Tifiner "Tiểu sử những kẻ chinh phục thế giới" - Quyển Thượng.
Gió xuân ấm và ẩm ướt thổi trên thảo nguyên Ơlon, từng cụm mây trắng đến lóa mắt sà thấp, thảo nguyên đơn điệu bỗng trở nên linh hoạt, lúc sáng lúc tối, lúc vàng lúc trắng, đổi màu liên tục như ảo đăng. Khi đám mây lớn che khuất mặt trời, Trương Kế Nguyên cảm thấy khắp người nổi gai vì lạnh. Nhưng khi đám mây bay đi, cái nắng gay gắt như nắng đầu hạ, khiến mặt và chân tay cậu toát mồ hôi, ngay cả áo ngoài cũng khét mùi nắng. Cậu đang cởi khuya áo để hóng gió thì một đám mây lớn lại che khuất mặt trời, đưa cậu trở lại cái rét âm của mùa xuân.
Băng đã mềm ra, tuyết đã tan, từng vạt đất cỏ màu vàng lộ ra. Mầm cỏ xuân nhú sớm bị tuyết vùi có màu vàng, chỉ chỗ nhọn thoáng chút xanh. Không khí sặc mùi cỏ úa, các rãnh nhỏ đầy nước tan từ tuyết. Từ trên đỉnh dốc nhìn xuống cánh đồng, những chỗ trũng và ao hồ đều đầy nước, hàng trăm hàng ngàn những hồ ao như thế soi bóng những đám mây trắng bay qua. Mây trắng trên trời, mây trắng dưới nước bay qua từ phía sau lưng.
Trương Kế Nguyên và Batu mai phục trong những bụi cỏ vồng đã hơn một tiếng đồng hồ. Họ đang đợi sói. Sự cố đàn ngựa và chuyện đưa tin rởm khiến uy tín của anh sa sút nghiêm trọng, anh chuyển hướng cơn giận sang đàn sói. Trương Kế Nguyên cũng để lỡi thời cơ tại bãi vây, giờ muốn lấy lại ảnh hưởng. Hai người sau khi nghỉ ngơi vài ngày, đem theo hai khẩu bán tự động trở lại sườn dốc bên đầm lầy. Batu đoán đàn sói tiếc những con ngựa chết dưới đầm lầy, tuyết đã tan, băng đã tan, nhưng vẫn có thể lôi những con ngựa bên rìa đầm lên để ăn. Lúc này mà đàn sói không hành động thì chúng không còn dịp nào nữa.
Những vũng nước lúc sáng lúc tối tiếp tục làm lóa mắt. Hai người vừa lau nước mắt, vừa chĩa ống nhòm sang con dốc phía đối diện, quan sát kỹ từng chấm đen, chấm nâu, chấm vàng. Bỗng Batu cúi xuống nói nhỏ: Nhìn dốc bên trái. Trương Kế Nguyên nhẹ nhàng chuyển động ống nhòm, cố trấn tĩnh nhưng vẫn không nén được tâm trạng hồi hộp. Cậu trông thấy hai con sói lớn đang chậm rãi đi tới, thoạt tiên là cái đầu, sau đến cổ và ức.
Hai người bám sát con mồi. Hai con sói từ phía sau dốc ló ra đến quá nửa thân thì dừng lại, quan sát tỉ mỉ những chỗ khả nghi trong tầm mắt. Chúng không tiến lên nữa, mà nấp sau những bụi cổ vồng, nấp kỹ, y như chúng cũng là thợ săn. Hai người, hai con sói đều nấp sau những bụi cỏ vồng đợi thời cơ. Trương Kế Nguyên nhận thấy những người đi săn chuyên chọn những bụi cỏ cao để nấp, chính là học từ sói. Hai con sói không vội, chúng đợi xem con người giở trò gì. Sói đủ kiên nhẫn đợi trời tối mới hành động.
Cỏ vồng là cái tên đám thanh niên trí thức đặt cho một loại cỏ thường gặp trên thảo nguyên Mông Cổ, rất đẹp và rất lạ. Trên mặt đất phẳng hoặc trên sườn dốc đột nhiên mọc lên những bụi cỏ cao ngang ngực, thẳng đuỗn, đều tăm tắp, trông giống những cây lúa nước hoặc những cây lau cạn. Sang thu, chúng nở đầy hoa trắng như bông lau, nhìn ngược ánh sáng, chúng như lông vũ thiên nga, dưới ráng chiều, chúng lấp lánh như những đốm lửa. Trên mặt bằng thấp, chúng nổi lên như những đàn hạc, đàn gà, đập vào mắt hơn những bông hoa dại nở khắp đồng. Sang đông, lá và bông bị gió cuốn đi, nhưng thân cỏ thì kiên cường trụ lại, và cũng như sói, uốn không cong, đè không gãy, bảo không nghe. Bạch mao phong có thể đè rạp chúng xuống, nhưng gió ngừng thổi là chúng lại đứng dậy, chĩa thẳng lên nền trời xanh. Từng búi như vương miện của quốc vương châu Âu. Mục dân dùng thân chúng làm chổi quét nhà hoặc chổi bếp, đẹp và bền.
Cỏ vồng không chỉ đẹp mà còn rất lạ. Lạ ở chỗ mọc từng khóm một. Cỏ vồng, thân mọc thành vồng, bên ngoài ken dày, bên trong rỗng, trông như cái rèm bằng cây sậy, chu vi tròn như vẽ bằng compa rồi gieo hạt trông theo đường tròn, to có nhỏ có. To thì đường kính hơn một mét, nhỏ đường kính chỉ hai tấc. Mục dân cần nghỉ ngơi, xuống ngựa ngồi đè lên một nửa, phần ngồi lên trở thành cái đệm mềm mại có tính đàn hồi, phần không bị đè lên, trở thành tay vịn và tựa lưng. Trong lều Mông Cổ không có sôpha, nhưng trên thảo nguyên bất cứ chỗ nào đều có ghế sôpha để ngồi. Đám trí thức Bắc Kinh lên thảo nguên thích ngay cỏ vồng, có cậu đặt luôn cho cái tên "cỏ sôpha", "cỏ ghế tựa".
Trên thảo nguyên trơ trọi, cỏ vồng với hình dáng đặc biệt, đã trở thành nơi trú ngụ trời cho. Các bậc anh hùng trên thảo nguyên thoạt trông tưởng như nhau, nhưng sói mới là kẻ thống trị đầu tiên, và cũng là kẻ đầu tiên phát hiện và sử dụng cỏ vồng. Batu bảo, sói thường nấp trong đám cỏ vồng, tập kích dê vàng đi qua hoặc cừu của người. Trương Kế Nguyên từng thấy phân sói trong khóm cỏ vồng, xem ra chúng rất thích loại cỏ này. Ông Pilich nói cỏ vồng do trời sai xuống để cho sói che thân.
Lúc này người và sói đều ẩn nấp rất có nghề. Sói không nhìn thấy người. Người cũng không thể ngắm bắn sói. Sói bị người phát hiện trước, nhưng Batu còn phân vân, Trương Kế Nguyên cũng còn lo, liệu hai người có bị con sói khác nấp trong khóm cỏ vồng đối diện phát hiện trước?
Chơi nhau với sói trên thảo nguyên, phải luôn tâm niệm câu "chuyện gì cũng có thể xảy ra". Đây là điều lệnh cơ bản nhất mà sói dạy cho các chiến sĩ Mông Cổ trên thảo nguyên.
Batu chỉ nghĩ, chưa hành động, tiếp tục quan sát địa hình dốc núi đối diện, chỉ cho Kế Nguyên ghi nhớ đặc điểm con dốc bên cạnh. Hai người lẳng lặng lùi xuống cởi dây buộc chân ngựa, nhẹ nhàng dắt ngựa xuống chân dốc, đi một quãng xa, mới nhẹ nhàng lên yên, từ chỗ ngược gió đi vòng qua chỗ hai con sói ẩn nấp. Ngựa đi trên đất ẩm không gây tiếng động, gió thổi ù ù che giấu hành tung của người và ngựa. Trương Kế Nguyên cảm thấy hai người như hai con sói tập kích cừu.
Trên đường đi, Batu phân biệt kỹ lưỡng hình dáng mắt bên của cái dốc. Nửa giờ sau, hai người đã tới chỗ sau dốc rất gần hai con sói. Batu một lần nữa nhận diện mấy hòn đá và bụi cỏ trên đỉnh dốc mới xuống ngựa, chậm rãi dắt ngựa lên dốc. Khi gần tới đỉnh, Batu buộc chân trước con ngựa bằng một nút buộc sống. Trương Kế Nguyên hiểu ý, cũng thắt một nút sống vào chân con ngựa của cậu.
Hai người mở chốt an toàn, khom người đi lên, lặng lẽ tiếp cận đỉnh dốc. Lên tới đỉnh, hai người bắt đầu bò cho tới khi trông thấy sói. Lúc này, đuôi và nửa thân sau của sói, nhưng đầu, ngựa và bụng sói thì vẫn bị che khuất, con sói như chó đã thuần dưỡng nhốt trong một lồng chim lớn.
Xem ra hai con sói vẫn để ý cái nơi hai người nấp hồi nãy. Chúng ngẩng đầu lên quan sát động tĩnh, hai tai dựng lên xoay theo hướng khả nghi. Tuy vậy sói vẫn không ngơi cảnh giác các hướng khác, luôn hếch mũi lên trời đánh hơi sự nguy hiểm trong không khí.
Batu nhường Trương Kế Nguyên con đường gần hơn bên trái, còn anh đi xa hơn. Gió thổi ào ào, những khóm cỏ vông uốn rạp hình cánh cung, để lộ thân sói. Sau khi chớp mắt, Trương Kế Nguyên không nhìn thấy con sói đâu nữa.
Hai người đợi cái khoảnh khắc gió uốn rạp cỏ. Batu dặn đi dặn lại Trương Kế Nguyên, khi anh nổ súng thì cậu ta lẩy cò. Trương Kế Nguyên không cảm thấy căng thẳng. Cậu có bắn trượt thì Batu sẽ bồi luôn mấy phát. Batu là tay thiện xạ nổi tiếng mục trường, trong khoảng 200 mét con mồi khó thoát. Nghe thợ săn kể, sói thảo nguyên Ơlon thấy người đeo súng cách 500 mét không chạy, cách 400 mét không chạy, cách 300 mét không chạy. Sói có thói quen này là do Batu. Lúc này sói chưa tới 200 mét, Trương Kế Nguyên có thể bình tĩnh mà ngắm mục tiêu.
Đúng lúc gió dịu, cỏ vươn dậy để lộ sói ra thì từ khóm cỏ vồng bên cạnh mục tiêu, một con sói mảnh mai chui ra, chạy xuống dốc, ngay trước mắt hai con sói lớn. Hai con sói lớn bật dậy như bị rắn đớp, đầu cúi gằm, chúng chạy theo con sói kia sang dốc tay bắc. Rõ ràng là con sói kia là lính gác và là vệ sĩ cho hai con sói lớn, đảm nhiệm canh gác phía sau, khi người nhìn rõ sói thì cũng là lúc sói nhìn thấy người. Sói mà có cảnh vệ không phải chuyện đùa. Lớn nhất là con đầu đàn. Ba con sói chọn con dốc hiểm nhất lao xuống phía dưới.
Batu vọt dậy hò lên ngựa. Hai người chạy về bên kia dốc, lên ngựa đuổi theo. Qua đỉnh là một con dốc hiểm đến nỗi Trương Kế Nguyên hét: Ôm chặt cọc yên mà xuống! Batu thì không sợ, anh coi thường nguy hiểm, dũng mãnh như một chiến sĩ Mông Cổ, anh kẹp chặt ngựa lao xuống dốc.. Trương Kế Nguyên thoáng nghĩ: Liều mạng hoặc sợ vỡ mật là lúc này đây! Cậu nghiến răng nhả cương cho con ngựa lao xuống. Xuống dốc hiểm là điều tối kỵ của thuật cưỡi ngựa, nhất là dốc hiểm tự nhiên, không lường được khi nào vấp phải hang chuột, hang thỏ hoặc hang chuột. Bước hụt là người ngựa ngã lăn, không chết cũng bị thương. Trịnh Lâm, mã quan tổ ba xuống dốc không kìm được, ngựa quỵ chân trước, người bay lên cao, vỡ xương chậu, còn bị con ngựa đè lên người, lúc này đang chữa trị tại Bắc Kinh. Nếu như đập đầu xuống đất, chắc đi suốt.
Trương Kế Nguyên rất mê nghề chăn dắt ngựa. Cậu thấy nghề này tính cách đàn ông nhất, dũng cảm nhất thế giới. Mã quan Mông Cổ là chiến sĩ thời binh, là dũng sĩ thời chiến. Phụ nữ Mông Cổ dù can đảm hơn cả đàn ông người Hán, nhưng ở Ơlon chưa bao giờ có một mã quan là nữ. Cuộc sống du mục hàng ngàn năm nay, một đàn ngựa Mông Cổ chỉ bố trí hai mã quan, từ khi đám thanh niên trí thức về, thêm một mã quan là thanh niên trí thức, mục đích là để thử viện. Nhưng đã hơn hai năm, trong bốn mã quan thanh niên trí thức của đội Hai, một bị thương cho rút, một không chịu được khổ, không can đảm nên cho chuyển sang công việc khác, trước mắt chỉ một có triển vọng trở thành mã quan chính thức, nên bố trí cùng hai mã quan Mông Cổ trông nom một đàn ngựa. Hai mã quan thanh niên trí thức người Hán trông nom một đàn ngựa riêng rẽ là chuyện động trời, đám thanh niên trí thức chưa bao giờ dám nghĩ tới, Trương Kế Nguyên cũng thế, nhưng cậu rất muốn trở thành mã quan, rồi đây sẽ cùng Batu hoặc Lanmutrac cai quản một đàn ngựa. Trước mắt cậu chỉ là chân học việc.
Hai năm dãi dầu sương gió, Trương Kế Nguyên hiểu rằng, cắn răng lại cậu có thể chịu được khổ, có thể học được kỹ thuật chăn ngựa cực kỳ cao siêu, thiếu chăng là thiếu sự can đảm trong việc thuần dưỡng những con ngựa bất kham hoặc ngựa hoang hung dữ. Không làm nên chuyện trong trận bủa vây là do cậu thiếu dũng khí. Cậu nhớ rất rõ khi cậu rung sào tung thòng lọng, thì trước đó tim đã đập loạn xạ.
Trương Kế Nguyên liều mạng! Cậu liền vì muốn trở thành một mã quan thực thụ. Lúc này cậu muốn thử nghiệm bản thân, xem mình có còn cái khí phách của dân tộc Hoa Hạ thời Hán Đường truy quét Hung Nô, tiễu trừ Đột Quyết?
Con ngựa lao xuống dốc như từ trên vách núi nhảy xuống vực, người và ngựa như đang rơi tự do, lưng ngựa dốc đến nỗi người không thể ngồi thẳng. Cậu một tay bám chặt cọc yên, ngả người ra sau gần như dán lưng trên mông ngựa, hai chân thẳng băng trên bàn đạp áp sát tai ngựa, hai chân kẹp chặt hai bên mỏm yên. Đó là động tác duy nhất khó thực hiện nhưng bảo đảm tính mạng cho kỵ sĩ. nếu như lúc này tỏ ra mềm yếu, chắc chắn hồn cậu sẽ lên trời. Sau đó mấy hôm cậu trở lại chỗ này, mới phát hiện có đến bảy tám cái hang chuột, sợ toát mồ hôi. Batu bảo, trời rất thích những người dũng cảm, nên xê dịch những cái hang đó, ngựa không bước hụt.
Xuống đến chân dốc, Trương Kế Nguyên thấy cậu chỉ cách Batu nửa thân ngựa. Batu ngoảnh lại nhìn cậu, cười khoái trá. Trương Kế Nguyên cảm thấy nụ cười của Batu quý hơn vàng ròng.
Dân chăn ngựa Ơlon có đặc điểm là thắng kiêu, bại nản. Hai con ngựa thấy chỉ một con dốc đứng đã rút ngắn một phần ba khoảng cách với hai con sói thì như được tiêm một liều đôpinh, vọt lên với tốc độ dê vàng, rút ngắn thêm một đoạn đường dài trước khi sói lên tới đỉnh dốc. Batu nhìn thoáng sói và địa hình nói: Chúng sắp chia hai ngả. Con nhỏ ta cho qua. Truy kích hai con lớn. Lát nữa cậu xem tôi bắn con nào, cậu liền nhắm phiến đá trước mặt con ấy mà nổ súng, bắn con bên phải trước. Hai người giương súng đợi. Ngựa chạy nhanh nhưng thân ngựa không lắc, rất dễ ngắm bắn. Ba con sói đã nghe thấy tiếng đuổi gấp nên tăng tốc lên đỉnh dốc. Ngựa và sói không chạy được lâu với tốc độ cao. Batu đợi con sói chạy rẽ ngang, chạy thẳng mục tiêu nhỏ, rẽ ngang mục tiêu lớn. Khi chia đường, một con rẽ ngang là lúc nổ xuống.
Ba con sói thấy không bứt khỏi cuộc truy kích thì hơi hoảng. Hình như chúng sắp chia đường mà chạy. Chia đường thì tối thiểu có một con không bị đuổi theo. Chạy được ba trăm mét, hai con chạy bên con đầu đàn rẽ sang hai phía. Batu lập tức bắn con lớn bên phải nhưng không trúng. Trương Kế Nguyên nhắm phía trước con đó nổ liền hai phát, một trúng mặt đất, một trúng phiến đá toé lửa, tung lên một đám bụi trắng. Con sói sợ chững lại, chính trong khoảnh khắc đó, Batu nổ súng. Con sói gục xuống, chỗ lưng bung lên một chùm hoa. Trương Kế Nguyên vui sướng reo lên, còn Batu thì buồn rầu than thở: Hỏng rồi, hỏng mất bộ da rồi!
Hai người chỉnh hướng cho ngựa đuổi theo con sói đầu đàn. Batu dặn: Cậu không cần nổ súng, mình sẽ có cách đối pos với nó. Hai con ngựa săn thấy chủ đã hạ được một sói thì vô cùng hưng phấn, leo dốc với tốc độ nhanh nhất. Nhưng lên được mấy chục mét thở không ra hơi, tốc độ giảm dần. Trái lại, sói trổ tài leo núi, càng leo càng khoẻ, bước chân càng dài, bước chân càng tự tin. Batu và trương kế Nguyên vụt liên tiếp lên mông ngựa, còn thúc cực giày vào sườn ngựa. Hai con ngựa ngày thường không bị đòn, giờ sùi bọt mép, phóng như điên. Con sói đầu đàn không giảm tốc độ, càng chạy càng ung dung chững chạc. Batu cúi xem dấu chân sói thấy bước chạy của sói dài hơn bước chạy của ngựa, con sói đầu đàn ngày càng tới gần đỉnh dốc - nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Nếu con sói vượt qua nơi ấy, thợ săn đừng hòng thấy lại nó.
Đúng lúc ấy, Batu hét to xuống ngựa, rồi gò cương. Phàm là ngựa săn, con nào cũng có tuyệt kỹ: Dừng đột ngột. Đây là bản lĩnh rèn luyện được trong quá trình bắt ngựa bằng thòng lọng, đem dùng lúc này rất hợp. Hai con ngựa dừng đột ngột khiến hai người suýt văng khỏi yên theo quán tính. Batu nhân đà nhảy xuống đất, nhanh nhẹn nằm xuống giương súng, nín thở nhằm chuẩn đỉnh dốc. Trương Kế Nguyên cũng nằm xuống giơ súng lên.
Con sói đang chạy như điên, chợt không còn nghe tiếng chân ngựa phía sau, liền cảnh giác dừng lại nghe ngóng. Sói thảo nguyên cổ ngắn, muốn nhìn lại phải xoay hẳn người, với lại bình thường lên dốc phải dừng lại lấy hơi và quan sát lần cuối đường chạy và vị trí kẻ đuổi theo để đối phó. LÚc này trên đỉnh dốc, nơi tiếp giáp giữa trời và đất, hình thù con sói quay ngang hiện lên sắc nét như tranh trổ, to gấp ba lần so với hình dọc theo thân, y hệt tấm bia vẽ con sói trong trường bắn. Đây là thời cơ duy nhất cho thợ săn nổ súng, nhưng phần nhiều sói không cho thợ săn có thời cơ ấy. Nhưng Batu đã lừa cho sói sinh nghi, quay lại xem thợ săn giở trò gì.
Lúc này con sói đã trúng kế. Batu nổ súng, chỉ thấy nó gục xuống rồi không còn thấy trên đỉnh dốc. Batu nói: Rất tiếc! Xa quá không trúng chỗ hiểm. Nhưng nó không thoát đâu, đuổi mau! Hai người phóng ngựa lên đỉnh dốc, chỉ thấy máu vương trên cỏ và đá vụn, không thấy bóng dáng con sói. Dùng ống nhòm cũng không thấy, hai người đành cho ngựa chạy chậm theo vết máu. Trương Kế Nguyên than thở: Giá cho chó đi theo thì hay biết mấy. Nhưng hai người từ đàn, xưa nay trên thảo nguyên, chó lều trại không theo đàn ngựa, chỉ theo dương quan, ngưu quan, không theo mã quan, trừ phi dắt theo.
Phải đuổi gấp.
Vết máu lúc có lúc không, hai người đuổi theo đã hơn một tiếng đồng hồ. Tới một trảng cỏ, hai người đứng sững: Một bàn chân sói xương trắng hếu trên mặt đất, trên đó còn lưu nhiều vết răng sói. Batu nói: Cậu xem, con sói vướng cái chân bị thương, liền cắn bỏ. Trương Kế Nguyên thót tim như bị sói đớp. Cậu nói: Từng nghe tráng sĩ chặt đứt cánh tay khi trúng tên độc, nghe nhưng chưa nhìn thấy. Nhưng sói tự cắn đứt chân thì tôi đã chứng kiến hai lần, lần này là thứ ba. Batu nói: Người có người thế này người thế khác, sói thì con nào cũng tiếc...
Hai người tiếp tục tìm kiếm. Dần dà phát hiện ra, sau khi cắn đứt chân, bước chạy con sói dài hơn. Điều đáng ngại là hình như con sói chạy về phía đường biên phòng, mà phía bắc đường biên là khu vực cấm. Batu nói: Con này lợi hại thật, chúng mình không thể đuổi theo từ phía sau. Hai người chạy tắt lên đường biên phòng.
Càng lên phía bắc cỏ càng cao. Những trảng cỏ màu vàng rơm như những tấm da sói lớn. Trương Kế Nguyên cảm thấy tìm sói trong cái đám "vàng rơm" còn khó hơn tìm cừu non trong đống lông cừu. Trời và người rất khó hợp nhất. Nhưng sói và thảo nguyên thì hòa vào nhau như sữa với nước. Một con sói thọt có thể chạy ngay dưới mũi mà anh không nhìn thấy. Trương Kế Nguyên một lần nữa nhận ra mối quan hệ sâu xa giưa sói và thảo nguyên, giữa sói và đức chúa trời: Mỗi khi gặp nạn nguy hiểm đến tính mạng, con sói lại dựa vào thảo nguyên mà thoát hiểm. Mỗi khi gặp nguy hiểm, thảo nguyên như gà mẹ, xoè cánh ra che chở cho sói. Thảo nguyên và sói như một cặp vợ chồng già khăng khít bên nahu, suốt đời chung thủy. Người Mông Cổ rất mong trung thành với thảo nguyên hơn sói mà vẫn chưa thay thế được vị trí của sói. Vậy mà người Mông Cổ ở mạn nam khai phá thảo nguyên thành ruộng, chuyển đổi chăn nuôi thành trồng trọt ngày càng nhiều. Trương Kế Nguyên không ngờ con sói bị mất một chân mà còn có thể chạy xa và lâu đến thế, bỏ lại người và ngựa phía sau. Cậu không muốn đuổi nữa, cậu cảm thấy có một ông thầy nữa như ông thầy Batu bên cạnh.
Hai con ngựa lúc chạy lúc dừng, dần đã lại sức, lại bắt đầu truy kích. Dãy núi lớn phía bắc ngày càng gần, mà trảng cỏ này chạy dài mãi tới chân núi. Nghe mục dân nói, núi này có nhiều hang động to và sâu, lạnh thấu xương, là căn cứ địa cuối cùng của sói mà không ai làm gì nổi. Nhưng con sói thọt vào đấy rồi sẽ sống như thế nào? Cậu lấy mình để đánh giá sói. Người ta có thể giết hết sói, nhưng không bao giờ hủy diệt được ý chí và tính cách kiên cường của sói.
Cuối cùng, hai con ngựa đã đặt chân lên đường biên phòng. Gọi là đường, thực ra chỉ là một loại đường rất đất để lính biên phòng đi tuần, chính xác hơn là con đường cát. Xe com măng ca và xe tải chuyên chở vật tư xẻ một cái rãnh sâu một mét, toàn bộ con đường là một cái máng chỗ cao chỗ thấp, quanh co khúc khuỷu, xa trông như một con rồng màu vàng đáng sợ chỉ chực bay lên. Vó ngựa tung cát bụi, người và ngựa như biến vào trong sa mạc Gôbi mịt mùng.
Hai người men theo con đường biên phòng chạy về hướng đông, trên đường không thấy dấu chân sói. Vượt qua quả đồi nhỏ, chợt trông thấy nó cách ba chục mét. Nó đang bên rìa đường phía bắc, khó nhọc trèo lên gờ đường. Bình thường chỉ một bước nhảy là qua, vậy mà giờ đây gờ đường trở thành cái ngưỡng cuối cùng không thể vượt của cuộc đời! Con sói trèo không qua, nó co rúm khi ngã xuống, chỗ chân đau đụng cát.
Xuống ngựa! Batu vừa nói vừa nhảy xuống mặt đường. Trương Kế Nguyên cũng xuống ngựa. Cậu sốt ruột quan sát từng động tác của Batu và cây gậy sắt nặng trịch bên yên ngựa. Nhưng Batu không gỡ cây gậy, cũng không tiến lên. Anh thả cương cho con ngựa đi ăn cỏ, còn anh thì ngồi xuống gờ đường lấy ra bao thuốc rút một điếu đưa lên miệng, lặng lẽ châm lửa hút. Qua làn khói, Trương Kế Nguyên thấy mắt anh có vẻ đăm chiêu. Cậu cũng xuống ngựa tới ngồi bên Batu, hỏi xin một điếu thuốc, hút chậm rãi.
Con sói mệt nhọc lật nghiêng người ngồi dậy, đám máu trước ngực dính đầy cát. Nó nhìn hai kẻ đuổi theo bằng ánh mắt điên dại. Nó chưa quên đẳng cấp và thói quen, rùng mình mấy cái để giũ cát và cỏ rác bám trên người, sạch sẽ và oai vệ như cũ. Nhưng nó không kìm được cái chân đau co lên trước ngực, chốc lại run lên bần bật, nhưng cặp mắt thì hung hãn lạ thường. Nó thở dốc, gắng thu gom sức lực cuối cùng để liều mạng. Trương Kế Nguyên cảm thấy cậu không dám nhìn thẳng vào mắt con sói. Trên thảo nguyên cổ kính, đứng trên lập trường thảo nguyên, chính nghĩa hình như đã thuộc về sói!
Batu ngừng hút thuốc, đăm chiêu nhìn con sói, ánh mắt đầy vẻ hối lỗi của một học sinh đã lỡ làm tàn phế thầy giáo của mình. Con sói thấy rất lâu không hạ thủ, liền dùng một chân bới gờ đất. Đất mặt không dày, chỉ ba mươi phân là tới cát và đá cuội. Rồi thì nó bưới được một chỗ, mảng cỏ lăn xuống, gờ đường sụt một đoạn nhỏ, con sói trườn lên rồi cà nhắc cà nhót chạy về phía con đường phòng hỏa và mốc giới.
Phía bên này đường phòng hỏa, trạm phòng cháy dùng xe ủi một dải dài theo đường biên giới, rộng khoảng trăm mét. Dải này năm nào cũng cày xới, nhưng đã bị xa mạc hóa, không mọc được bất cứ cây gì, chỉ có tác dụng ngăn lửa từ phía bên kia biên giới cháy sang hoặc những đám cháy từ phía bên này. Dân du mục chỉ chấp nhận con đường này. Người già ở thảo nguyên Ơlon nói, đây là mặt tốt duy nhất của nông khẩn.
Bụi đỏ trên đường bốc lên trong gió tây trông còn đáng sợ hơn lửa đồng, may mà nó chỉ là một dải.
Con sói vừa chạy vừa nghỉ một hồi rồi chui vào đám cỏ cao, tiếp tục tiến lên, trước mặt nó, không còn gờ đất nào nữa.
Batu đứng dậy lặng lẽ nhìn theo hồi lâu rồi cúi xuống nhặt mẩu thuốc lá trên cát tắt đi bằng nước bọt, lại dùng ngón tay chọc một lỗ trên cát chôn hai mẩu thuốc, nén chặt, bảo Trương Kế Nguyên: Phải tập thành thói quen. Dứt khoát không được ẩu trên thảo nguyên. Rồi anh đứng lên: Về thôi, về tìm con sói bị bắn chết!
Hai người lên ngựa chạy gấp về Ơlon. Tuyết tan, chân ngựa nhẹ tênh, hai người không nói gì trên đường về.