Tư Mã Quang "Tư trị thông giám Hán Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế hạ chi hạ"
Bao Thuận Quý dẫn Batu, Saxuleng tất cả năm thợ săn và Dương Khắc, cùng bảy tám con chó lớn đến bãi chăn mới, hai cỗ xe bánh lốp chở lều bạt, đạn dược và nồi niêu bát đũa theo sau.
Bước lên đầu phía tây bãi chăn, Bao Thuận Quý và các thợ săn dùng ống nhòm quan sát từng quả đồi con suối, từng khúc quanh của con sông trong thung lũng lòng chảo, nhưng không hề thấy một con sói hoặc một con dê nào, chỉ thấy từng đàn vịt trời, nhạn và mười mấy con thiên nga.
Mấy tay thợ săn thấy nói săn sói vào đầu hạ thì không hào hứng, nhưng họ mê mẩn trước cảnh đẹp thiên nhiên nước xanh cỏ biếc ở nơi này. Dương Khắc cảm thấy mắt cậu như biến thành màu xanh, liền nhìn mắt những người khác, cũng thấy xanh biếc như mắt con sói bắt đèn đêm đông, đẹp dễ sợ. Từ trên núi đi xuống, màu xanh bát ngát, hương thơm sực nức không khí trong lành, bụi bặm ở đây hiếm như vàng sa khoáng trong cát. Vó ngựa và bánh xe nhuốm mùa xanh của cỏ, ngay cả thanh dóng ngang đoạn tiếp đất cũng màu xanh. Ngựa ra sức lắc hàm thiết, cố bứt vài cọng cỏ non. Dương Khắc hơi tiếc là đám hoa dại mà Trần Trận giới thiệu đã tàn lụi, thuần một màu xanh kê cũng đơn điệu.
Bao Thuận Quý như phát hiện ra mỏ vàng, reo ầm lên: Đúng là phong thủy bảo địa, tập trung báu vật trong thiên hạ, trước tiên nên mời các thủ trưởng quân khu về chơi vài hôm săn ngỗng, săn vịt trời, rồi thì nướng thịt trên đồng cỏ. Dương Khắc nghe chối tai quá, trước mắt cậu hiện ra con quỉ với đôi cánh màu đen trong vẻ bale "Hồ thiên nga".
Đoàn ngựa nhẹ nhàng đi xuống, qua một con dốc thoai thoải, Bao Thuận Quý nói khẽ: Nhìn bên trái, một đàn thiên nga đang ăn cỏ chỗ con suối, ta sang bên đó bắn lấy một con. Nói xong, ông ta dẫn hai thợ săn chạy đi. Dương Khắc ngăn không kịp đành chạy theo, vừa chạy vừa dụi mắt. Quả nhiên khe suối phía trước có một mảng lớn màu trắng nhức mắt, trắng như đám cừu non đầu hạ, như đám thiên nga nhìn qua ống nhòm hồi nảy. Dương Khắc giận đến nghẹt thở, cậu không có súng trong tay, nếu có cậu sẽ cho súng cướp cò, để đàn thiên nga sợ bay đi. Chạy như điên một đoạn, cái chấm trắng vẫn không động cựa. Dương Khắc gần như muốn hét lên. Đúng khi ấy, cánh thợ săn đột nhiên gò cương hạ súng, giảm tốc độ và nói to câu gì đó. Bao Thuận Quý cũng kìm ngựa lấy ống nhòm ra. Dương Khắc cũng lấy ống nhòm ra nhìn. Khi thấy rõ cái vật trắng tinh ấy toàn là hoa thược dược dại. Đầu hạ năm trước, Dương Khắc từng trông thấy hoa thược dược dại, cứ vài cây một bụi rải rác đây đó, chưa bao giờ thấy cả mảng lớn như thế này. Cậu cảm thấy đám bạch dược là do những con thiên nga lắc mình một cái biến thành.
Bao Thuận Quý không cụt hứng, trái lại hét váng lên: Trời ạ, tôi chưa bao giờ thấy bạch thược đẹp như thế này, đẹp hơn bạch thược trong công viên thành phố. Mau đến đó xem. Mấy con ngựa lại phi nước đại.
Đến nơi, Dương Khắc choáng váng, tưởng như gặp hoa thần tiên. Dưới đáy một con suối đầy đất bùn, ba bốn mươi khóm bạch thược đang nở rộ, mỗi khóm cao một mét, to một ôm, những cành thô bằng ngón tay út, thẳng đuột từ dưới đất chui lên khỏi mặt đất chừng một thước là lá rậm, trên đó nở chục bông hoa trắng lớn như hoa mẫu đơn, che khuất hết lá phía dưới. Khóm hoa như một lẳng hoa do một bàn tay thần cắm chi chít, chỉ trông thấy hoa không trông thấy lá, chả trách trông xa tưởng thiên nga. Dương Khắc lại gần, bông nào bông ấy tâm hoa rực rỡ, cánh hoa mịn màng, thanh thoát hơn mẫu đơn, thung dung hơn nguyệt thế. Cậu chưa bao giờ trông thấy cảnh tráng lệ đến thế nơi đồng nội, tinh tươm hoàn mĩ hơn sự tô điểm của bàn tay con người, như bầy tiên trong cảnh ảo hồ thiên nga...
Bao Thuận Quý cũng ngây ra nhìn. Ông ta sững sờ kêu: Cái của này hiếm đây, đem về thành phố hỏi bán được bao nhiêu tiền? Mình phải bứng mấy khóm biếu thủ trưởng quân khu, các vị chắc khoái. Cán bộ lão thành không thích tiền, chỉ thích hoa quý. Biếu thứ hoa này là để nói rằng mình rất hiểu các vị. Cậu Khắc này, cậu thấy nhà khách chính phủ có loại thược dược mê hồn như vầy không?
Dương Khắc nói: Nói gì nhà khách chính phủ, ngay cả công viên hoàng gia nước ngoài cũng không thấy loại hoa này.
Bao Thuận Quý cả mừng, quay lại bảo cánh thợ săn: Các cậu nghe rõ chưa? Đây là loại hoa quý, phải trông nom cẩn thận. Lúc về, chặt ít cành hạnh rào đám hoa này lại.
Dương Khắc nói: Sau này ta lại dọn nhà thì sao, cháu sợ có kẻ đánh cắp.
Bao Thuận Quý nghĩ một lúc, nói: Ta sẽ có cách, cậu đừng lo.
Dương Khắc tỏ vẻ lo âu: Xin ông đừng bứng nó đi, bứng đi là nó chết đấy.
Đoàn ngựa và xe đến khúc quanh của dòng sông, cánh thợ ăn tìm ra ngay bãi săn của lũ sói, xác dê vàng đã bị chén sạch chỉ còn lại sừng, móng guốc và những mẩu da vụn. Batu nói: Bọn sói đã đến đây bủa vây mấy lần nữa, nhiều đàn. Cậu xem những đống phân sói này, mình đoán các sói chúa đều đã kéo đến. Bao Thuận Quý hỏi: Đàn sói giờ ở đâu?
Batu nói: Chắc là đuổi theo dê vàng vào trong núi, cũng có thể chúng đi bắt rái cá cạn, hoặc đuổi theo dê vàng lên vùng biên. Dê vàng con giờ đã chạy nhanh như dê mẹ, sói khó bắt, nếu không chúng chẳng phải ăn sạch những con ở đây.
Bao Thuận Quý nói: Ông U và ông Pi rõ ràng là trông thấy mấy trăm con dê vàng, mấy chục con sói, vậy mà chỉ mới hai mươi hôm, chúng biến đi đâu?
Batu nói: Sói về bấy nhiêu, dê vàng dám ở lại không?
Saxuleng cười: Chắc chắn là sói sợ ông, ông đến là chúng biến mất. Người nào quá dữ dằn với sói đều không bắt được sói. Ông xem, ông Pilich rất ưu ái sói, vì vậy mà ông đã bắt là cả đàn.
Batu nói: Ông đã thấy cái hay của sói chưa? Không có sói thì bãi chăn đẹp đẽ này bị dê vàng xơi sạch từ đời tám hoánh rồi! Đàn cừu của ta đến đây ngửi thấy mùi phân dê vàng là chúng không chịu ăn cỏ. Bãi chăn đẹp quá, ngựa cũng không muốn đi. Theo cháu, nên dựng lều ở đây cho ngựa, chó nghỉ ngơi, mai lên núi quan sát.
Bao Thuận Quý đành ra lệnh qua sông. Batu chọn nơi bờ không quá dốc và đáy sông là cát, rồi cùng với các thợ săn dùng xẻng bạt thấp bờ sông. Batu cưỡi ngựa, dắt con ngựa kéo cỗ xe qua sông, chọn nơi bằng phẳng ở sườn núi phía đông dựng lều. Batu cắt đặt hai thợ săn đào bếp đun nước pha trà, rồi nói với Bao Thuận Quý: Cháu ra chỗ khe nam xem có còn con dê bị thương nào không? Đã đến đây ai lại ăn thịt khô đem theo? Bao Thuận Quý vui vẻ nói phải. Batu đem theo hai thợ săn và tất cả chó lớn đi khe nam. Balua và Nhị Lang nhận ra nơi vây bắt dê vàng, máu săn nổi lên, chạy vọt lên hàng đầu.
Dương Khắc quan tâm nhất là cái hồ thiên nga, bấm bụng ở lại không đi theo Batu để ngắm cái hồ. Để được ngắm cái hồ này, cậu hai ngày liền năn nỉ Bao Thuận Quý và ông Pilich cho cậu đặt chân lên trước khi đại đội nhân mã tiến vào bãi chăn mới, để cậu có dịp tận hưởng phong cảnh nguyên sơ của cái hồ này. Lúc này, cậu thấy cái hồ đẹp hơn những gì Trần Trận đã tả. Trần Trận chưa sang mạn đông của con sông. Chỗ này địa thế cao, có thể đi qua cánh rừng lau rậm rạp, thu gọn hồ trong tầm mắt. Cậu ngồi xuống sườn dốc, lấy ống nhòm xem mê mải. Đang trầm tư cảnh tĩnh mịch, chợt tiếng vó ngựa từ phía sau dội tới.
Bao Thuận Quý gọi váng lên: Chà, cậu đang ngắm thiên nga đấy hả? Đi, ta sang bên bãi lầy bắn mấy con cho đỡ thèm. Mục dân ở đây không ăn thịt chim, ngay vịt trời cũng không ăn. Tôi gọi, họ không đi. Họ không ăn, ta ăn. Dương Khắc ngoảnh lại nhìn, Bao Thuận Quý tay cầm khẩu bán tự động.
Dương Khắc suýt vỡ mật vì sợ. Cậu xua tay rối rít: Thiên nga là loài động vật quý hiếm, dứt khoát không được giết. Cháu xin ông đấy, từ nhỏ cháu đã thích vở bale "Hồ thiên nga". Thời kỳ ba năm khó khăn, muốn được xem một nghệ sĩ công huân trẻ Liên Xô diễn chung với diễn viên Trung Quốc, cháu đã trốn học, đêm đông rét mướt là thế mà xếp hàng tới tận nửa đêm mới mua được vé. Vở Hồ thiên nga quá hay, các vĩ nhân và những nhà văn hóa thế giới đều mê, vậy mà ở đây lại có một hồ thiên nga thật. Ăn thịt thiên nga sao? Ông hãy giết cháu đi đã rồi hãy ăn!
Bao Thuận Quý không dè gặp ngay một anh ất ơ. Bị giội gáo nước lạnh, ông ta cụt hứng. Ông vằn mắt, nói: Thiên nga với chả thiên nghiếc, trong đầu cậu đặc sệt tư tưởng tư sản, học sinh cấp III chứ gì? Trình độ văn hóa tôi không kém cậu đâu, không gạt "Hồ thiên nga' khỏi sân khấu thì làm sao đưa được "Hồng sắc nương tử quân" lên?
Saxuleng trông thấy Bao Thuận Quý xách súng về phía bãi lầy, vội chạy đến ngăn, nói: Thiên nga là thần điểu người Mông Cổ thờ cúng, không được bắn! Ông định săn sói cơ mà! Bây giờ ông nổ súng là sói trong núi chạy hết, mình về tay không à?
Bao Thuận Quý ngớ ra. Vội ghìm ngựa quay lại bảo Saxuleng: May mà cậu nhắc, nếu không, lỡ mất việc lớn. Bao Thuận Quý đưa súng cho Saxuleng rồi bảo Dương Khắc: Vậy thì cùng tôi đi trinh sát bãi lầy.
Dương Khắc miễn cưỡng chỉnh yên cương rồi lên ngựa đi theo Bao Thuận Quý. Gần tới hồ, một đàn vịt trời, dại nhạn và các loại chim màu sắc sặc sỡ bay qua, rớt xuống những giọt nước li ti trên đầu hai người. Bao Thuận Quý đứng thẳng trene bàn đạp, tay vịn cọc yên, rướn người nhìn qua bãi lau vào trong hồ. Đúng lúc ấy, hai con thiên nga cổ vươn dài, giang đôi cánh lớn, từ trên ngọn lau lướt trên đầu Bao Thuận Quý chỉ cách khoảng ba mét, khiến ông ta sợ quá ngồi phịch xuống yên. Con ngựa giật mình suýt hất ông ta xuống đất. Thiên nga hình như không sợ người, lượn mấy vòng trên không rồi lại sà xuống hồ, mất hút trong đám lau sậy.
Bao Thuận Quý kìm ngựa, chỉnh lại yên cho khớp với sống lưng ngựa. Ông ta cười: Ở đây thiên nga quá dễ, bắn cung cũng trúng, thiên nga là vua của loài chim, ăn được một miếng thịt thiên nga, coi như không uổng một đời. Nhưng mà diệt xong sói mới thanh toán bọn này.
Dương Khắc thận trọng hỏi: Hồi nãy ông bảo thược dược là hoa quý cần phải bảo vệ. Giờ đây thiên nga là quốc bảo, là vật báu của thế giới, sao ông không bảo vệ chúng? Bao Thuận Quý nói: Tôi xuất thân nông dân, trọng thực tế. Lấy được mới cho là bảo bối, không lấy được thì bảo bối cái gì? Thược dược không có chân, không chạy đi đâu được. Thiên nga có cánh, người và gia súc đến ở đây thì chúng bay lên phương bắc, thành bảo bối của xét lại Liên Xô...
Dương Khắc nói: Người ta thật sự coi là bảo bối mới không ăn thịt!
Bao Thuận Quý nổi cáu: Nếu biết cậu chẳng hiểu gì như thế, tôi chẳng dẫn cậu đến đây làm gì! Hãy đợi đấy, tôi sẽ cải tạo hồ thiên nga của cậu thành hồ nước cho ngựa uống, bãi lầy cho bò đầm.
Dương Khắc cố nhịn. Cậu rất muốn nổ súng loạn xạ xua đàn thiên nga bay đi, bay khỏi thảo nguyên, bay khỏi Trung Quốc, tới quê hương của vở bale "hồ thiên nga". Ở đó có những người dân yêu quý thiên nga. Còn như cái đất nước mà chim sẻ sắp bị ăn sạch này, chỉ còn lại có cóc nhái này, làm gì có đất cho thiên nga dung thân?
Saxuleng khoát tay vẽ một vòng tròn, lớn tiếng gọi hai người trở về. Hai người vội trở về lều. Tang Kiệt từ mạn đông nam núi cũng đã trở lại, đang chuẩn bị xe. Cậu nói: Batu bắn được mấy con lợn con ở khe đông nam, sai tôi về lấy xe để chở, còn mời chủ nhiệm Quý đến xem. Bao Thuận Quý cười tít mắt, vỗ đùi, nói: Thảo nguyên mà có lợn cỏ? Thật không ngờ, thịt lợn cỏ ngon hơn thịt lợn nhà. Cậu Khắc, ta đi thôi. Dương Khắc có nghe nói thợ săn bắn được lợn cỏ, nhưng từ khi lên thảo nguyên chưa thấy lần nào. Cậu lên ngựa phóng theo Bao Thuận Quý và Tang Kiệt.
Chưa đến chỗ Batu, hai người đã trông thấy mảnh đất bị lợn dũi. Bên sông, sườn dốc, trong khe... mấy chục mẫu đất đen màu mỡ bị cày xơi nham nhở, rễ cỏ lá rộng bản bị vặt trụi, chỏng trơ như ruộng khoai tây bị lợn nhà tàn phá. Bao Thuận Quý cáu tiết, chửi vung lên: Lũ lợn đáng ghét! Sau này trồng cây lương thực, chắc bị lũ lợn này ăn sạch.
Ngựa của hai người không dám chạy nhanh, đành đi chậm tới chỗ Batu. Batu ngồi dưới chân núi hút thuốc, lũ chó bâu quanh xác con lợn, xé thịt ăn. Hai người xuống ngựa, thấy bên cạnh Batu hai con lợn còn nguyên vẹn, hai con nữa lũ chó tranh nhau xả thịt, ăn ngon lành. Nhị Lang và Balua mỗi con một đùi lợn, hai con này nhỏ hơn lợn khi xuất chuồng wor nhà, chỉ dài hơn mết, lông thô mọc thưa thớt cùng mình. Mõm lợn rừng dài gấp đôi lợn nhà, thịt rất chắc, nhìn bên ngoài không thấy xương bên trong, răng nanh cũng không dài lắm, không đáng sợ như ta tưởng. Hai con lợn đều bị chó cắn sau gáy.
Lũ chó cắn chết mấy con lợn choai này, hai con bị xé nát thì cho chó ăn luôn, hai con còn nguyên vẹn cháu lôi về đây.
Bao Thuận Quý dận chân lên con lợn béo núc, cười: Các cậu khá lắm. Lợn choai thịt mềm, càng ngon. Tôi mời mọi người uống rượu. Xem ra nơi này rất nhiều sói. Ngày mai các cậu hạ thủ được vài con sói thì tuyệt.
Batu nói: Những con lợn cỏ này đến từ khu rừng cách đây ba trăm dặm, ở đó lợn cỏ rất nhiều, chúng xuôi dòng về đây. Nếu Ơlon không nhiều sói thì đàn lợn này đã phá sạch bãi chăn.
Bao Thuận Quý nói: Thịt lợn cỏ rất ngon. Sau này người nhiều lene, ta tổ chức săn lợn cỏ về ăn thịt lợn, tiết kiệm vô khối thịt bò, cừu. Dân nông nghiệp quen ăn thịt lợn, không thích ăn thịt bò, thị cừu.
Tang Kiệt đẩy xe tới, mấy người khiêng lợn lên xe. Batu ra hiệu cho những con chó tiếp tục ăn, các thợ săn và cỗ xe về trước. Khu lều đã có đủ củi, xe về đến nơi, mọi người chọn con to nhất mổ bụng, moi ruột, lọc thịt. Mục dân trên thảo nguyên mổ lợn, mổ cừu đều lột bỏ da không ăn. Lát sau, mùi thịt lợn nướng thơm phức. Thịt lợn cỏ ít mỡ phần nhưng mỡ chài thì rất nhiều. Dương Khắc bắt chước Bao Thuận Quý, quấn mỡ chài xung quanh thịt nạc rồi nướng, mỡ chảy xèo xèo, lại càng thơm. Trong khi các thợ săn pha thịt, Dương Khắc kiếm được rất nhiều hành dại và rau phỉ. Lần này cậu được thưởng thức mùi vị nguyên thủy của món thịt nướng thảo nguyên ăn với hành cay, hết ý! Cậu đã được thấy thiên nga và hoa bạch thược, còn Trần Trận thì chưa. Cậu đã ăn no thịt lợn cỏ, loại thịt quý hiếm trên thảo nguyên. Khi về nhà, cậu còn kể những điều mắt thấy tai nghe kỳ lạ mà cậu có diễm phúc được hưởng.
Bên đống lửa, Bao Thuận Quý mời rượu các thợ săn, kể về thịt thiên nga trên bàn tiệc của các bậc vương giả. Cánh thợ săn lắc đầu không hưởng ứng khiến ông ta cụt hứng. Dân du mục Ơlon chỉ săn thú chạy, không săn những con biết bay. Họ kính nể những sinh linh bay trên trời.
Lũ chó đi thành đàn trở về. Bảy người ăn no uống say mới đứng lên, gom tất cả chỗ thịt thừa vào chậu tôn. Trừ tim gan, phần lớn nội tạng bỏ lại trên bãi cỏ, đây là bữa thứ hai của lũ chó.
Buổi chiều, Dương Khắc lặng lẽ rời đoàn người, một mình ra chỗ có thể nhìn thấy toàn cảnh hồ thiên nga. Cậu dùng kính viễn vọng ngắm cái hồ mà có lẽ chỉ ít lâu sau biến mất.
Hồ thiên nga gợn sóng, mặt hồ phía tây phản chiếu những tảng mây dày phía đông; mặt hồ phía đông phản chiếu ráng chiều đỏ rực phía tây. Sóng lăn tăn nhẹ nhàng lan xa, lấp lánh màu hồng của mã não, màu xanh của cánh trả, màu vàng của thợ sơn. Từng gợn sóng màu tím thủy tinh, màu trắng ngà ngọc trai, màu lạnh và máu ấm hòa vào nhau, một kểu đẹp quý phái. Trước mắt Dương Khắc hiện ra mơ hồ cái chết của thiên nga, ánh sáng chói lòa của châu báu từ trên trời rắc trên mình thiên nga, trên hồ thiên nga trong vắt.
Từng gợn sóng đuổi nhau chậm rãi như khúc dạo đầu của vở kịch khi người ta không đang tâm nhìn vai chính của vở kịch phía sau. Dương Khắc mong sao màn này chỉ lấy trời làm phông, đừng xuất hiện nhân vật chính. Nhưng trong đám lau sậy màu xanh dương, từng con thiên nga bơi ra, một... hai... ba... mười hai con tất cả. Mặt hồ rạng rỡ và nền trời phía sau dựng lên cho chúng một sân khấu khổng lồ. Lũ thiên nga đã thay bộ lễ phục màu xanh, khiến màu vàng trên đầu chuyển sang tím. Con thiên nga cong cổ như một dấu hỏi, hỏi trời, hỏi nước, hỏi người, truy vấn vạn vật trên thế gian, những dấu hỏi lặng lẽ di chuyển trên mặt hồ, im lặng đợi câu trả lời. Nhưng đất trời lặng im, những hình ảnh lộn ngược run rẩy trên mặt sóng biến thành mấy chục câu hỏi lại. Một cơn gió thổi tới, những câu hỏi vỡ tan trong bước sóng.
Dương Khắc nghĩ đến bầy sói. Lúc này, những con sói thảo nguyên hung dữ lại đặc biệt dễ gần và rất đáng nể trọng. Chúng dùng răng, loại vũ khí nguyên thuỷ, ngoan cường chống trả lời nguyên tử, cho cậu được thấy cảnh đẹp nguyên sơ hồ thiên nga. Cậu và Trần Trận là những kẻ gặp may trong số người Hán. Nếu sói dũng mãnh và khôn ngoan hơn, chưa chừng sự bành trướng và xâm lược đối với thảo nguyên vẫn tiếp tục kéo dài, mà chính là sự bùng nổ dân số của tộc Hoa Hạ, khiến dân du mục thảo nguyên buộc phải bành trướng. Dương Khắc trong lòng xúc động, và cậu biết ơn sói. Đàn sói bị tuyệt diệt là điềm báo trước thảo nguyên sẽ tàn lụi, sự tàn lụi của cái đẹp trong con mắt nhân loại. Nước mắt nhoè ống kính, hồ thiên nga trinh trắng lùi xa...
o0o
Ngày hôm sau đội săn rà soát từng khe núi, sục sạo một ngày chẵn mà không thu hoạch được gì. Ngày thứ ba, đội săn vào sâu trong núi. Giữa trưa người mệt ngựa mỏi, Bao Thuận Quý, Batu và Dương Khắc bỗng nghe phía xa súng nổ dồn dập. Ba người nhìn về phía ấy, thấy hai con sói xuất hiện ở sườn núi phía đông loạng choạng chạy lên đầu dốc. Thấy phía bên này cũng có người và chó, thế là chúng liều mạng bò lên một mỏm đá cheo leo. Batu giương ống nhòm quan sát một thoáng nói: Đàn sói đã bỏ chạy từ lâu, đây là hai con sói già không theo kịp đàn. Bao Thuận Quý phấn khỏi, nói: Bất kể già hay trẻ, vớ được hai bộ da này là thắng lợi rồi. Batu vừa đuổi vừa lẩm bẩm: Không phải đâu. Ông thấy không, nửa thân sau của hai con này chưa rụng hết lông, đáng thương quá! Thợ săn và chó từ hai bên dồn lên đỉnh dốc, hai con sói một lớn một nhỏ, con lớn chân trước bên trái không thể duỗi thẳng, có lẽ nó bị đứt gân chân trong một cuộc chiến nào đó; con nhỏ hơn là một con sói cái, gầy nhom, màu lông rất xỉn. Balua, Nhị Lang và những con chó khác thấy hai con sói, con thì thọt, con thì già, chúng không những không tăng tốc, trái lại còn chạy chậm lại, chỉ mỗi một con choai choai tưởng bở, bất kể lành dữ, xông lên.
Hai con sói chạy đến đoạn núi đá lởm chởm do phong hoá, địa thế phức tạp, những mỏm đột ngột nhô ra, đá cuội rải khắp, mỗi bước, dưới chân con sói phát ra tiếng lạo xạo. Ngựa không thể đi tiếp, mọi người nhất loạt nhảy xuống, súng ống gậy gộc bao vây ba mặt. Già dặn trong nghề săn, Batu cùng con Nhị Lang tiến chậm nhưng hò rất to. Chỉ mỗi con chó choai ngựa non háu đá là vẫn băng băng phóng tới, gọi cũng không quay lại. Chỉ thấy con sói đực già nhảy lên phiến đá bàn cờ rồi dùng hai chân sau làm trụ, toàn thân quét ngang 180 độ, hất con choai chưa tiếp đất, bắn vào kẽ giữa hai tảng đá. Con chó bị kẹt kêu thảm thiết. Nó không bị thương nặng, nhưng phải mất nhiều thời gian mới kéo lên được. Đàn chó căng thẳng, lông dựng đứng. Con sói cái thừa cơ chui luôn vào một cái hang gần đấy.
Con sói đực già nhảy lên một phiến đá chỉ to bằng chiếc bàn ăn cơm, ba mặt đông nam bắc là vách núi dựng đứng, còn một mặt tiếp nối với quả núi bằng ghềnh đá cheo leo. Con sói già quay lưng về phía vực, ánh mắt đỏ ngầu đằng đằng sát khí. Nó khịt mũi, chuẩn bị chống trả. Lũ chó săn vây thành hình vòng cung sủa ầm ĩ nhưng không con nào dám xông lên vì sợ hụt chân rớt xuống vực. Mọi người bao vây chặt con sói. Bao Thuận Quý nhìn thế trận vui vẻ reo lên: Không ai được hành động, trông tôi đây! Nói xong, ông ta gập lưỡi lê, đẩy đạn lên nòng, chuẩn bị tư thế bắn gần.
Bao Thuận Quý vừa lùi lại phía sau lũ chó, con sói già đã úp mặt trườn xuống một cái dốc dựng đứng toàn đá sỏi, bốn chân bám trên sỏi đá trượt theo. Đất đá tới tấp phủ kín mình nó. Bụi bay mù mịt.
Mọi người vội ra sát mép vực nhìn xuống cho đến khi bụi tan cũng không tháy con sói đâu. Bao Thuận Quý hỏi: Chuyện gì thế này? Con sói ngã chết, bị đập chết hay đã chạy mất? Batu buồn rầu, nói: Chết hay sống không biết, có điều ông không có bộ da ấy rồi. Bao Thuận Quý ngẩn ra hồi lâu không nói câu nào.
Dương Khắc đứng như phỗng, cậu nhớ lại bộ phim "Năm dũng sĩ trên núi Răng Sói".
Hai con chó gác miệng hang cất tiếng sủa. Bao Thuận Quý chợt tỉnh, ông ta bảo: Còn một con nữa, mau lên! Hôm nay phải tóm bằng được một con.
Saxuleng và Tang Kiệt bước tới chỗ con chó bị kẹt giữa khe đá, mỗi người cầm hai chân nhấc ra. Con chó bị đứt lông chỗ khuỷu chân, da rớm máu. Con chó cùng trong một nhà bước tới liếm vết thương cho nó.
Đàn chó đến bên miẹng hang. Đây là một cái hang thiên nhiên do đá phong hóa mà hình thành, chỗ ẩn nấp tạm thời của động vật trên thảo nguyên. Trên phiến đá có những bãi phân của chim ưng màu xám như vừa xây nhà. Bao Thuận Quý nhìn cái hang, gãi đầu: Con bà nó, đào không được, đào là sập, hun không được, hun thì khói tạt đi hết. Batu cậu xem có cách gì không? Batu lấy đốc roi chọc thử. Có tiếng đá lăn phía sau. Anh lắc đầu, nói: Đừng phí công vô ích. Đống đá mà sập thì bị thương cả người lẫn chó, không xong đâu. Bao Thuận Quý nói: Theo tôi hun khói là tốt nhất. Các cậu đi rẫy cỏ về đây. Khi hun, chỗ nào lọt khói ra là ta bịt lại. Tôi có đem theo ớt đây. Mau lên, đi làm đi! Tôi cùng Dương Khắc giữ cửa hang. Đem theo toàn là những chiến tướng, vậy mà ba ngày ròng không bắt được con sói nào. Mục trường cười cho thối mũi.
Các thợ săn chia nhau đi kiếm củi và cỏ khô. Bao Thuận Quý và Dương Khắc gác cửa hang. Dương Khắc nói: Con này vừa già vừa ốm, gầy như que củi, chắc chẳng sống được mấy bữa, với lại mùa hè lông rụng hết, trạm thu mua sẽ không mua. Hay là tha cho nó!
Bao Thuận Quý sa sầm nét mặt, nhả một hơi thuốc, nói: Người không bằng sói. Tôi từng chỉ huy bộ đội đánh giặc, tôi biết. Không ai dám đảm bảo trong quân đội không có kẻ bỏ trốn hoặc đánh trả. Vậy mà con sói này thà chết chứ không khuất phục. Nói đúng lương tâm, sói Ơlon con nào cũng là dũng sĩ, ngay cả thương binh, nữ binh cũng khiến người ta bạt vía kinh hồn... Nhưng mà cậu bảo bộ da mùa hạ không có người mua, vậy là cậu chưa biết đó thôi. Quê tôi, lông dày quá không ai dám may tất vì nóng quá, mũi chảy máu cam, lông mỏng mới quý. Cậu không được mềm lòng, đánh giặc là một chết một sống, giặc chạy cùng đường cũng phải giết hết nữa là...
Batu và mọi người dùng dây thừng kéo những bó củi lên. Bọn Saxuleng bỏ vào túi áo mấy vầng cỏ khô dính đất. Bao Thuận Quý chất đống cỏ khô cỏ tươi bên miệng hang rồi châm lửa đốt. Vài thợ săn quì trước miệng hang lấy vạt áo quạt khói. Làn khói đặc sệt luồn vào trong hang, chỉ lát sau, ba bề bốn bên cái hang chỗ nào cũng rỉ khói, các thợ săn bấn tỉnh lên, hò nhau lấy cỏ bịt lại. Khói rỉ ra ngày càng ít đi.
Bao Thuận Quý vốc một nắm ớt bỏ vào đống lửa, mùi cay nồng nặc luồn vào trong hang. Người và chó đứng đầu gió, cái hang ở phía dưới đống đá y như cái cửa bếp. Khói cay cuồn cuộn vào trong. Các thợ săn cố ý để lại mấy lỗ thoát khói. Bỗng có tiếng sói ho rũ rượi, mọi người vội cầm gậy, lũ chó gồng mình chờ đợi. Tiếng ho trong hang ngày càng dữ dội như một ông lão bị viêm phế quản, ho như móc phổi ra. Thế nhưng, con sói cái vẫn không chịu ló mặt. Dương Khắc bị khói thuốc chảy nước mắt. Cậu quả thực không hiểu vì sao sói chịu đựng giỏi đến như thế, nếu là con người thì chết cũng chui ra.
Đột nhiên đống đá sụt nửa mét, khói xì ra các kẽ đá. Chỉ lát sau, tất cả những chỗ trám bùn đều xì khói, vài hòn đá lớn lăn xuống, suýt đè phải một thợ săn đang quạt. Mọi người toát mồ hôi lạnh, Bao Thuận Quý quát: Hang sập đấy, mọi người tránh ra!
Tiếng ho chấm dứt đột ngột, sau đó không có tiếng động gì nữa. Khói cay bay lên trời, quạt mấy cũng không luồn vào trong hang. Batu bảo Bao Thuận Quý: Rủi cho ông rồi! Lại gặp một con sói tự sát. Nó đánh sập hang, tự chôn sống bên trong, ngay cả bộ da cũng không cho ông. Bao Thuận Quý nổi giận, hét: Rỡ đá ra! Tôi phải bắt bằng được con này.
Các thợ săn quá mỏi mệt, không một ai động thủ. Batu lấy ra bao thuốc lá thơm chia cho mỗi thợ săn một điếu, cài vào miệng Bao Thuận Quý một điếu, nói: Mọi người đều biết ông không vì bộ da mà diệt sói. Ông muốn trừ hoạ sói. Giờ con sói chết rồi, như vậy là đạt yêu cầu rồi phải không ông? Ta có một nhúm người, đào đến sáng mai cũng không xong. Mọi người có thể làm chứng: Ông đã đuổi được một đàn sói, diệt hai con: buộc một con nhảy xuống vực, một con chết ngạt trong hang. Với lại, da mùa hè bán không được mấy đồng... Batu quay lại hỏi: Mọi người làm chứng được không? Tất cả đồng thanh: Đồng ý! Bao Thuận Quý cũng đã thấm mệt, ông ta hút một hơi thuốc, nói: Nghỉ một lát rồi về!
Dương Khắc đứng lặng trước cửa hang, linh hồn cậu như đã bị đá đè nát, toàn thân rã rời. Cậu những muốn quì xuống vái đống đá theo nghi thức tôn vinh tráng sĩ của người Mông Cổ, nhưng cậu vẫn đứng yên. Cậu xin Batu một điếu thuốc, rít mấy hơi rồi hai tay nâng điếu thuốc lên quá đầu, cậu lạy đống đá ba lạy, sau đó cắm điếu thuốc vào kẽ đá. Đống đá đã trở thành nấm mồ, làn khói nhạt lững lờ bay lên không trung, đem theo linh hồn bất khuất của con sói mẹ lên trời xanh.
Đám thợ săn đứng lên. Họ không cắm điếu thuốc vào kẽ đá như Dương Khắc đã làm. Người Mông Cổ coi điếu thuốc hút dở là không còn tinh khiết để tế thần, nhưng họ cũng không trách cứ Dương Khắc. Họ tắt thuốc, đứng nghiêm, ngửa mặt nhìn trời, ánh mắt thành kính tiễn linh hồn sói mẹ lên thiên quốc. Bao Thuận Quý không dám hút tiếp cho đến khi điếu thuốc cháy ta.
Batu nói với Bao Thuận Quý: Như ông đã thấy, kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ai cũng như hai con sói này, có chết cũng khiến kẻ thù kinh hồn táng đởm. Là con cháu người Mông Cổ gốc thảo nguyên, ông cũng nên tôn kính thần linh người Mông mới phải.
Dương Khắc trong lòng cảm khái, cậu nghĩ: Chết cũng là chiến đấu, sói tổ đã bồi dưỡng nên biết bao võ sĩ Mông Cổ. Thời xưa, người Hán đông gấp mấy trăm lần Mông Cổ, nhưng cung đình cũng như trong dân theo một triết lý chết vinh không bằng sống nhục, lối sống thực dụng của tộc nông canh Hoa Hạ ấy duy trì cho đến bây giờ. Chết vinh không bằng sống nhục trở thành tinh thần dân tộc, và cái loại tinh thần dân tộc đó đã đẻ ra bao nhiêu là Hán gian, ngụy quân, khiến dân du mục khinh bỉ và e ngại. Từ cuối đời Đường trở đi, người Hán không ngóc đầu lên nổi, liên tiếp trở thành vong quốc nô. Thời đại huy hoàng Tần Hoàng Vũ Đế Đường Tôn đi đâu rồi? Phải chăng là vì những đàn sói ở đại lục đã bị người Hán tiêu diệt sạch từ giữa và cuối đời Đường? Dương Khắc lại có một vấn đề mới để thảo luận suốt đêm với Trần Trận.
0O0
Khi đội săn sắp về tới khu lều, Bao Thuận Quý bảo Batu: Cậu về trước đun nước sôi, tôi đi bắn thiên nga. Tối nay ta nhậu. Dương Khắc hốt hoảng kêu: Ông chủ nhiệm, cháu van ông, không được bắn thiên nga! Bao Thuận Quý không ngoảnh lại: Tôi phải bắn một con thiên nga để giải sui mấy ngày hôm nay.
Dương Khắc đuổi theo can ngăn, nhưng ngựa Bao Thuận Quý chạy nhanh, thoáng cái đã tới bên hồ. Các loài thủy cầm không đề phòng người có súng, vẫn bay là là trên mặt hồ. Từ bãi sậy bay lên bảy tám con thiên nga lớn y như những chiếc máy bay rời đường băng, vọt lên cao, từng đôi cánh rộng bay tới trước mặt Bao Thuận Quý. Dương Khắc đuổi chưa đến nơi, Bao Thuận Quý đã nổ liền ba phát, con thiên nga trắng rơi ngay trước mặt Dương Khắc. Con ngựa Dương Khắc giật mình hất cậu ngã xuống bãi cỏ ven hồ.
Con thiên nga giãy giụa trên bãi cỏ. Dương Khắc đã nhiều lần trông thấy cái chết thảm của con thiên nga trong vở kịch, nhưng con thiên nga trước mặt không được ung dung thanh nhã như con thiên nga trong kịch, mà như con ngỗng bị cắt tiết, chân giẫy đạp, đôi cánh đập đập cố đứng lên, bản năng sống khiến nó giãy giụa cho tới khi chết hẳn. Dương Khắc mấy lần định bế nó lên nhưng đều vồ hụt. Cậu giương mắt nhìn dòng máu mảnh mai tia xuống cỏ, cho đến giọt cuối cùng.
Cuối cùng, Dương Khắc bế con thiên nga lên, cơ thể mềm mại của nó hãy còn ấm, cái cổ xinh đẹp không thể đánh một dấu hỏi đầy sức mạnh nữa, nó như con bạch xà bị rút xương sống, mềm oặt, những chiếc lông nhuốm máu bay tản mát bên hồ lần đầu tiên in dấu chân người. Dương Khắc thận trọng nâng đầu con thiên nga, đồng tử trong mắt nó phản chiếu trời xanh, như ông trời đang mở to cặp mắt phẫn nộ. Cậu ứa nước mắt, cái sinh mệnh cao quý, cánh bằng vạn dặm đem lại cho con người biết bao ước mơ cháy bỏng, giờ bị người ta giết như giết một con gà rừng.
Dương Khắc bi phẫn khó nén, cậu những muốn nhảy xuống hồ bơi vào bãi sậy báo động cho đàn thiên nga. Ráng chiều vừa tắt, ngồi bên nồi thịt thiên nga chỉ mỗi Bao Thuận Quý, không ai nói chuyện với ông ta. Đám thợ săn ăn cơm với thịt lợn rừng, Dương Khắc tay càm dao run bắn khi xẻo thịt.
Đàn thiên nga kêu ai oán suốt đêm trên hồ.
0O0
Nửa đêm, Dương Khắc bị đàn chó học tiếng sói tru đánh thức. Chó nhà không tru nữa, cậu mơ hồ nghe có tiếng sói tru thê thảm ngắt quãng. Tiếng tru yếu ớt của con sói xuyên qua trái tim cậu. Con sói già chưa bị đá đè chết, mình đầy vết thương, nó bò suốt đêm lên núi. Lúc này, chắc chắn nó đang đứng trước một người vợ quá cố cất tiếng tru thảm thiết, đau xót, không thiết sống. Có thể nó định bới đất đá cố nhìn lần cuối người bạn đời, nhưng không còn hơi sức. Tiếng kêu của con thiên nga mất vợ hòa với tiếng tru của con sói già mất bạn đời hợp thành "khúc bi tráng trên thảo nguyên", thê thảm hơn, đau thương hơn "khúc ca bi tráng" của Traicopxki.
Dương Khắc nước mắt đầm đìa cho tới lúc rạng sáng.
Mấy hôm sau, Saxuleng từ trụ sở mục trường trở về, nói Bao Thuận Quý chất đầy nửa xe com măng ca những khóm bạch thược, chở lên thành phố.