- Đúng đúng! Nhâm Vô Tâm võ công cao lắm, thật là quỉ khốc thần sầu, nhưng mà… lão phu nhân dặn ta chỉ giữ việc theo dõi xem bọn chúng di cư đi đâu, tại sao ta lại ra mặt cướp bảo vật của họ?
Thiếu Hồng nhăn nhở cười lớn:
- Vì hành tung của bọn ta đã bị Lý Bá làm bại lộ rồi mà. Nhâm Vô Tâm là hạng người nào, há chịu để chúng ta theo dõi? Trước tình thế đó, Đại Kha chỉ còn cách liều mạng mạo hiểm đoạt lấy chiếc hộp bí mật trong tay hắn.
Gã áo đen vỗ tay cười hơ hớ:
- Đúng, đúng! Diệu, diệu! Câu chuyện bịa ấy thực là hợp tình hợp lý, không còn khe hở chỗ nào! Lát nữa ngươi cứ thế mà nói, nghe không? hi hi…
Chợt nghe từ xa xa có tiếng cười, nói góp:
- Chuyện gì mà hợp lý thế? Và nói cho ai nghe…
Tiếp theo tiếng nói là một bóng người vừa thấp vừa béo, chân tay ngắn ngủn bay vèo đến.
Người này cũng vận y phục đen, mặt bịt vuông lụa đen như ba người trước, chỉ để lộ hai con mắt ti hí nhìn ra.
Khi tới trước mặt hai người, gã béo lùn vẫn cười, nói tiếp:
- Tiểu đệ nghe đồn Hoàng Phủ huynh có cái lưỡi Tô Tần từ lâu, huynh mới bịa ra chuyện gì hay thế? Huynh có thể kể cho tiểu đệ nghe được không?
Thiếu Hồng gượng cười nói:
- Nào có chuyện gì đâu?
Gã béo lùn lại cười nói:
- Đêm đông lạnh lẽo không có rượu uống thì ta nói chuyện vui cũng đủ quên rét, sao Hoàng Phủ huynh lại không chịu…
Người áo đen gầy lạnh lùng ngắt lời:
- Hãy nói việc chính đã, rồi sẽ nói chuyện chơi sau, ngươi đi tra xét chung quanh đây có thấy gì lạ không?
Gã béo lùn nói:
- Bọn lão già trong động này đã trốn hết rồi, thuộc hạ vào trong đó chỉ thấy cây cối ngã nghiêng, mà còn thấy cả vết cháy nữa.
Gã áo đen cao gầy hỏi:
- Ngươi có vào tận trong động tra xét không?
Gã béo lùn đáp:
- Thuộc hạ đã vào tận nơi tra xét tường tận rồi. Bọn họ trước khi đi đã thiêu huỷ mấy căn động, và còn nhận thấy dấu chân rất nhiều người đi thẳng tới con đường này.
Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm: “Người ta thường bảo người lùn hay làm biếng, quả thực không sai. Hắn vừa làm biếng vừa nói dối, thành ra lại có lợi cho mình.”
Người áo đen gật đầu. Gã lùn lại quay qua hỏi Thiếu Hồng:
- Hoàng Phủ huynh…
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười ngắt lời:
- Huynh đài muốn nghe chuyện gì? Chuyện của tiểu đệ kia kia…
Gã lùn miệng thì hỏi: “Đâu?”, mắt thì nhìn theo tay hắn trỏ.
Thiều Hồng đáp: “Ở kia!”, tay thốt nhiên hạ thấp xuống, điểm ngay vào huyệt Hoa Cái của gã lùn.
Huyệt này ở dưới cuống họng, bốn tấc sáu phân, chính là Hoa Cái của ngũ tạng, một trong sáu tử huyệt của con người, nếu bị điểm trúng, thì huyết sẽ đọng lại ở trái tim, nhất định phải chết.
Gã lùn chợt quay phắt lại, đôi mắt trợn ngược, tưởng như lòi cả con ngươi ra ngoài, vừa định quát hỏi, nhưng tiếng quát chưa thốt ra khỏi cuống họng thì thân hình đã ngã xuống.
Gã áo đen lạnh lùng cười nói:
- Tên này cũng bị Nhâm Vô Tâm giết chết ư?
Thiếu Hồng lắc đầu cười nói:
- Không phải! Hắn bị một cao thủ cùng đi với Nhâm Vô Tâm sát hại. Nếu không vì có nhiều cao thủ đi hộ tống mấy lão già thì Đại Kha đã có thể tóm được cả bọn rồi, đâu phải chỉ có cướp được cái hộp.
Gã áo đen vỗ vai hắn, cười khì khì:
- Hiền đệ quả không hổ là hiền đệ của ngu huynh! Trong số bảy mươi hai vị hào kiệt của nhà Nam Cung thế gia, có lẽ chỉ mỗi mình hiền đệ là xứng đáng làm tri kỷ của ngu huynh mà thôi.
Thiếu Hồng đôi mắt long lanh, nhưng lại vội cúi đầu xuống, cười nói:
- Tiểu đệ khi nào dám nhận là tri kỉ của Đại Kha, chẳng qua chỉ một lòng trung thành với Đại Kha mà thôi!
Người áo đen trầm ngâm một lát rồi nói:
- Bẩy mươi hai vị hào kiệt chúng ta lẽ ra phải có sáu vị đầu lĩnh, nhưng hiện thời mới có hai, nếu hiền đệ không chê, thì để ngu huynh tiến cử với lão phu nhân.
Thiếu Hồng nói to:
- Đại Kha có ý tài bồi, tiểu đệ không bao giờ dám quên ơn!
Gã áo đen cười ha hả một hồi rồi nói:
- Chúng ta đừng chơi nhàn nhã như thế này, lát nữa về nói với bọn họ rằng chúng ta vừa huyết chiến một trận với Nhâm Vô Tâm cũng thật khó tin.
Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nói:
- Điều đó cũng dễ!
Nói xong nhảy lên, bất thình lình phóng một chưởng vào vai người áo đen. Thân hình hắn nhanh như một con cắt, tiếng nói chưa dứt, tay phải hắn đã đập vào vai người áo đen. Không ngờ người áo đen thân pháp còn nhanh hơn, cái thân hình gầy guộc của hắn lập tức theo đà chưởng phong bay vèo đi.
Hắn nổi giận sừng sộ hỏi:
- Làm cái gì thế?
Vừa nói đến đây, như chợt nghĩ ra, hắn lại cười xoà nói tiếp:
- Ừ, thế mà hay, chúng ta giả vờ đánh nhau một trận, cho nó có vẻ thực hơn.
Rồi hắn quay mình xông tới, thân hình chập chờn bay qua bay lại, thoắt cái đã được bảy chiêu. Hai người chiến đấu tới mấy chục chiêu, rồi mới phủi tay cười xòa. Đoạn mỗi người cúi xuống, ôm xốc một cái xác lên, trổ thuật khinh công, chạy biến vào trong đêm tối.
Trên cành cây, Tú Linh đã được chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi hài kịch hiếm có ấy, chờ cho hai người đi đã xa, nàng mới thở ra một hơi dài, nói:
- Tiện thiếp những tưởng bọn Thất Thập Nhị Sát đều thề chết trung thành với Tổ bà, ai ngờ… hừ! Cơ trí thâm trầm, thủ đoạn ghê gớm như Tổ bà mà cũng không làm cho bọn thủ hạ trung thành hoàn toàn được, thì đủ biết muốn làm một vị minh chủ võ lâm đâu phải dễ.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Từ xưa đến nay, những người làm nên nghiệp bá, có thể chia làm ba loại: một là, bụng dạ quảng đại, lấy đức làm người phục, khiến cho những kẻ thủ hạ đều được hưởng ơn mưa móc. Hạng này thì hiếm lắm; hai là, cố làm ra vẻ nhân nghĩa, dùng quyền thuật mà thu phục nhân tâm, khiến cho người ta phải hết lòng tận trung với mình, đó cũng đáng gọi là nhân kiệt. Hán Cao Tổ khi xưa dùng Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín cũng theo lối ấy.
Chàng ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Còn những kẻ chỉ lấy uy thế lấn hiếp người ta, dùng sức mạnh ép người ta, hoặc dùng thủ đoạn tàn độc khiến cho người ta sợ hãi, khiếp đảm mà phải theo, thì đó là hạ sách. Cách này lúc đầu có thể bắt buộc người ta theo mình được, nhưng rồi chỉ trong một thời gian, thế nào cũng bị chúng phản lại. Ta cứ xem Kiệt, Trụ, Tần thì đủ rõ.
Tú Linh than rằng:
- Vậy thì thủ đoạn ấy thành công cũng chóng mà hại cũng nhanh.
Nhâm Vô Tâm gật đầu nói:
- Đúng vậy! Lệnh tổ bà muốn nhanh chóng hoàn thành nghiệp bá nên mới dùng thủ pháp ấy. Có lẽ cùng là sự bất đắc dĩ. Nhưng có biết đâu rằng con đê đắp vội, tất phải dễ vỡ, mà một khi đã vỡ thì không còn cách gì hàn gắn được nữa.
Tú Linh ngồi ngẩn người ra một lát, không biết nói gì. Nàng tuy đã bội phản nhà Nam Cung nhưng không dễ gì trong phút chốc đã cắt đứt được thân tình. Lúc này, quả nàng cũng đang lo cho sự thành bại của nhà Nam Cung.
Nhâm Vô Tâm lẳng lặng hồi lâu, rồi lại nói:
- Người áo đen vừa rồi võ công cao lắm, lai lịch tất không phải tầm thường…
Tú Linh ngắt lời:
- Tiện thiếp cũng không rõ. Tuy nhiên, theo ý tiện thiếp thì người ấy tuy võ công cao, lai lịch quỉ bí nhưng tâm địa không đến nỗi nham hiểm, xảo quyệt như tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Tên ấy mới thật đáng sợ!
Vô Tâm mỉm cười:
- Cô nương cho rằng người áo đen tâm cơ không bằng Hoàng Phủ Thiếu Hồng sao? Nếu vậy thì cô nương lầm to.
Tú Linh tươi cười nói:
- Lần này thì nhất định tướng công đoán sai. Tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói đến nỗi gã áo đen khâm phục sát đất, tướng công không thấy ư?
Vô Tâm cười nói:
- Bề ngoài nhìn vào thì tưởng thế, nhưng kỳ thực thì gã áo đen làm gì mà không thấu suốt ruột gan tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng? Có điều hắn muốn lợi dụng tên kia, nên mới giả vờ làm bộ ngu xuẩn, để tên kia khỏi đề phòng…
Chàng ngừng một lát, nói tiếp:
- Tuy nhiên, hắn cũng không muốn để Hoàng Phủ Thiếu Hồng coi thường hắn, vì nếu để gã coi thường thì chưa chắc gã đã chịu phục tòng mệnh lệnh. Do thế, hắn mới dùng võ công để trấn áp Hoàng Phủ Thiếu Hồng, cô nương thử nghĩ xem một người âm trầm giảo hoạt như hắn, làm sao có thể thua Hoàng Phủ Thiếu Hồng được?
Tú Linh gật đầu, chịu là chàng nói đúng. Lúc này, trời đã gần sáng, bức màn đêm đã từ từ hé ra một góc. Chờ cho trời sáng, hai người mới nhảy xuống, nhắm phía mặt trời mọc tiếng lên. Vừa đi được một quãng, chợt nghe tiếng vó ngựa rầm rập từ đằng xa chạy đến. Tú Linh sợ hãi nói:
- Lại có người tới, chúng ta phải tìm chỗ nấp ngay mới được.
Vô Tâm cười nói:
- Bây giờ hai chúng ta đang đóng vai hai thầy trò đạp tuyết tìm mai, việc gì phải trốn?
Tú Linh ngần ngừ:
- Không biết mình cải trang có giống không?
Vô Tâm cười đáp:
- Cù Thức Biểu tinh tế, cẩn thận lắm, trong bao phục này chắc có đủ các đồ cần dùng.
Tú Linh cởi bao phục ra, quả thấy bên trong có đủ sách vở, giấy bút. Vô Tâm bèn cầm lấy một quyển thơ thì một đàn thiện mã đã rầm rầm kéo đến.
Vó ngựa như sắt, dẫm nát cả những tảng tuyết đóng thành băng, phía sau đàn ngựa, tuyết bắn lên phơi phới như phun hoa. Những người ngồi trên mình ngựa, kỹ thuật đều rất tinh vi, nên mặc dù ngựa phi nước kiệu mà họ vẫn ngồi vững như bàn thạch.
Nhâm Vô Tâm tay cầm cuốn sách, vừa đi vừa ngâm, mắt vẫn không buồn nhìn lên. Chợt nghe một tiếng quát hỏi, rồi một gã đại hán mặc áo gấm ngồi trên lưng con ngựa trắng, tay phải cầm chiếc roi vung lên, tay trái gò dây cương lại, tức thì con ngựa nhảy chồm hai chân trước lên như người đứng, miệng hí vang trời.
Nhâm Vô Tâm có ý làm ra vẻ sợ hãi, lùi lại mấy bước, trừng mắt nhìn người cưỡi ngựa.
Người cưỡi ngựa nhảy vụt xuống đất, bước tới trước mặt Vô Tâm, hỏi:
- Huynh đệ tại hạ đi lạc đường, không nhận rõ phương hướng, không biết Nam Cung thế gia ở đâu, mong các hạ làm ơn chỉ dùm.
Nhâm Vô Tâm làm bộ ngơ ngác, hỏi lại:
- Nam Cung thế gia à? Nam Cung thế gia là cái gì cơ?
Gã đại hán sầm mặt gắt:
- Bằng hữu cố tình giả đò ngớ ngẩn, định che mắt ai?
Hắn nói tiếng Quan Đông, lại nhân lúc nóng giận nên nói líu tíu chẳng biết đằng nào mà nghe. Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, nhưng ngoài mặt vẫn giả bộ ngây ngô đáp:
- Tiểu sinh chỉ biết có họ Nguyên, họ Bạch, họ Lý với Lý Bạch, Đỗ Phủ mà thôi. Còn Nam Cung thế gia là ai, quả tiểu sinh không hiểu.
Gã đại hán cười nhạt:
- Nam Cung thế gia ở ngay gần đây, trời xuống tuyết lớn, mà vừa mới bảnh mắt, ngươi đã len lén tới đây ngao du, lại còn leo lẻo chối không biết Nam Cung thế gia là cái gì! Ha ha…, bằng hữu đóng kịch tài lắm!
Hắn lùi lại phía sau, cầm cây roi vung lên, hô to:
- Các huynh đệ, mau vây tên này lại!
Vô Tâm nói bằng giọng run run:
- Tiểu sinh đến đây chỉ định đạp tuyết tầm mai, tuyệt không có một hành vi nào mờ ám, các vị hảo hán lầm rồi.
Chàng nói chưa dứt câu thì sáu con ngựa đã xong lại, vây kín hai người vào giữa.
Gã mặc áo gấm vừa rồi, cười nhạt nói:
- Trời rét thế này mà còn có nhã hứng đạp tuyết tầm mai, thì trừ khi là người điên hử?
Nhâm Vô Tâm thở dài nói:
- Văn võ hai đường, tính tình khác biệt, thói quen của văn nhân, không phải các vị hảo sĩ võ lâm có thể hiểu được. Tin hay không, thì xin tuỳ ở các vị.
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Nhâm Vô Tâm nói:
- Các vị không tin, tiểu sinh cũng đành, chứ nào biết làm sao! Hảo sĩ võ lâm giong ngựa giang hồ, lấy sự báo ân trả oán chém giết làm vui, nhưng văn nhân chúng tôi lại lấy câu thơ chén rượu, đạp tuyết tầm mai làm thú. Hảo hán có tin không?
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Vô Tâm thở dài nói:
- Chúng tôi là những kẻ văn nhân, sức không trói nổi con gà, gặp các vị võ hiệp hảo hán, dẫu có lý cũng không biết nói thế nào cho rõ được.
Tú Linh đứng bên cũng thở dài, nói góp:
- Thật đúng là có lý cũng chẳng biết nói thế nào cho rõ!
Gã áo gấm cười nhạt:
- Ta chỉ cần ngươi nói cho ta biết rõ lai lịch.
Nhâm Vô Tâm giật mình nhưng ngoài miệng vẫn giữ giọng ngây ngô, hỏi:
- Lai lịch gì? Tiểu sinh chỉ là một kẻ…
Người áo gấm lại cười, ngắt lời:
- Chỉ là một kẻ thư sinh, phải không? Hà hà, ngươi đừng cho ta là một thằng ngốc, kỳ thực ngươi mới chính là thằng đại ngốc.
Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Thế là thế nào? Tiểu sinh quả thực không hiểu.
Gã áo gấm cười ha hả:
- Kẻ văn nhân đạp tuyết tầm mai, mà lại biết cả thuật khinh công đạp tuyết không ngấn ư?
Nhâm Vô Tâm giật mình, nhưng vẫn cố giữ vẻ trấn tỉnh:
- Hảo hán nói thế là thế nào? Tiểu sinh vẫn chưa hiểu.
Tú Linh cũng nói góp:
- Công tử tôi có biết khinh công khinh kiết gì đâu? Hảo hán đừng lầm…
Người áo gấm cười sằng sặc:
- Công tử ngươi đến đây đạp tuyết tầm mai, sao trên đôi giầy đó vẫn sạch trơn, không dính dấu tuyết?
Nhâm Vô Tâm đơ cổ, không biết cãi thế nào, bất giác nhìn xuống đôi giầy, quả thấy giầy vẫn sạch trơn như mới, còn đang lúng túng, đã thấy bảy đại hán từ trên lưng ngựa nhảy cả xuống, tay phải cầm cây roi, luôn luôn vung vẩy, mười bốn con mắt sắc như dao dồn cả lên mặt chàng.
Gã áo gấm lại cười nói:
- Ba mươi hai lộ hảo hán ở Quan Đông cũng chẳng thiếu gì kẻ gian ngoa giảo quyệt, nhưng chưa từng có kẻ nào dám giở trò trước mặt huynh đệ ta. Bằng hữu nên nói thật đi thì hơn.
Nhâm Vô Tâm cười nói:
- Ngươi muốn tại hạ nói thật cái gì?
Gã áo gấm nghiêm nét mặt nói:
- Ngươi có phải là môn hạ của Nam Cung thế gia không?
Nhâm Vô Tâm lắc đầu:
- Không phải!
Gã đại hán sừng sộ:
- Ngươi vẫn còn chối, phải không? Ta lại hỏi ngươi lần nữa, nếu không phải thì tại sao ngươi lại loanh quanh dối trá như vậy?
Vô Tâm cười khanh khách:
- Nam Cung thế gia tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm mấy chục năm nay, chủ nhân nhà ấy, năm đời đều vì công đạo võ lâm phấn đấu mà thác, thật không hổ cái tiếng “Võ lâm đệ nhất gia”! Nếu tại hạ là môn hạ nhà Nam Cung thì việc gì phải chối?
Người áo gấm hừ một tiếng rồi nói:
- Đã vậy, tại sao vừa rồi ta hỏi thăm nhà Nam Cung thế gia, ngươi lại giả vờ làm như chưa từng nghe thấy tên ấy bao giờ, là nghĩa gì?
Vô Tâm chưa kịp trả lời thì gã lại tiếp:
- Ta không cần biết ngươi có phải là người nhà Nam Cung thế gia hay không, nhưng đã nói dối như vậy thì cũng không phải là hạng người tử tế.
Nói xong, hắn lại vung roi, quát:
- Các huynh đệ mau bắt tên này lại, để ta tra hỏi cho rõ ràng!
Sáu người kia cùng dạ ran một tiếng, rồi cầm roi xông vào, Nhâm Vô Tâm cau mày hỏi:
- Các vị muốn động thủ thật ư?
Gã áo gấm cười sằng sặc nói:
- Các ngươi không nghe thấy người ta thường có câu rằng: “Quan Đông có bảy ngọn Phá Lục Tiên, dưới đánh ma quỉ, trên đánh tiên” à? Địa vị của bảy huynh đệ ta như thế nào, mà nói đến động thủ lại còn phải hỏi giả hay thật?
Tú Linh không đợi Nhâm Vô Tâm lên tiếng, lập tức quát:
- Mặc kệ Phá Lục Tiên với Phá Lưỡng Tiên của các ngươi! Các ngươi muốn động thủ thì cứ động thủ đi!
Nhâm Vô Tâm thầm nghĩ: “Điền cô nương vẫn còn cái thói thiên kim tiểu thơ, việc gì cũng không chịu nhường nhịn. Trận đánh nhau hôm nay thật là oan uổng!”
Trong khi ấy, ba ngọn roi của đối phương đã vung tới. Thì ra bảy cây roi này đều tết bằng tóc, buộc bằng dây vàng, có thể vừa dùng làm roi ngựa, vừa dùng làm binh khí. Nếu lại đem nội lực dồn lên ngọn roi, thì đứng đằng xa có thể điểm lên các đại huyệt khắp trên mình địch thủ. Cán roi có mũi nhọn, nếu đánh xáp lá cà thì quay cán lại làm thành mũi chuỷ, thật là một món binh khí ngoại môn gồm cả nhuyễn ngạnh, đánh xa đánh gần cũng đều thuận tiện.
Nhâm Vô Tâm luôn luôn né tránh trong chưởng ảnh, ngọn roi, chàng không muốn đánh lại mà cũng không muốn nói rõ cho họ khỏi ngộ nhận. Giữa lúc ấy, chợt lại nghe tiếng vó ngựa rầm rập chạy đến, thoáng chốc đã tới gần.
Vô Tâm liếc mắt trông thấy một đoàn năm kỵ sĩ, đi đầu là một con la nhỏ lông xanh, xương xẩu gồ ghề, đuôi trụi, tai ngắn, trông chẳng thuận mắt chút nào nhưng cước lực của nó có lẽ còn nhanh hơn cả tuấn mã. Theo sau là bốn con vừa lừa vừa ngựa, ngựa thì ngựa tồi còn lừa thì cũng lừa ốm, trong bề ngoài, không ai có thể biết rằng sức chúng chạy nhanh không kém gì ngựa thiên lý.
Người cưỡi la, đầu trọc, lông mày ngắn, thân hình gầy ốm, khuôn mặt xám ngoét, mũi lớn, miệng rộng ngoắc lên tới gần mang tai. Lão mặc bộ áo mà da đồng, rách mướp, lưng còn thắt chiếc dây lụa màu lam, trông tựa như một ông sư kiết xác, ngày ngày cầm bát đi khất thực. Người nào la ấy, trông thật tương xứng một cách khôi hài.
Hàng thứ nhì là một con lừa hoa, trên lưng đã không có yên cương, lại còn đặt ngang lù lù hai túi vải to kếch. Một ông già tóc bạc, thân thể khô đét, quần áo lam lũ, ngồi chễm chệ trên hai cái túi, chân bỏ thõng chạm xuống tận đất, đứng phía sau trông giống như trẻ con cưỡi chó, mà đứng mé bên thì lại trông giống như con la có sáu chân.
Hàng thứ ba là hai con lừa lông đen nhánh như đồng lum, hình dạng màu lông, cao thấp giống nhau như hệt. Người ngồi trên lưng lừa đều bụng lớn, mặt tròn, da dẻ hồng hào, tuy đầu tóc đã bạc phơ mà thái độ chẳng khác gì trẻ con, vừa đi vừa cười đùa nhí nhảnh. Hai người đã giống nhau như hai giọt nước, lại cưỡi hai con lừa giống nhau sánh vai cùng đi, khiến cho ai trông thấy cũng tưởng là mình hoa mắt, trông một người hoá ra hai.
Con ngựa đi hàng thứ tư, hình thù càng cổ quái, đó là một giống ngựa chân thấp, còn thấp hơn cả con la, người ngồi trên lưng ngựa là một ông già râu quai nón, người cao như cây phướn, mắt tròn, mày rậm, râu cứng như rễ tre, áo thì vừa chật vừa ngắn, tay áo không dài quá khuỷu tay, ống quần không che kín đầu gối, hai cánh tay gân nổi lên như gân chảo. Trông lão ta tuổi đã gần bảy mươi, mà sức lực còn khoẻ mạnh hơn trai tráng.
Bọn Quan Đông Thất Tiên cũng nhận ra hình dạng kỳ quái của bọn người mới tới, nhưng tay vẫn không ngừng liên thủ tấn công Vô Tâm và Tú Linh.
Lão già cưỡi la đi đầu thấy hai bên đánh nhau, bèn ngoái đầu trông lại, người cưỡi lừa đi hàng thứ nhì, sắc mặt tỉnh bơ như không trông thấy. Còn lão già béo lùn đi hàng thứ ba lại quay đầu cười nói với người bên cạnh:
- Bùi lão nhị trông kìa, ở đây người ta dùng cả roi ngựa đánh người, mà đánh lại không trúng, mới tức cười chứ! hì, hì…
Lão già bên cạnh cũng cười khanh khách:
- Đánh trúng hay không trúng, không thành vấn đề, có điều bảy người đánh hai trông chướng mắt quá, phải không Bùi lão đại?
Bùi lão đại cười ha hả:
- Chẳng cần chúng mình phải lắm lời, coi chừng có người đã nhịn không nổi nữa rồi kia kìa!
Câu nói chưa dứt, ông già cưỡi ngựa đi hàng thứ tư đã vỗ tay vào vế ngựa đánh “bộp” một tiếng, con ngựa tức thì vượt qua bốn người, xông vào bọn Quan Đông Thất Tiên.