Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Chương 3-4

Chúng tôi lái xe trên con đường cao tốc bằng phẳng, lấp lánh, nói chuyện phiếm. Ánh mặt trời, không quá gay gắt vào thời điểm đó trong năm, tỏa sán lên những cây ngọc giá đang trổ hoa và những bụi cây màu xám than. Tôi nghĩ về mưa phùn và sương mờ khi đó đang chiếm ưu thế ở miền Đông mà không có vẻ gì là thèm muốn. Sa mạc, theo như tôi nhận thấy, có một vẻ đẹp quá mãnh liệt đến nỗi nó không thể ngấm ngay vào da thịt bạn. Họ hàng về địa lý thân thuộc nhất của nó chính là sông băng – giống như sông băng, nó có thể khiến cho những người không thông thạo tưởng nhầm rằng sự biến đổi chậm chạp của nó là trạng thái tĩnh lặng. Chúng tôi, những người sống ở đó, yêu nó vì vẻ giản dị và sạch sẽ của nó, vì hằng ngày nó vẫn luôn gợi đến sự vĩnh cửu. Một khung cảnh rừng rú có vẻ vừa rậm rạp vừa phù du, quyến rũ nhưng lại quá non trẻ, và phải chịu khuất phục trước những khúc quanh không thể biết trước của số phận. Không phải ngẫu nhiên mà những công dân đầu tiên đã xuất hiện trong sa mạc. Cũng không phải tình cờ khi những người già cả thường quay trở về đó.

“Trông mẹ tuyệt lắm,” Jonathan nói khi đang lái xe. “Con thích kiểu tóc của mẹ.”

“Ôi, giờ mẹ phải chỉnh trang đến vẻ ngoài mà,” tôi nói. “Mẹ không thể đi loăng quăng quanh thành phố như một phụ nữ hoang dã của miền núi nữa. Thú thực với con, mẹ đã phát hiện được một thợ cắt tóc. Một thợ cắt tóc cho nam giới. Hầu hết những tiệm uốn tóc nữ ở đây vẫn một mực tạo cho người ta những kiểu tóc xịt gôm ẻo lả mà mẹ thì chẳng có một chút hứng thú với chúng. Cứ ba hay bốn tuần là mẹ lại cắt tóc một lần, và không nghĩ nó có gì là khác biệt cả.”

“Con thích kiểu tóc đó,” tôi nói. “Mẹ con đang là một nữ hoàng nấu nướng thuê với mái tóc húi cua. Côn không nịnh đâu. Con đang khen thật đấy.”

Nó rẽ vào khu chung cư, và xách túi của nó vào nhà. “Nơi này vẫn không thay đổi,” nó nói.

“Nó chỉ mất một ít đất vì lực entropy thôi,” tôi nói. “Mẹ đã định dọn dẹp nó một chút trước khi con đến đây. Nhưng một khách quen “sộp” của mẹ đã gọi điện đặt bữa tiệc tối vào phút chót, vì thế mẹ đã mất cả ngày hôm qua để làm món tôm xốt rau mùi thay vì việc hút bụi và quét dọn.”

“Không sao đâu mẹ. Nói thật với mẹ, nhà mình ở Cleveland vẫn luôn hơi quá ngăn nắp. Ý con là, con thấy mừng khi biết ở đây không phải lúc nào mẹ cũng lau nhà.”

“Con không cần phải lo về điều đó đâu. Tin mẹ đi.”

Vì nó sẽ ngủ trên chiếc sofa gấp, nên nó không cần phải lấy đồ ra khỏi túi hành lý. Nó chỉ đơn giản đặt cái túi vào một góc. Khi nó làm thế, tôi chợt thấy lo lắng – tôi đã bắt nó đến tận Arizona chỉ vì một mục đích kì cục. Có lẽ rốt cuộc tôi sẽ coi đây chỉ là một chuyến viếng thăm đơn giản của nó. Tôi sẽ nấu nướng cho nó ăn, mua cho nó vài bộ quần áo mới bất chấp sự phản đối của nó và lại tiễn nó về nhà.

“Con đói không?” Tôi hỏi.

“Hơi hơi ạ. Ban nãy con không ăn trưa trên máy bay. Sau nhiều chuyến bay, con đã nhận ra rằng mình có thể từ chối khay thức ăn mà họ mang đến. Tuy nhiên con vẫn thấy mình dại dột khi làm thế. Như thể con đang ném tiền đi vậy.”

“Sao mẹ con mình không đi ăn bữa trưa muộn ở ngoài nhỉ?” Tôi nói. “Mẹ mới phát hiện một nhà hàng tuyệt vời cách đây khoảng mười dặm, ở đó họ tự tay làm và phục vụ món bánh bột ngô. Mẹ rất muốn thuê đầu bếp của họ, một người thực sự biết cách nấu món Mexico truyền thống, nhưng mẹ nghĩ mẹ sẽ không đủ tiền để thuê cô ta.”

“Nghe hay đấy mẹ ạ,” nó nói. “Mình đi thôi.”

Trong một thoáng, nó giống bố nó đến nỗi tôi phải dừng lại và nhìn nó chằm chằm, đầu tôi quay cuồng. Chắc là tất cả các bà mẹ đều phải trải qua những khoảnh khắc như thế này, khi những đứa con trưởng thành của họ - có vẻ đã định hình những tính cách riêng khó đổi – đột nhiên lộ ra một nét tính cách của bố chúng, quá giống đến mức chúng có thể chính là người đàn ông đó, tái sinh, ngay từ cơn ho sù sụ đặc trưng suốt hơn bốn mươi năm qua. Điều mà tôi trông thấy ở Jonathan khi đó là sự đồng ý dễ dàng, không do dự, là sự nhiệt tình thân thiện và cái mong muốn giữ cho mọi chuyện được êm đẹp. Nếu tôi là một mẫu người khác, một mẫu người dũng cảm hơn, tôi sẽ túm lấy vai nó và nói: “Hãy đòi hỏi bất cứ thứ gì con muốn một cách dữ dội hơn nữa. Hãy khó tính và khắt khe hơn nữa. Nếu không chẳng bao giờ con có được một cuộc sống cho riêng mình.”

Thay vào đó, tôi lấy lại chùm chìa khóa xe từ nó và nói: “Lần này con nên để mẹ lái xe. Dù mẹ không nhớ rõ đường đến đó lắm. Và mẹ đã bị như thế đến hơn chục lần rồi.”

Chúng tôi dành hai ngày tiếp theo để nói chuyện, ăn uống và đi xem phim. Tôi dẫn nó đến tham quan căn bếp mà tôi đã thuê và văn phòng tạm thời của tôi, giới thiệu nó với ba nhân viên của tôi. Tôi cũng hỏi thăm về cuộc sống của nó, dù tôi luôn không chắc phải diễn đạt những câu hỏi của mình như thế nào. “Đứa bé sao rồi?” là câu mở đầu rõ ràng nhất.

“Nó vẫn khỏe ạ,” nó nói trên ly cocktail margarita. “Nó luôn làm cho con ngạc nhiên. Đôi lúc con thấy có vẻ như nó đang thay đổi từng chút. Con bắt đầu hiểu vì sao người ta lại có đến năm, sáu đứa con – thật khó để chấp nhận sự thật rằng giờ đây nó đã biết bò, và nó sẽ không bao giờ ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào người khác nữa. Đó cũng là một sự nhẹ nhõm. Nhưng con có thể thấy mình lại muốn có thêm một đứa nữa như thế nào chỉ vì muốn được trông thấy ai đó trải qua thời kì phụ thuộc khủng khiếp đó lần nữa.”

“Và con dành rất nhiều thời gian cho con bé?” Tôi hỏi.

“Tất nhiên rồi ạ. Tất nhiên là con phải làm thế rồi. Con là bố nó mà. Con là một trong hai người bố của nó.”

Tôi lắc đầu. “Có lẽ mẹ không hiểu lắm,” tôi nói.

“Hiểu gì cơ ạ? Mẹ đã đến đó, mẹ đã thấy tất cả bọn con ở bên nhau còn gì. Bọn con là ba người cùng nuôi một đứa con chung. Có gì to tát đâu.”

“Không có gì to tát cả,” tôi nói. “Mẹ nghĩ là do mẹ cổ hủ thôi.”

“Mẹ đâu có cổ hủ. Không thể nào cổ hủ với kiểu tóc như thế kia được.”

“Ừm, cứ cho là thế. Mẹ lo rằng con đang bị lợi dụng trong toàn bộ chuyện này. Bobby và Clare có nhau. Còn con có gì?”

Đây là một vấn đề nhạy cảm. Chúng tôi chưa bao giờ chính thức thừa nhận những khuynh hướng tự nhiên của nó – ngoài Bobby, tôi chưa bao giờ gặp một mối quan hệ bất chính nào khác của Jonathan. Theo như những gì tôi biết, nó không có những mối quan hệ kiểu đó. Và thực sự thì: tôi thích như thế. Nếu nó cứ kiên quyết với việc đó, tôi sẽ cố gắng chấp nhận hình ảnh con trai mình có quan hệ tình cảm với những người đàn ông khác. Nhưng nó không có tính cố chấp. Nó thường về thăm chúng tôi trong vai trò một người độc thân trong trắng, bố nó và tôi luôn sẵn sàng đón tiếp nó như vậy. Nếu nó thất bại trong cuộc đời này, tôi cho rằng chính chúng tôi phải chịu trách nhiệm về việc đó.

“Chúng con có nhau,” nó nói. “Mẹ à, mẹ đúng đấy. Mẹ chẳng hiểu gì cả. Có lẽ mẹ con mình nói sang chuyện khác đi.”

“Nếu con muốn. Hãy nói cho mẹ nghe. Con có thấy hạnh phúc khi làm những điều mà con đang làm không?”

“Có chứ ạ. Con rất sung sướng. Và con là thành phần của một thứ gì đó. Con là thành phần của một gia đình và một công việc. Bọn con đang cùng nhau xây dựng một tổ ấm. Mẹ đã quá để ý tới việc trông bọn con không hoàn toàn giống với một gia đình bình thường đấy.”

“Đúng thế. Mẹ sẽ cố không quá chú ý tới điều đó nữa.”

Và, một lúc sau, chúng tôi chuyển sang những chủ đề khác. Nếu nó thốt ra những lời thú nhận về thứ tình yêu dị giáo đó thì tôi đã có thể phản ứng lại. Nhưng tôi không thể đòi hỏi một sự thẳng thắn như thế. Chỉ đơn giản là tôi không thể. Đó sẽ là việc của nó.

Tôi không nhắc gì đến lý do thực sự của tôi cho tới đêm trước khi nó đi. Hôm đó chúng tôi ăn tối ở nhà – tôi đã làm món salad bơ đơn giản và những khoanh cá hồi nướng. Sau khi những chiếc đĩa đã được dọn đi, tôi pha cà phê và nói: “Jonathan, con yêu, lần này mẹ gọi con đến đây là có lý do đấy. Mẹ muốn trao cho con một thứ.”

Mắt nó sáng lên – chắc nó nghĩ tôi có một kho báu gia truyền dành cho nó. Trong một thoáng, tôi có thể thấy nó hệt như hồi lên bốn, cư xử đúng mực một cách già dặn nhưng vẫn không giấu nổi sự thèm muốn trong cửa hàng đồ chơi, nơi không món đồ nào là quá đắt đến nỗi nó không dám mơ tưởng đến.

“Gì thế ạ?” Nó hỏi, sự háo hức được che giấu một cách tế nhị.

Tôi thở dài. Nếu tôi có một cái chăn hay một chiếc đồng hồ bằng vàng, tôi sẽ đưa ngay cho nó, nhưng Ned và tôi đều không cất giữ những thứ như thế. Chúng tôi đều sinh trưởng trong những gia đình quan tâm đến tương lai hơn là quá khứ. Tôi lên phòng ngủ trên gác mà không nói gì, lấy cái hộp ra khỏi ngăn kéo và mang nó xuống.

Jonathan biết cái hộp đó là gì. “Ôi, mẹ,” nó nói.

Tôi nhẹ nhàng đặt cái hộp lên bàn, một cái hộp gỗ hình chữ nhật phẳng nhẵn, trên đó có khắc họ tên cùng ngày tháng năm sinh, năm mất của Ned. “Đã đến lúc con phải chịu trách nhiệm với thứ này rồi,” tôi nói. “Yêu cầu duy nhất của bố con là con được toàn quyền quyết định việc xử lý nó.”

Nó gật đầu. Nó nhìn cái hộp nhưng không chạm vào. “Con biết,” nó nói. “Bố đã nói với con.”

“Con đã nghĩ về chuyện đó chưa?” Tôi hỏi.

“Rồi ạ. Chắc chắn là con đã nghĩ tới điều đó. Mẹ à, đó phần nào là lý do khiến con làm những việc con đang làm đấy. Con đang cố tạo nên một gia đình.”

“Mẹ hiểu.” Tôi ngồi xuống cạnh nó. Chúng tôi đều ngắm nghía cái hộp như thể ngờ rằng nó có thể tự di chuyển được.

“Mẹ đã nhìn vào bên trong cái hộp chưa?” Nó hỏi.

“Rồi. Ban đầu mẹ nghĩ mẹ không thể chịu được khi thấy nó. Thời gian trôi qua, mẹ nhận ra rằng mẹ không thể chịu được nếu không nhìn vào bên trong.”

“Và?”

“Nó như bồ hóng ấy. Xám vàng. Nó có nhiều hơn là con nghĩ đấy. Mẹ đã tưởng nó chỉ có một nắm thôi, một thứ thật mịn mà con có thể tung vào trong gió chỉ bằng một tay. Nhưng hóa ra không phải thế, nó khá là nhiều. Có vài mảnh xương vụn li ti, sẫm màu, như ngà voi để lâu vậy. Con yêu, mẹ có thể nhận ra một điều – nó không hơn gì một đôi giày cũ của bố con. Con có muốn xem không?”

“Không. Không phải bây giờ.”

“Cũng được.”

“Sao mẹ lại đưa nó cho con lúc này?” Nó hỏi. “Ý con là, ừm, chính xác là thế đấy. Sao lại là lúc này?”

Tôi do dự. Sự thật là: Tôi đã bắt đầu hẹn hò một người. Anh ta trẻ hơn tôi, tên là Paul Martinez, và anh ta đã bắt đầu dạy tôi một loạt những điều thú vị mà tôi khó có thể tưởng tượng nổi hồi còn sống với Ned.

Dường như cuộc đời tôi đã diễn ra theo chiều đảo ngược. Với Ned, tôi đã có được một tổ ấm và một cuộc sống quy củ, một sự bình yên mà người ta hi vọng có được khi về già. Còn giờ đây, trước ngưỡng cửa của tuổi già thực sự, có vẻ tôi đã yêu một người đàn ông da sẫm ưa tranh cãi, người biết chơi guitar và hôn tôi ở những chỗ mà Ned đã ngần ngại ngay cả việc gọi tên chúng. Tôi thấy bây giờ mà còn cất tro của anh trong nhà thì quả là không thích hợp.

Nhưng tất cả những gì tôi nói với Jonathan lại là: “Mẹ sợ rằng mẹ đang biến thành Morticia Addams[67], với tro của chồng mình trên bệ lò sưởi. Đáng lẽ mẹ không nên giữ chúng lâu đến thế.”

[67] Nhân vật trong truyện tranh Gia đình Addams.

Tôi sẽ còn nhiều thời gian để kể về Paul, nếu chúng tôi vẫn còn giữ được sự thu hút. Dù sự chăm sóc của anh làm tôi cảm động, nhưng tôi vẫn chưa tin tưởng lắm – có quá nhiều lý do để một người đàn ông trẻ tuổi mau chóng tin rằng anh ta yêu một phụ nữ lớn tuổi hơn. Tại sao lại phải làm cho Jonathan khó chịu một cách không cần thiết như thế? Tôi sẽ chờ xem liệu mối tình này có đủ nghiêm túc để đáng làm cho nó buồn hay không.

“Con có thể hiểu được,” nó nói. “Con không tin lắm rằng đây thực sự là tro của bố. Điều này có vẻ quá… Điều này có vẻ không giống với một việc xảy ra trong thế kỉ XX. Khi mà một công dân cất giữ hộp tro của bố mình.”

“Con có muốn cùng mẹ rải chúng ở sa mạc không?” Tôi nói. “Chúng ta có thể đi ngay bây giờ.”

“Ở đây ạ? Ý mẹ là đem chúng ra ngoài để rải ngay đằng sau ngôi nhà này?”

“Đúng. Nghe này. Đây không phải là cuộc sống mà bố mẹ hằng mơ ước. Nó không phải là những mơ mộng đã trở thành sự thật của bố mẹ. Chắc chắn là không. Nhưng đây là nơi mà bố mẹ đã chọn làm nơi ở cuối đời, và bố mẹ không thấy bất hạnh khi ở đây. Nói thật với con, mẹ đã rất hạnh phúc.”

“Bố đã bảo con là đừng chôn bố ở sa mạc. Bố đã nhất định bảo con thế. Bố muốn con ổn định cuộc sống trước, rồi hãy chôn bố ở nơi nào mà con xây dựng gia đình.”

“Jonathan, con yêu. Con không nghĩ là có gì đó hơi… phù phiếm với cái mong mỏi về một gia đình đó à?”

Nó hấp háy mắt trong sự ngạc nhiên giả bộ. “Mẹ,” nó nói. “Mẹ đang bảo con sống theo kiểu mới đấy à?”

“Mẹ đang bảo con là đừng lo lắng quá nhiều nữa,” tôi nói. “Bố con đã mất rồi. Ông ấy quan tâm đến sự lông bông của con vì ông ấy không thể tưởng tượng được rằng người ta có thể có hạnh phúc dù không bị ràng buộc. Đó là bản tính của ông ấy. Nhưng sẽ thật đáng tiếc nếu để cái trí tưởng tượng bị giới hạn của bố con kiềm chế cuộc đời con. Đặc biệt là khi ông ấy đã mất.”

Nó gật đầu. Sau một thoáng do dự, nó giơ tay ra và chạm vào chiếc hộp. Nó nhẹ nhàng lướt những đầu ngón tay lên những chữ chạm khắc trên chiếc hộp. Không ngẩng lên, nó nói: “Mẹ, nếu con có mệnh hệ gì….”

“Con sẽ chẳng sao cả,” tôi vội nói.

“Nhưng nếu có…”

Tôi hít một hơi và nhìn nó. Đây là lý do thực sự khiến tôi luôn mù quáng mang trong đầu hình ảnh độc thân đơn giản của Jonathan, cùng giới tính lệch lạc của nó. Tôi biết một ngày nào đó tôi có thể nhận được một cú điện thoại, từ Bobby hoặc Clare hay ai đó mà tôi chưa bao giờ gặp, nói cho tôi hay cái tên của một bệnh viện.

“Được thôi,” tôi nói. “Nếu có chuyện gì đó xảy ra…”

“Nếu có chuyện gì đó xảy ra, nếu mẹ bị vướng bận với cả bố và con, thì con không muốn mẹ rải tro của bố con con trên sa mạc này. Nó khiến con thấy rùng mình. Được không ạ?”

Tôi không nói gì. Tôi đứng dậy và đi rót cà phê.

“Con có muốn đem chúng về rắc ở Woodstock không?”

“Có lẽ. Con không chắc lắm.”

“Tùy con,” tôi nói. “Đây hoàn toàn là quyết định của con.”

“Con biết. Con sẽ tìm một chỗ thích hợp. Mẹ có muốn đi xem phim không?”

“Thay vào đó sao không chơi một ván sắp chữ?”

“Vâng,” nó nói. “Cũng được. Tùy mẹ.”

Ngày hôm sau, chúng tôi lái xe đến sân bay với tro của Ned được nhét trong túi khoác vai màu đen của Jonathan, được bao bọc giữa những chiếc tất và đồ lót. Lần này tôi giành quyền lái xe, và Jonathan không phản đối. Đó là một ngày u ám hiếm hoi, bầu trời đầy những đám mây ùn ùn kéo xuống từ dãy núi Rocky, ảm đạm nhưng không có vẻ là sẽ mưa. Không khí có màu bạc, khắp nơi tràn ngập một thứ ánh sáng đều đặn, gần như không biết bắt nguồn từ đâu, có thể là được hắt lên từ nền sa mạc hay tỏa ra từ không khí.

Jonathan đang kể cho tôi nghe về hứng thú đang tăng dần của nó với nghề mộc khi tôi ra khỏi đường cao tốc, rẽ sang một con đường nhánh mà tôi biết.

“Mẹ,” nó nói. “Đây là đường tắt ạ?”

“Không. Không phải.”

“Vậy chúng ta đang đi đâu thế?”

“Cứ ngồi yên đấy.”

“Con sẽ lỡ chuyến bay mất,” nó nói.

“Không phải lo. Mà dù có bị lỡ đi nữa thì con vẫn có thể bay chuyến khác cơ mà.”

Con đường mới rải nhựa đường, giống như một dải ruy băng mỏng, chạy đến dãy núi nơi những người giàu có đã xây nhà rải rác trên đó. Một trong số những người khách hàng của tôi sống ở đó, trong một ngôi nhà quá gắn bó với những ngọn núi xung quanh đến nỗi người ta khó có thể nhận ra nó là một ngôi nhà. Tuy nhiên, trước khi con đường đến được những ngôi nhà cầu kì đó, nó dốc xuống một khe suối cạn vốn amng trong mình một trong những điều ngạc nhiên nho nhỏ của sa mạc: đó là sự hiện hữu của nước ngầm. Nó không lộ rõ đến mức hình thành nên một cái vũng nhưng cũng đủ ẩm ướt để mọc lên những đám cỏ tươi tốt và một rặng cây dương lá rung khiêm tốn, những chiếc lá của nó rung rinh như thế đang ngạc nhiên không ngớt.

Tôi dừng xe trong cái khe cạn. Trông nó đẹp một cách huyền ảo trong thứ ánh sáng âm u. Những thân cây trắng và những chiếc lá màu xanh nhạt của những cây dương lá rung đang lấp lánh, và một vạt nắng, xuyên qua chúng, tỏa sáng lên một vách núi xù xì màu đỏ phía xa xa.

“Jonathan,” tôi nói. “Hãy rải tro của bố con ở đây này. Hãy làm cho xong đi.”

“Ở đây ạ?” Nó hỏi. “Sao lại là ở đây?”

“Sao lại không? Con không nghĩ là nơi này rất đẹp sao?”

“Ồ, dĩ nhiên là có. Nhưng…”

Nó liếc về băng ghế sau, về phía cái túi của nó.

“Lấy cái hộp ra đi,” tôi nói. “Nào, làm đi. Hãy tin mẹ.”

Nó từ từ với tay ra sau, với sự ngập ngừng thấy rõ, và mở khóa của cái túi. Nó quay người lại, ẵm cái hộp bằng cả hai tay.

“Mẹ có chắc không?” Nó nói.

“Mẹ chắc. Đi thôi.”

Chúng tôi ra khỏi xe, bước vài bước trên đám cỏ khô dày. Jonathan ôm cái hộp. Những con ruồi lờ đờ vo ve quanh chúng tôi, và một con thằn lằn màu bụi nằm yên trên đỉnh một tảng đá màu hồng cao đến thắt lưng, nhìn chúng tôi chằm chằm với cả cuộc đời ngắn ngủi của nó.

“Quả là đẹp,” Jonathan nói.

“Thi thoảng mẹ vẫn đi qua đây,” tôi nói. “Mẹ có khách hàng ở đây mà. Từ bây giờ, mỗi khi con đến thăm mẹ, mẹ con mình có thể đến đây nếu con thích.”

“Con có nên mở cái hộp không nhỉ?” Nó hỏi.

“Mở đi. Không khó khăn gì. Con có biết cách mở không đấy?”

“Con nghĩ là con biết.” Nó chạm vào cái móc. Rồi nó tụt tay lại, không nhấc cái nắp lên.

“Không,” nó nói. “Con không thể. Đây không phải là nơi thích hợp.”

“Con yêu, chúng chỉ là đám tro thôi mà. Hãy rải chúng đi và tiếp tục sống vì cuộc đời của chúng ta.”

“Con đã hứa với bố rồi. Đây không phải là nơi thích hợp đâu. Đây không phải là điều bố muốn.”

“Quên những gì ông ấy muốn đi,” tôi nói.

“Mẹ có thể làm vậy. Còn con thì không.”

Nó giữ chặt cái hộp, các đốt ngón tay trắng bệch ra như thể nó sợ tôi sẽ lấy mất. Tôi nói: “Không đúng.”

“Con không biết điều đó có đúng hay không. Đó là sự thật. Mẹ, sao mẹ lại muốn lấy bố?”

“Mẹ đã kể cho con nghe chuyện đó rồi mà.”

“Mẹ chỉ kể với con về việc mẹ đi đôi giày màu trắng sau ngày Quốc tế Lao động và bố có mái tóc dày dặn rất đẹp, mẹ không thể nghĩ ra lý do nào để không lấy bố, do đó mẹ đã làm thế,” nó nói. “Nhưng sao mẹ lại lấy bố, sao mẹ vẫn ở với bố, nếu mẹ không còn hứng thú với điều đó nữa? Có phải gia đình ta được tạo nên chỉ vì mẹ nghĩ là mẹ cần phải lấy chồng và sinh con không?”

“Hãy ăn nói cẩn thận, con trai. Mẹ yêu bố con. Con đâu có ngồi lì trong cái căn hộ chung cư đó bao năm trời. Con đâu có tỉnh giấc với ông ấy trong đêm khi ông ấy không thở được và rơi vào mê sảng.”

“Vâng. Nhưng mẹ có yêu bố không? Thực sự con chỉ muốn biết điều đó thôi. Con hiểu mẹ đã hi sinh vì bố, đã chăm sóc bố, và tất cả những điều tương tự như thế. Nhưng mẹ có yêu bố không?”

“Sao con lại hỏi mẹ mình một câu như thế?”

Nó vẫn ẵm cái hộp trong tay. “Con nghĩ có lẽ con yêu bố,” nó nhẹ nhàng nói. “Con tôn thờ bố.”

“Ông ấy chỉ là một người đàn ông bình thường thôi mà.”

“Con biết. Mẹ không nghĩ là con biết điều đó à?”

Chúng tôi đứng một lúc ở rìa rặng cây dương lá rung. Chẳng có gì xảy ra, chẳng có gì chuyển động. Jonathan giữ khư khư cái hộp, mắt mũi nhắm chặt lại một cách bướng bỉnh. Sau vài phút tôi nói: “Jonathan, hãy tự tìm lấy cho mình một người để yêu.”

“Con đã có rồi,” nó nói.