Lúc mới đến, tôi nhìn thấy một con kỳ đà (người Thái tin rằng con vật này luôn mang lại sự xui xẻo, tai ương) đang bò vào nhà chị ấy nhưng hình như nó bị người ta chém ở giữa lưng tạo thành một viết thương nham nhở. Thấy thế tôi kêu lên kinh ngạc:
“Ôi kỳ đà bò vào nhà!”.
Người lớn trong nhà bảo tôi không được phép kêu lên như thế vì sẽ rất xui xẻo. Nhưng vì không biết nên tôi đã lỡ kêu lên mất rồi. Bạn trai của chị Lếc thấy chị ốm nặng cũng không về nhà nữa. Bố mẹ chị kể lại hắn gói ghém quần áo bỏ đi nơi khác ở lâu rồi. Tội nghiệp chị đã bị hắn bỏ rơi!
Tôi và chị Ổ không cầm được nước mắt khi thấy tình trạng bệnh tật của chị Lếc. Chúng tôi vừa khóc vừa hỏi:
“Sao bác không thử đưa chị đến gặp các vị hòa thượng trong chùa nhờ khám cho?”.
Bố mẹ chị nói rằng họ không quen biết vị hòa thượng nào ở đây cả vì họ cũng chỉ mới đến Pattaya. Tôi và chị Ổ phải đi mời hòa thượng ở chùa Chaya Mongkol ở Pattaya Klang về làm lễ cúng tại nhà. Vị hòa thượng này biết nói tiếng Campuchia. Khi thấy những hành động kì lạ của chị Lếc, vị hòa thượng tỏ ra rất lo lắng. Ngài ngồi nhìn chị Lếc một lúc rồi nói tiếng Campuchia với chị, đại loại là hỏi người đó là ai, đến từ đâu, tại sao lại làm hại cơ thể của chị Lếp như vậy?
Thật không ngờ chị Lếc lại có thể nói chuyện bằng tiếng Campuchia với vị hòa thượng đó một cách trôi chảy trong khi thực tế chị không biết tiếng Campuchia. Sau khi nói chuyện được một lúc, vị hòa thượng quay lại giải thích cho chúng tôi hiểu rằng trong cơ thể của chị Lếc bây giờ không phải là con người cũ nữa, mà có một bọn quỷ Khơ Me nhập vào và đã ăn hết nội tạng của chị rồi. Đây là chuyện rất bí hiểm khó tin mà tôi chưa từng được chứng kiến. Vị hòa thượng nói vị pháp sư người Campuchia đã nhiều lần gửi con kỳ đà đến nhắc nhở chị Lếc về việc thực hiện lời hứa với ông ta nhưng chị Lếc vẫn cố tình lờ đi. Hôm nay, ông ta chính là người đã gửi con kỳ đà bị chém nham nhở ở lưng mà tôi đã trông thấy khi vừa đến nhà chị. Đây là dấu hiệu cảnh báo rằng chị Lếc phải bị trừng phạt vì đã vi phạm lời hứa. Thật kỳ lạ khi vị hòa thượng nhắc đến con kỳ đà, vì trên thực tế ngài đã không nhìn thấy nó. Nhưng ngài đã nói đúng. Bố mẹ của chị Lếc cũng xác nhận với chúng tôi là nhiều ngày nay rất hay thấy kỳ đà vào nhà, nhưng họ chỉ nghĩ có lẽ chúng đến ăn thức ăn thừa sau nhà, hôm nay là lần đầu tiên trông thấy một con bị chém ở lưng.
Về thỏa thuận mà chị Lếc đã hứa với pháp sư, vị hòa thượng nói tiếp rằng khoảng hai tháng trước chị Lếc có đến làm lễ xin bùa từ một vị pháp sư người Campuchia. Chị cầu xin ngày nào cũng có khách, xin gặp được người sẽ nuôi nấng, chu cấp cho chị. Vị pháp sư đó đã đồng ý và hỏi chị: “Còn muốn gì nữa không?”. Chị Lếc nói: “Muốn có một ngôi nhà và có một triệu bạt trong tài khoản ngân hàng”. Vị pháp sư đồng ý nhưng buộc chị phải hứa rằng nếu chị đạt được những điều nêu trên thì phải chia cho ông ta một nửa số tiền kiếm được. Cuối cùng, chị Lếc cũng đã đạt được mọi điều mình mong muốn nhưng chị lại quên lời hứa với pháp sư, có lẽ vì thấy tiếc của nên đã không đưa tiền cho ông ta. Từ đó, tình trạng bệnh của chị ngày một xấu dần. Nghe kể mà thực sự tôi không thể tin nổi!
Nhưng tôi phải tin vì chính tôi là người đã chứng kiến tận mắt mọi việc xảy ra. Vị hòa thượng nói với xác của chị Lếc rằng:
“Bần tăng muốn được xin lại mạng sống của cô Lếc có được không? Rồi bần tăng sẽ bắt cô ấy thực hiện lời hứa sau khi khỏi bệnh”.
Nhưng vị pháp sư Campuchia chỉ khăng khăng muốn lấy mạng sống của chị, quan trọng là lúc này cơ thể của chị Lếc bị ăn hết nội tạng, kiểu gì cũng không thể sống được. Vị hòa thượng nói rằng những hành động lạ của chị Lếc đang làm như là việc lấy tay xoa miệng như đang bôi sáp nẻ hay kéo sợi là do vị pháp sư người Campuchia kia đã đưa hai vật thần bí cho chị sau khi làm lễ cúng, đó là một sợi chỉ dùng để kéo sợi, hàng ngày trước khi đi làm phải khấn câu “sảo đai sảo au”[2] và vật nữa là sáp ong bôi lên miệng rồi kèm theo lời khấn: “Xin cho con được thỏa nguyện”.
[2] “sảo đai sảo au”– là một câu thần chú, dịch từ tiếng Thái có nghĩa là “lấy được bao nhiêu thì cứ lấy”
Sau đó, vị hòa thượng nói, bây giờ ngài không thể giúp gì được cho chị Lếc vì pháp sư này có pháp thuật rất cao siêu, bản thân ngài không thể hóa giải được. Ngài giới thiệu cho chúng tôi đưa thi thể chị Lếc đến gặp sư phụ của ngài, là một hòa thượng khác trong chùa gần Bang Phli. Tôi cũng không nhớ là chùa Bang Bo hay Bang Phili Nai vì thời gian trôi qua cũng đã khá lâu rồi. Chỉ nhớ ngôi chùa đó nằm gần một con kênh. Vị hòa thượng nói, sư phụ của ngài rất tài giỏi nên muốn giới thiệu cho chúng tôi để chữa trị bệnh cho chị Lếc.
Chúng tôi rời Pattaya từ lúc đầu giờ chiều đến khoảng ba giờ chiều thì tới Bang Phli. Chúng tôi hỏi thăm tìm sư cụ và được một vị sư khác đưa đi gặp. Chúng tôi kể lại câu chuyện cho sư cụ nghe. Nghe xong, sư cụ sai tôi đi mua ba quả trứng. Chính tôi là người tự tay đi mua. Lúc đó ba quả trứng có giá năm bạt. Sau đó, sư cụ bắt đầu làm lễ và nói chuyện với thi thể của chị Lếc bằng tiếng Campuchia. Sau khi nói chuyện xong, sư cụ quay ra nói với chúng tôi rằng vị pháp sư Campuchia này khăng khăng đòi lấy mạng chị Lếc bằng được. Ngài còn nói, thực tế thì chị Lếc đã chết từ lâu, chúng tôi nhìn thấy bây giờ chỉ là phần xác của chị, còn thứ nằm trong cơ thể đã không còn là của chị nữa rồi. Nội tạng đã bị bọn quỷ ăn hết rồi. Sư cụ không thể làm gì giúp chị được nữa ngoài việc lấy ra khỏi cơ thể chị một chút tà ma, đó là đinh dùng để đóng quan tài, sợi tóc và huyết tương của oan hồn đã chết. Chúng tôi nghe xong cũng không muốn tin đó là sự thật.
Tiếp theo, sư cụ bắt đầu làm lễ bằng cách để chị Lếc nằm xuống sàn nhà rồi dùng nước thánh đựng trong một chiếc bình lớn vẩy làm phép. Sau đó, đem trứng gà mà tôi đã mua, huơ bên trên đầu của chị Lếc rồi sư cụ lấy quả trứng đó đập ra một cái đĩa đã được chuẩn bị sẵn. Không thể tin được rằng thứ mà tôi nhìn thấy trong quả trứng được đập ra đó chỉ toàn là tóc. Quả thứ hai cũng như vậy, được huơ trên đầu gối chị, khi đập ra chỉ toàn huyết tương mà thôi, không hề có một chút lòng đỏ trứng nào. Quả thứ ba sư cụ đem huơ trên đầu ngón chân chị, lần này khi đập trứng ra chỉ có toàn đinh, có đến năm sáu chiếc đinh trong đó. Tôi không thể tin được nhưng đó lại là sự thật!
Cho đến nay, tôi cũng không tin vào thế giới tâm linh cho lắm. Nhưng mỗi lần nghĩ đến chuyện này tôi vẫn luôn tự nhắc nhở mình: “Ma thuật là có thật và nhất định không được coi thường nó”.
Làm phép thuật xong, sư cụ nói với chúng tôi:
“Các thí chủ phải chấp nhận thôi, chủ nhân của cơ thể cô ấy chết từ lâu rồi. Thứ mà thí chủ nhìn thấy là do pháp sư muốn để nội tạng của cô ấy bị ăn bằng hết trước khi trút hơi thở cuối cùng. Bần tăng không thể giúp gì cho cô ấy được nữa. Bần tăng chỉ có thể lấy ra khỏi cơ thể cô ấy một chút tà ma và cũng chỉ là một phần rất nhỏ mà thôi. Khi hỏa táng xong, chắc chắn các thí chủ sẽ thấy có rất nhiều đinh sắt rơi ra vì bần tăng vẫn chưa lấy ra được hết”.
Chúng tôi đưa chị Lếc về nhà. Nhưng trước khi về, chúng tôi đưa chị vào một bệnh viện để chứng minh những lời sư cụ nói có thật hay không. Chúng tôi yêu cầu bác sĩ chụp X-quang để kiểm tra cơ thể của chị có vấn đề gì không. Bác sĩ vẫn thông báo rằng mọi cơ quan trong cơ thể chị đều đầy đủ. Thật đáng sợ, những điều bí hiểm kia đã không thể nhìn được tận mắt và không thể chứng minh bằng khoa học hiện đại. Chuyện này ai không tin thì tùy, nhưng tôi tin vì chính tôi đã được chứng kiến tận mắt. Sau đó hai ngày, chị Lếc trút hơi thở cuối cùng. Chúng tôi đưa chị đi hỏa táng và thứ mà chúng tôi chờ đợi muốn được thấy đó là cố đinh sắt rơi ra từ tro của chị không. Thật không ngờ, cơ thể của chị Lếc thiêu kiểu gì cũng không chịu cháy. Người mai táng phải dùng điện giật nhiều lần để cơ thể cháy dần dần cho đến hết. Và thứ mà tôi muốn được trông thấy cuối cùng cũng xuất hiện. Tôi thấy có đến ba, bốn chiếc đinh rơi ra từ ngón chân cái và các ngón chân khác của chị. Chuyện của chị Lếc được bàn tán nhiều lần ở chỗ làm của chúng tôi để nhắc nhở những người khác không được phép đi cúng xin bùa giống như chị. Chuyện này đã làm cho mọi người sợ hãi như chúng tôi vậy. Nhưng nếu chị Lếc chịu làm theo lời hứa với pháp sư thì có lẽ chị đã không phải chết một cách tức tưởi và đau đớn đến như thế.
Tôi và chị Ổ may mắn không làm theo chị Lếc. Thực tế thì khi đó chúng tôi cũng muốn làm theo, nhưng bởi vì số tiền khoảng bốn, năm nghìn bạt cũng không phải là dễ kiếm cho dù khi đó chị Lếc nói sẽ cho tôi mượn tiền trước. Nguyên nhân mà tôi quyết định không chịu đi làm là vì nghe chị Lếc kể rằng khi làm phép thuật, pháp sư bắt chị cởi hết đồ, nằm chắp hai tay trước ngực rồi vị pháp sư đó sẽ vừa giao hợp với chị, vừa niệm chú. Tôi không thể chấp nhận được điều này nên quyết định không làm mặc dù chị Lếc đã rủ rê rất nhiều lần. Cũng bởi chị thấy tôi vất vả nên muốn tôi có tiền mua nhà như mơ ước lâu nay của tôi. Chuyện của chị Lếc kết thúc tại đây và tôi chắc chắn sẽ không bao giờ quên câu chuyện buồn của chị. Tôi vẫn sẽ luôn nhớ đến chị. Tôi tin giờ này chắc chị đã được hóa sang một kiếp khác, hoặc có thể đã trở thành một thiên thần trên cõi niết bàn vì chị là người nhân hậu, hay làm việc thiện, hay giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn mỗi khi chị có tiền.
Đã bốn, năm ngày trôi qua, chúng tôi vẫn phải sống trong ngôi nhà đó để chờ đợi ngày đi Nhật. Cuối cùng tin vui cũng đến, ông chủ đến báo cho chúng tôi chuẩn bị thu dọn đồ đạc để bay vào sáng hôm sau. Chúng tôi vui mừng khôn xiết, đến mức cả đêm đó không thể chợp mắt. Sáng hôm đó chúng tôi được chia thành hai nhóm. Tôi, Tài và Nen bị đưa lên tàu hỏa đi Had Yai[3]. Còn chị Ổ và ba người nữa thì được đưa ra sân bay Don Muang. Tôi cũng không biết họ sẽ đưa chúng tôi đi đâu. Không một ai biết. Chỉ biết họ sai chúng tôi làm việc gì thì chúng tôi sẽ làm việc đó. Vậy thôi. Tôi và các bạn phải ngồi tàu cả đêm mới đến được Had Yai. Đến nơi, đã có người chờ sẵn để đón cả ba chúng tôi. Họ đưa chúng tôi đến nghỉ qua đêm tại một khách sạn để chờ đến sáng hôm sau sẽ mua vé xe khách qua Malaysia. Chúng tôi lại tiếp tục ngồi xe trọn một ngày sang Malaysia. Đến Kuala Lumpur, có một người Trung Quốc biết nói tiếng Thái đã chờ sẵn. Họ đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi nhà hai tầng trông rất bẩn thỉu, giống y như những ngôi nhà ở khu phố Tàu Yauwarat. Chúng tôi leo lên tầng hai của ngôi nhà đó thì thật không ngờ lại gặp nhóm chị Ổ. Ai nấy đều rất vui mừng khi gặp lại nhau. Lúc đầu tôi nghĩ nhóm chị Ổ chắc sẽ bay thẳng đến Nhật ngay lập tức nhưng nghe chị Ổ nói, ông chủ đã báo ngay từ đầu là để các chị bay đến Malaysia trước rồi sau đó mới bay tiếp sang Nhật. Ông chủ để chúng tôi nghỉ lại Malaysia khá lâu, khoảng mười ngày. Tôi không thể kiên nhẫn hơn được nữa nên hỏi ông chủ tại sao lại để chúng tôi ở lại Malaysia lâu như vậy. Ông chủ giải thích rằng tất cả bảy người bọn tôi phải chờ để làm hộ chiếu giả, tức là sẽ dùng hộ chiếu của người khác. Thực sự thì ngay từ đầu cả sáu người khác đều đã sử dụng hộ chiếu giả từ Thái Lan qua Malaysia. Chỉ có một mình tôi là dùng hộ chiếu thật, còn những người khác nếu dùng tên của ai cũng không rõ. Thật ngạc nhiên là chúng tôi đều có thể vào được Malaysia một cách dễ dàng.
[3] Had Yai: Một tỉnh ở miền Nam Thái Lan.
Ngày ấy, kỹ thuật làm hộ chiếu chưa tiên tiến như bây giờ, người ta chỉ đính ảnh vào trong quyển hộ chiếu rồi đóng dấu chìm lên ảnh một lần nữa. Vì thế, muốn làm giả chỉ cần bóc ảnh cũ ra rồi dán ảnh của người khác vào thay thế là xong. Phương pháp làm đơn giản nên có rất nhiều người đã sử dụng hộ chiếu giả. Và nếu có tiền chi riêng cho nhân viên xuất nhập cảnh từ trước thì việc đi lại càng trở nên dễ dàng hơn.
Thời gian đó, ông chủ lấy hộ chiếu của người nào không rõ, sau đó sai chúng tôi bóc ảnh cũ của họ ra rồi lấy ảnh của chúng tôi dán thế vào. Chính tôi là người đã tự tay bóc và dán ảnh mới vào. Chúng tôi chờ tìm đủ hộ chiếu cho tất cả mọi người, mất khoảng mười ngày. Sau đó, ông chủ nói sẽ đưa chúng tôi đến làm quen với các nhân viên phòng xuất cảnh của Malaysia để chúng tôi có thể nhớ mặt họ. Khi đóng dấu hộ chiếu, chúng tôi sẽ chỉ đóng dấu ở chỗ của họ mà thôi vì họ đều là chỗ quen biết với ông chủ. Ông chủ nói sẽ đưa chúng tôi đến một khách sạn ở Malaysia và sẽ hẹn gặp các nhân viên ở đó. Chỉ nghe đến đây là tôi đã đoán được chuyện gì sắp xảy ra. Ông chủ muốn tất cả bảy người chúng tôi phục vụ bọn nhân viên này. Ông chủ hứa sẽ trả tiền công cho chúng tôi, không để chúng tôi làm không công. Thật may, tôi khá thân thiết với vợ ông chủ trong suốt thời gian đến ở nhà họ. Bà chủ cũng là người Thái còn ông chủ là người Malaysia gốc Hoa.
Vợ của ông chủ hay nhờ tôi trông con bà. Đứa bé cứ quấn lấy tôi nên tôi có nhiều cơ hội được nói chuyện với bà chủ. Tôi nói:
“Chị ơi, em không ngủ với bọn nhân viên này được không? Em không thích kiểu làm việc thế này?”.
Tôi không thích người trong cùng một đường dây lại làm chuyện đó với nhau cho dù có được trả tiền. Phong cách làm việc của tôi là vậy, cũng giống với trường hợp của Hia Khăm, ngươi đã đưa tôi sang Hồng Kông. Bà chủ gật đầu với tôi ngay lập tức. Bà nói lại với ông chủ xin cho tôi không phải đi phục vụ nhóm nhân viên đó. Ông chủ cũng đồng ý, nhưng nhắc tôi phải nhớ mặt người sẽ đóng dấu hộ chiếu cho mình, phải nhớ mặt anh ta như thế này, có râu như thế kia, sẽ ngồi ở ô số tám. Ngày mai, tôi sẽ phải vào xếp hàng số tám để đóng dấu hộ chiếu. Tôi đồng ý với ông và nghĩ tôi có thể nhớ mặt được gã nhân viên này. Hắn rất giống với những người Ấn Độ theo đạo Hồi ở Malaysia.