyện, khổ vì yêu mà phải chia lìa điều mình yêu, khổ vì phải tiếp xúc với những thứ mình ghét, khổ vì sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn.
[52] Tác giả chú thích: Ngân hàng Oriental Anh quốc là ngân hàng ngoại quốc đầu tiên vào Trung Quốc, trong những năm từ 1845-1850 lần lượt xây dựng các chi nhánh tại Quảng Châu, Hương Cảng, Thượng Hải, năm 1850 lần đầu tiên phát hành tiền giấy tại Hương Cảng
[53] Tác giả chú thích: Theo tiếng lóng trên giang hồ, người bị trúng kế đám lừa bịp gọi là ‘ông thọ’.
[54] Tác giả chú thích: lão điểm là ám ngữ hồng môn, ý chỉ lừa gạt.
[55] Tứ thần đắc vị, thủy nhiễu minh đường: Tứ thần gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, trong bố cục một ngôi nhà, thì Thanh Long là hướng bên trái, Bạch Hổ là hướng bên phải, Chu Tước là phía trước mặt và Huyền Vũ là phía sau lưng. Đồng thời Huyền Vũ cũng tượng trưng cho phương Bắc, Chu Tước phương Nam, Thanh Long phương Đông và Bạch Hổ phương Tây. Nếu hướng và vị trí của tứ thần trùng nhau, thì gọi là tứ thần đắc vị. Như vậy một ngôi nhà được gọi là ‘tứ thần đắc vị, thủy nhiễu minh đường’ phải quay mặt về hướng nam, lưng bắc, trước có sông suối chảy qua.
[56] Tác giả chú thích: Thành vải là khí giới thường dùng khi tác chiến thời cổ đại, dùng tre gỗ dựng thành bốn bức tường, bên ngoài quây một lớp vải dày vẽ hoa văn như gạch xây thành, nhìn từ xa trông như tường thành thật vậy, có tác dụng mê hoặc kẻ địch ở xa, khi cận chiến cũng có thể chắn tên, đặt phục binh hoặc dùng làm trướng trung quân.
[57] Một loại dụng cụ dùng để hút thuốc phiện.
[58] Theo lý thuyết phong thủy, mộ phần phải đặt dựa lưng vào núi, ngọn núi ấy được gọi là kháo sơn.
[59] Loan phượng hòa chung tiếng hót.
[60] Tên gọi khác của Giang Tây.
[61] Tác giả chú thích: Lang tiễn là loại binh khí lớn, dùng tre dài chế thành, dài hơn một trượng, phía trước còn để nguyên mười mấy chạc tre xòe ra, trên chạc tre cắm đầy mũi thương nhỏ, có thể kẹp kẻ địch vào giữa rồi dùng thương dài đâm chết, cũng có thể biến thành ô bảo vệ bên sườn cho toàn đội.
[62] Xem chú thích ở tập 3.
[63] Tổ sư Thiền tông Phật giáo khi tiếp nhận đệ tử đến xin học, thường không dùng lời lẽ hỏi han mà sẽ đánh vào đầu một gậy hoặc quát lớn một tiếng, để khảo nghiệm căn cơ của đệ tử, kẻ nào thông minh và có tuệ căn, có khi chỉ một gậy hoặc một tiếng quát mà ngộ được, gọi là ‘bổng hát đốn ngộ’.
[64] Ở đây tác giả chơi chữ, dùng từ 破瓜 (dưa vỡ), vừa có ý chỉ thiếu nữ đến tuổi mười sáu, việc lần đầu ‘phá thân’, quan hệ tình dục. nên lục kiều mới nói ‘đập vỡ dưa của cậu’, để trêu Cố Tư Văn.
[65] Chỉ nơi đồng bằng có sông suối.
[66] Tác giả chú thích: Thái Bình thiên quốc gọi trinh nữ là nguyên nữ, khi tuyển vương nương cũng chỉ nguyên nữ mới có thể dự tuyển.
[67] Đội trưởng đội 10 người.
[68] Một loại kịch địa phương lưu hành ở Hà Bắc, Hồ Nam, An Huy… phát triển từ điệu múa Hoa Cổ mà thành.
[69] Mười đối tượng mà thầy phong thủy không được dùng thuật phong thủy để an táng cho.
[70] Nguyên văn: hữu thủy tả đảo (右水左倒), có nghĩa là nước chảy từ bên phải sang bên trái, theo nguyên lý nước chảy từ nơi cao xuống nơi thấp, thì có nghĩa bên phải cao bên trái thấp.
[71] Tác giả chú thích: ‘hải để’ là ám hiệu trong hồng môn, chỉ điều luật và danh sách môn.
[72] Cá hổ kình hay cá voi sát thủ là loài cá voi lớn nhất và cũng là loài động vật có vú ăn thịt hung dữ nhất đại dương, còn có một số tên gọi ít phổ biến hơn như cá đen hay sói biển.
[73] Kính lục phân là dụng cụ hàng hải cơ bản được sử dụng để đo góc kẹp giữa thiên thể và đường chân trời, góc kẹp đo được cùng với thời điểm đo cho ta vị trí tàu tại thời điểm quan trắc. Do tỷ lệ góc của nó nhỏ hơn 60° (1/6 của 360°) nên gọi là kính lục phân.
[74] Tác giả chú thích: Sâm phiếu là giấy phép triều đình cấp cho những người chuyên đào sâm.
[75] Giai đoạn cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc, hàng loạt dân chúng ở vùng Trung Nguyên và Giang Bắc, vì các nguyên nhân như thiên tai, loạn lạc, phải vượt qua Sơn Hải quan, vượt Bột Hải, lang bạt đến vùng Đông Bắc khai hoang kiếm sống và định cư, gọi là ‘lang bạt quan Đông’.
[76] Quan viên nhà Thanh đội mũ lông công, nhưng lại phân ra theo cấp bậc, đội mũ lan linh trường là quan võ hàm lục phẩm.
[77] Theo chiết tự, chữ 官 nghĩa là quan lại, có hai chữ 口 (miệng) bên trong, ý nói người làm quan có thể ăn nói đổi trắng thay đen.
[78] Một trong tám cửa sông chính đổ ra biển thuộc hệ thống sông Châu Giang, nằm ở Đông Quản, tỉnh Quảng Đông. Nước sông Châu Giang từ Hổ Môn đổ ra biển Linh Đinh.