Đã mười năm kề từ lần cuối Hugo nhìn thấy ngôi nhà mình, nếu ai đó có thể gọi Thái ấp Stephensgate là nhà. Còn Hugo thì không thể. Ký ức về sự phản bội của người anh trai vẫn còn sắc nét như thể nó chỉ mới xảy ra ngày hôm qua. Và dù anh trai của chàng đã qua đời từ lâu, và bố mẹ chàng cũng vậy, nhưng Hugo không thể tránh khỏi rùng mình khi chàng tiến vào cổng của thái ấp.
Dù chuông nhà thờ trong làng đã điểm tám tiếng nhưng trời vẫn còn khá sáng[13]. Và trong ánh sáng màu tím đó, Hugo có thể nhận rõ những bức tường bằng đá bao quanh thái ấp Stephensgate. Nó không hẳn là một lâu đài, bởi vì thiếu hào nước và cầu rút và các đồ vũ trang thường có ở một pháo đài được phòng thủ tốt, thế nhưng nó vẫn là một tòa nhà đường bệ, phủ bóng xuống làng Stephensgate như là một con chim săn mồi.
[13] Tại Châu Âu, vào mùa xuân, hè mặt trời lặn khá muộn.
Được xây dựng hoàn toàn bằng đá, kể cả phần mái, cùng với bức tường cao gần hai thước bao quanh chuồng ngựa, lò nướng bánh và nhà kho, thái ấp Stephensgate là nơi ở cho chủ nhân của Stephensgate và thuộc hạ của ngài vào thời chiến, thế nhưng công trình duy nhất thực sự phục vụ cho mục đích này là hai tòa tháp ở biên sườn của thái ấp. Trên đỉnh tháp là những lỗ châu mai nơi cung thủ có thể đứng nấp và bắn vào kẻ địch ở bên ngoài.
Bởi vì chúng được xây dựng thuần túy cho mục đích chiến sự, vậy nên bên trong tháp hoàn toàn không có gì ngoài cầu thang xoắn để đi lên nóc.
Vì hơn một thế kỷ qua Stephensgate không phải trải qua cảnh chiến tranh, hai tòa tháp bị bỏ hoang trước khi đến đời cha của Hugo, và ngoại trừ khi Hugo hay anh trai Henry trèo lên những bậc thang đó vì một trò chơi khăm trẻ con nào đó, Hugo chẳng hề thấy bất cứ ai khác vào những tòa tháp đó vì bất cứ lý do gì. Bởi vậy mà khi chàng và John de Brissac đi qua cánh cổng của thái ấp và xuống ngựa, Hugo ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng gọi từ trên lỗ châu mai.
“Xin chào.”
Hugo ngước nhìn lên trong ánh trời chạng vạng và thấy khuôn mặt của một cậu bé trai đang cúi xuống nhìn chàng.
“Chào,” Hugo nói. Đó là một buổi tối yên ả, sự tĩnh lặng chỉ bị phá vỡ bởi bởi tiếng gù gù của lũ chim câu đang làm tổ giữa các lớp ngói của nhà chính. Giọng của chàng có vẻ như to một cách khác thường trong cái sân tĩnh lặng.
“Chào Jamie,” quận trưởng de Brissac vui vẻ gọi với lên. Ông đã xuống ngựa, và con tuấn mã của ông, sau khi được giải thoát khỏi gánh nặng đáng kể của ông chủ to lớn, nhún nhảy trên lớp đá sỏi. “Gọi Webster tới đây đi nhóc. Chúng ta cần có người dắt ngựa đi.”
Đầu của Jamie không nhúc nhích, “Ông đi cùng ai vậy, ông quận trưởng?” cậu hỏi. Hugo nhận thấy cậu bé chỉ khoảng chín hay mười tuổi, nhưng cậu ta có cái vẻ rất là oai cho dù đang ở trên đỉnh tòa tháp cao tới sáu thước.
“Người đó à?” Quận trưởng de Brissac tặc lưỡi.
“Đây chính là ngài Bá tước đấy.”
Cậu bé nhướn mày với vẻ quan tâm. “Đức ông Hugo ạ?”
“Đúng vậy đấy.”
Cậu bé nhìn chằm chằm vào Hugo trong một giây và rồi mái tóc vàng óng biến mất. Hugo nhìn viên quận trưởng với vẻ thú vị.
“Thằng nhóc đó là ai vậy?” chàng hỏi, tháo đôi găng tay cưỡi ngựa ra.
“Đó là Jamie.”
“Laroche đang cho phép bao nhiêu kẻ ăn bám tụ tập ở đây vậy?” Hugo nhìn quanh sân và lấy làm kinh ngạc vì mười năm qua chẳng có gì thay đổi cả. Các chuồng ngựa, lò bánh mì... mọi thứ vẫn hệt như vậy. Có thể là hơi tiều tụy hơn một chút. Chắc chắn là không phải phồn thịnh hơn. Nhưng thật lạ là lại giống nhà hơn.
Quận trưởng thở dài. “Đủ mọi loại luôn. Bao gồm cả gã hộ vệ mà ngài đã cử về trước...”
“Vậy ư? Peter đã tới đây rồi à?” Hugo lấy làm ngạc nhiên. Chàng chẳng mong hắn ta tìm được cầu Luân Đôn mà không bị lạc lấy một vài lần.
“Hắn đã tới hôm qua, với một câu chuyện khá là giật gân. Kể rằng ngài đã bị bọn cướp đường mai phục và rằng chúng sẽ gửi tin đòi tiền chuộc ngài sớm. Laroche không biết chắc hắn ta là người thế nào nên đã cho gọi tôi tới. Tất nhiên, khi thằng nhóc trông thấy tôi, hắn ta câm như hến.”
Hugo cười thầm. “Finnula đã bảo hắn rằng nếu hắn hé miệng nói với quận trưởng về việc tôi biến mất thì mạng sống của tôi sẽ gặp nguy hiểm.”
“Thì ra là thế. Webster đây rồi.”
Người hầu già đã từng coi sóc các chuồng ngựa của nhà Fitzstephens từ thời mồ ma cha của ngài Geoffrey, lật đật bước về phía họ, cặp mắt mờ đục của ông nhìn chằm chằm vào Hugo.
“Là ngài đấy ư, thưa Đức ông?”
“Là tôi đây, Webster.” Trái tim Hugo rung động vì những cảm xúc bất ngờ khi thấy ông già đó vẫn đang làm việc ở thái ấp này, bất chấp việc ông đã trở thành người tự do từ một năm rồi. Dù là một hay hai mươi năm, Hugo tin rằng Webster sẽ chẳng ra đi cho tới khi ông chắc chắn rằng tất cả các mỹ nhân của ông, như cách ông gọi lũ ngựa, sẽ được chăm lo đầy đủ.
“Thật vui được gặp lại ông,” Hugo nói, sải bước tới và nắm lấy tay Webster.
“Đúng là cậu rồi,” Webster nói. “Tôi nhận ra cái siết tay đó ở bất cứ đâu. Cậu chẳng bao giờ hiểu hết về sức mạnh của mình. Vậy là cậu đã trở lại rồi.”
“Tôi về rồi đây,” Hugo buông tay ra. “Tôi sẽ ở lại đây.”
“Cũng đã đến lúc rồi.” Ông già gật đầu. “Các mỹ nhân của tôi bắt đầu phải chịu khổ rồi. Nhưng giờ thì cậu đã về, chúng sẽ ổn thôi.”
Chẳng nói năng gì thêm, ông già quay ra cầm lấy cương của hai con ngựa, lê bước về phía cửa chuồng ngựa và thì thầm vào tai Skinner. Hugo nhìn theo người hầu già, môi chàng mím lại với vẻ không hài lòng.
Chàng nói với viên quận trưởng, “Lẽ ra tôi nên thấy hài lòng vì họ giữ ông ấy lại. Chúa biết họ có thể đuổi ông ấy đi khi mà ông ấy mù lòa như thế này. Nhưng sao họ không sai một thằng nhóc giúp ông ấy...”
“Lại phải nuôi thêm một miệng ăn ư?” John de Brissac nhếch mép cười dưới bộ râu rậm rạp. “Đó không phải là kiểu cách của ông chú họ Laroche của ngài. Không, ông ta giữ ông già lại bởi vì chẳng thể kiếm được ai làm tốt thế với tiền công rẻ mạt như vậy. Ông ấy rất tận tâm với lũ ngựa. Và viên quản lý của ngài chỉ phải trả cho ông ấy mức lương của một cô vắt sữa bò...”
“Ra là vậy. Lẽ ra tôi phải đoán được chứ. Thế còn thằng nhóc Jamie đó?” Hugo nhìn qua sân để tìm thằng bé tò mò đó. “Nó không phải là thằng bé trông ngựa sao?”
“Jamie ư? Không đâu.”
“Nó không phải là con của bà Laver đấy chứ? Bà Laver còn làm trong bếp không?”
“Thì vẫn nhưng Jamie không phải là con của bà ấy, và cậu bé vẫn giúp đỡ khi nào có thể, cho dù là rõ ràng cậu ta gây hại nhiều hơn là giúp.”
Quận trưởng de Brissac vỗ vỗ hay tai vào nhau, một cử chỉ mà Hugo nhận ra là kiểu cách ưa thích của ông. “Giờ thì, thưa bá tước, ta nên gõ cửa hay là cứ tiến thẳng vào?”
Hugo thấy rõ rằng viên quận trưởng đang háo hức được bắt tay vào việc, chẳng hề có chút nóng lòng mong được về nhà - John đã kể với chàng rất thoải mái rằng ông ấy chẳng có bà vợ nào đang đợi ở nhà, chỉ có mỗi bà mẹ già hay gắt gỏng.
Không giống như quận trưởng, Hugo chẳng mấy háo hức với cảnh tượng đang chờ đợi chàng. Chàng đã thấy quá đủ cảnh chết chóc, bạo lực, và chẳng mong mỏi gì hơn một cuộc sống yên ả, mà chắc chắn điều đó sẽ chẳng xảy ra với người vợ mà chàng đã lựa chọn, nhưng chàng chắc có thể đạt được sự bình yên khi nào chàng và Finnula đã lên chức ông bà. Trông coi lũ nông nô, tham dự một hai giải đấu và chăm sóc con cái là tất cả những sự vui thú mà chàng muốn trong phần còn lại của cuộc đời.
Nhưng để có được sự bình yên đó, chàng cần phải tống cổ Laroche khỏi nhà của chàng, vậy nên chàng nói, “Vớ vẩn, John ạ. Sao tôi lại phải gõ cửa khi vào nhà của chính tôi chứ?”
Nói rồi chàng giơ tay ra để mở cánh cửa nặng nề, nhưng cái chốt bằng sắt đã được rút ra ngay trước khi chàng chạm vào nó. Cánh cửa bằng gỗ sồi nhích ra và một mái đầu tóc vàng quen thuộc ló ra.
Đứng chỉ cao đến hông của Hugo, Jamie nói bằng cách giọng cao chói lói, “Xin mời vào. Các ngài đừng đứng ngoài đó mãi thế.”
Hugo cuối xuống nhìn thằng bé. “Cháu thoải mái như thể Thái ấp Stephensgate là nhà của cháu ấy nhỉ?”
“Con mong là như vậy,” Jamie nói. “Con sinh ra ở đây mà.”
“Vậy à?” Hugo đi lướt qua cậu bé tiến vào đại sảnh của ngôi nhà, cũng chính là một phòng ăn rất lớn.
Đại sảnh chiếm gần hết tầng một của tòa nhà, ở giữa là phần trần vòng cung giống như trong một nhà thờ, từ đó rủ xuống mấy dải biểu ngữ tơi tả có từ thời chiến tranh xa xưa lắm rồi.
Ở cuối sảnh, đối diện với cửa chính là một lò sưởi rất lớn, đủ để làm ấm toàn bộ căn phòng. Phía trước lò sưởi đã đặt sẵn hai cái ghế tựa cao. Ngay lập tức, Hugo nhận ra người ngồi trên một trong hai cái ghế đó là gã hộ vệ Peter của chàng. Còn trong chiếc ghế kia là một người đàn ông gù gù mà Hugo nhận ra là ông em họ Reginald Laroche của cha chàng.
Nghe thấy tiếng họ bước vào, Peter quay đầu lại và thốt lên đầy vui mừng.
“Nhìn này!” gã hộ vệ gọi to, giọng của hắn ta vang vọng khắp căn phòng rộng, “Ông chủ của tôi đây rồi!” Bước đi lảo đảo, Peter lao qua phòng để chào đón Hugo và quận trưởng, và Hugo nhận ra ngay lập tức rằng hắn ta đang say. Đồ ngu nào đã mở hầm rượu cho hắn thì Hugo chỉ có thể đoán, nhưng gã trai say sưa đến mức gần như không thể đứng vững nổi. Dù vẫn mặc cái áo chùng bằng nhung, ít ra gã đã bỏ đi bộ giáp xích và đeo một sợi dây chuyền bằng vàng mà Hugo chưa thấy bao giờ. Chàng hy vọng không phải Laroche đã cho hắn để hòng chiếm lấy sự trung thành của hắn. Hugo biết thừa rằng một mưu mẹo như thế sẽ thành công bởi vì chàng biết rõ sự phù phiếm của Peter. Chỉ cần tắm cho hắn trong quà tặng và cho hắn say khướt như con lợn trong bùn là có thể dễ dàng chiếm được tình cảm của hắn.
Hugo phớt lờ gã hộ vệ, ánh nhìn của chàng hướng về người đàn ông đã đứng dậy và chậm rãi tiến về phía họ, với cánh tay mở rộng trong một cử chỉ thề hiện sự chào đón.
“Đây không thể nào là Hugo Fitzstephen,” Reginald Laroche thốt lên. “Đây đâu phải là chàng trai trẻ đã ra đi mười năm trước trong cơn giận giữ. Chẳng phải sáng hôm đó cháu đã nguyền rủa tất cả mọi người trong cái nhà này sao, thưa bá tước? Giờ thì nhìn cháu mà xem. Cao lớn hơn nhiều bố cháu ngày xưa. Chuyến trở về vui đây chứ John nhỉ? Tôi thấy là anh đã giải cứu bá tước của chúng ta khỏi lũ cướp đường đê tiện mà Peter đã kề cho tôi nghe...”
“Chẳng phải bọn cướp đường gì đâu, Reginald ạ,” John nói, “Đó chỉ là tác phẩm của nữ thợ săn yêu quý của chúng ta thôi.”
Khuôn mặt của viên quản gia sa sầm một chút khi nghe nhắc tới Finnula. Ông ta là một người khá cao, dù không vạm vỡ như Hugo, để ria và khẳng khiu, với mái tóc đen đã ngả bạc ở phía trước. Hugo nhớ rằng lúc nào ông ta cũng có mặt trong thời của cha chàng, không chỉ như một người nhà, một người cố vấn, một viên tổng quản, mà trên hết là bạn thân nhất của Geoffrey Fitzstephen. Một người bạn mà nếu sự nghi ngờ của Hugo là đúng, có thể đã sát hại cha chàng để nắm lấy quyền kiểm soát thái ấp, và rồi đổ tội lên cô dâu vô tội của vị bá tước quá cố.
“A,” Reginald thốt lên và sự thất vọng trong giọng nói của ông ta chỉ có một nửa là giả vờ. “Thế mà gã hộ vệ của cháu nói với bọn tôi rằng những kẻ đó ghê gớm lắm!”
“Cô ta đã nói sẽ giết ông chủ nếu tôi để lộ điều gì,” Peter nói líu nhíu một cách sung sướng. “Nhưng mà tôi sẵn sàng chết một ngàn lần để đổi lấy một nụ hôn từ cô nàng...”
Nụ cười của Reginald dường như đóng băng trên khuôn mặt hẹp của ông ta. “Chúng tôi đang chờ thư đòi tiền chuộc, nhưng vui mừng thay cháu đây rồi. May quá, con gái tôi... cháu nhớ Isabella chứ? Giờ nó đã thành một thiếu nữ xinh đẹp... và nó đã chuẩn bị phòng ngủ của cha cháu sẵn sàng cho cháu...”
Hugo nhướn mày. “Chẳng phải chú đang sử dụng nó sao, Reginald?” chàng hỏi sau sự ra hiệu của quận trưởng.
“Cái gì, tôi ấy à? Phải rồi, nhưng giờ khi mà cháu đã trở lại, thưa bá tước, nó chỉ hợp với...”
“Đúng đấy.”
Hugo thấy rõ Laroche định chơi trò gì. Người chú họ trung thành, đã cố gắng hết sức để chèo chống thái ấp sau cái chết đau đớn của ngài bá tước, giờ lại rất vui sướng được phục vụ hậu duệ của Đức ông quá cố. Chắc hẳn Laroche không biết rằng Hugo đã được nghe nói ít nhiều về tình hình đất đai và nông nô của chàng. John de Brissac chẳng có lý do gì để ba hoa điều đó, và sẽ chẳng có ai khác dám làm điều đó. Ngoại trừ tất nhiên là Finn Xinh đẹp. Nhưng cô ta đang bị nghi ngờ về việc ám sát ngài Geogttrey. Ai lại ngu ngốc đến nỗi tin lời của cô ta?
“Nơi này trông ổn đấy, chú Reginald ạ.” Hugo nói. “Tôi rất mừng khi thấy ông già Webster ở ngoài kia. Nhưng chắc chú thấy rõ là ông ấy giờ yếu đi nhiều rồi. Chú có nghĩ đến việc cho người giúp ông ấy chưa?”
“Mọi việc bây giờ không còn được như xưa đâu, thưa bá tước. Không hề.” Gã quản gia lắc đầu với vẻ đau thương. “Cha của cậu đã bán đi gần hết số ngựa trước khi ông qua đời. Việc duy trì một tàu ngựa lớn chẳng có ích gì khi mà ông ấy chỉ còn có một mình, cậu biết đấy...”
“Ông ấy làm vậy thì lạ thật, chú có nghĩ vậy không?” Hugo quát găng tay của chàng vào một cái khiên treo trên tường, với gia huy của dòng họ Fitzstpehen có hình hai con chim cắt và một con cừu. “Xét theo việc ông ấy định kết hôn. Ít ra, hẳn ông ấy phải dành cho cô dâu của mình một con ngựa chứ. Rồi còn con cái của họ nữa...”
Reginald do dự, nhưng chỉ trong một giây. “Ngài quận trưởng đã kể với cháu chuyện đó rồi phải không? Đúng là một ngày đen tối trong lịch sử dòng họ. Sự điên rồ đã chiếm hữu cha cháu trong những tuần lễ bất hạnh đó, dẫn tới cái đám cưới yểu mệnh...” Mặt viên quản gia tối sầm khi nhớ lại ký ức đó, rồi với một tiếng thở dài, ông ta tươi tỉnh trở lại, giống như một người đàn ông muốn được gạt bỏ những ý nghĩ không hay lại phía sau.
“Nhưng sẽ chẳng có ích lợi gì mà cứ níu kéo những ngày đau buồn đó, khi mà có bao ngày vui đang đợi cháu ở phía trước, thưa bá tước. Chúng ta phải ăn mừng sự trở về của cháu mới được. Jamie, chạy đi bảo bà Laver rằng ngài bá tước đã trở về, và bảo bà ấy hãy chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với một vị bá tước. Bảo bà ấy là ta cho phép giết một con lợn thật béo tốt...”
Jamie đang quan sát toàn bộ sự việc với đôi mắt màu hạt dẻ mở to, trông có vẻ giật mình. “Một con lợn ư, thưa ông? Tiểu thư Isabella sẽ không thích thế đâu...”
“Bảo với tiểu thư Isabella rằng ngài bá tước đã trở về. Nó sẽ hiểu thôi.” Reginald chậm rãi nói, rít những từ ngữ qua kẻ răng theo cách của một kẻ quen với việc mệnh lệnh của mình được thi hành ngay lập tức. Cậu bé lập tức chạy biến và viên quản gia quay lại với một tiếng thở dài.
“Thời buổi này tìm được người tin cẩn khó làm sao,” Reginald nói, lắc đầu.
“Tôi cũng nghĩ chắc là khó khăn lắm.” Hugo khoanh tay trước ngực. “Đặc biệt là khi chú chỉ trả cho họ một phần ba mức họ đáng được nhận.”
“Gì cơ?” Reginald trông có vẻ bối rối.
“Chú nghe rồi đấy.” Hugo gằn giọng. “Peter, ra chuồng ngựa giúp Webster buộc ngựa của chúng ta đi.”
Peter say đến nỗi gần như không đứng vững, ấy thế nhưng vẫn khó bảo như mọi khi. “Giúp Webster à?”
Gã rên rỉ. “Tại sao ạ? Ông già đó có thể lo cho hai con ngựa được mà. Hơn nữa chỉ có ba con nữa trong tàu ngựa...”
“Làm như ta bảo!” Hugo gầm lên, giọng của chàng vang vọng khắp đại sảnh.
Peter nhảy dựng lên và chạy biến. Hugo chưa bao giờ thấy gã chạy nhanh như vậy và chàng cảm thấy rất hài lòng rằng dù đang say, nhưng gã hộ vệ vẫn rất mau lẹ.
“Thưa bá tước,” Reginald nói, khi cánh cửa gỗ sồi to lớn đóng sầm lại sau lưng gã hộ vệ. “Có chuyện gì à? Thứ lỗi cho tôi nói thẳng, nhưng dường như cháu... không hài lòng.”
“Thành thực mà nói, thưa bá tước,” Reginald nói tiếp với một nụ cười ngọt xớt, “nếu việc ngài Geoffrey bán ngựa khiến cháu lo lắng, thì tôi có thể nói rằng những tuần cuối đời của ông ấy không được dễ chịu cho lắm. Ồng ấy dường như là một người bị ám ảnh...”
“Hay một người với đầu óc bị phá hủy từ từ bằng thuốc độc,” Hugo hòa nhã nói.
“Thuốc độc ư, thưa bá tước?” Tay quản gia nhướn mày ngạc nhiên. “Cháu vừa nói là thuốc độc ư? Vâng, người ta có nói về khả năng bị đầu độc vào lúc ông ấy qua đời. Tôi cho rằng con nhóc mà ông ấy cưới đã lén bỏ thứ gì vào cốc của ông ấy...”
“Không,” Hugo nói chắc chắn. “Sự đầu độc đã bắt đầu rất lâu từ trước đám cưới đó. Chính vì bị đầu độc mà ông ấy trở nên điên rồ đến mức muốn có một đám cưới như vậy.”
“Nhưng thưa bá tước,” Reginald nói, liếm môi bối rối. “Cháu có hiểu mình đang nói gì không?”
“Tôi hiểu quá đi chứ.” Hugo bắt đầu bước thành vòng tròn rộng quanh viên quản gia. “Trong lịch sử của gia đình tôi, thưa ông Laroche, chẳng hề có ghi chép nào về chứng điên. Không phải ông tôi, không phải cụ tôi, hay kỵ tôi từng phải chịu cảnh mất trí như vậy...”
“Có rất nhiều thứ có thể khiến một con người trở nên điên rồ,” Reginald Laroche khăng khăng. “Trong trường hợp của cha cháu, đó là do mánh khóe của một đứa con gái. Vào thời xưa người ta đã có thể buộc tội nó là đồ phù thủy...”
“Không,” Hugo nói, không hề rời mắt khỏi viên quản gia. “Finnula Crais không phải là nguyên nhân cho sự điên rồ của cha tôi. Nguyên do là vì ông đã bị đầu độc, chỉ đơn giản là như vậy.”
Reginald thở mạnh, hướng cái nhìn về phía quận trưởng, “Ông đã kể với cậu ấy những gì tôi đã nói sau khi lão già... ý tôi là ngài Geoffrey chết chưa? Rằng tôi đã nghĩ rằng chính đứa con gái đó đã bỏ thuốc độc. Hugo, cháu nên thấy con bé đó căm ghét ông ấy đến thế nào. Nó không để cho ông ấy chạm đến nó. Một đứa con gái lạ lùng, chẳng có chút gì nữ tính. Ông quận trưởng đã kể cho cậu ấy là chúng ta nghi ngờ nó săn trộm thú của tôi... của ngài Bá tước chưa? Một kẻ sát nhân, săn trộm, có khi còn là đồ phù thủy nữa...”
“Ông đang buộc tội một cô gái lương thiện, chất phác,” Hugo bước ngày càng nhanh hơn.
“Chất phác ư, thưa bá tước? Không đâu, Finnula Crais không hề đơn giản. Cô ta mặc cái quần trơ trẽn đó cho tất cả nhìn thấy, chứ không chịu mặc váy dài như là một con chiên biết kính sợ Chúa...”
“Đủ rồi,” Hugo quát lên, dừng lại ngay trước mặt gã quản gia. “Ông không được phép nói thêm một lời xấu xa nào nữa về cô ấy. Việc của ông bây giờ là xuất trình giấy tờ mua bán ngựa của cha tôi. Hãy mang cho tôi xem các sổ sách kế toán và giải thích tại sao mức thuế mà các nông nô của cha tôi phải nộp lại tăng thêm một phần ba. Và ông sẽ phải giải thích cho tôi tại sao mùa đông này, có rất nhiều nông nô lẽ ra đã phải chết đói nếu không có lòng tốt của con người mà ông vừa phỉ báng độc địa đó.”
Reginald Laroche chắc hẳn đã ngờ tới việc như thế này sẽ xảy ra. Chắc hẳn hắn ta đã nghĩ nếu Hugo sống sót trở về sau cuộc Thập tự chinh, thế nào chàng cũng sẽ biết về các hành động của hắn ta sau cái chết của ngài Geoffrey. Hugo không thể chứng minh rằng hắn đã đầu độc cha chàng, cho dù chàng khá chắc chắn về khả năng đó.
Nhưng chàng có thể dễ dàng chứng minh Reginald Laroche về tội bòn rút và biển thủ, và vì thế mà chàng muốn John de Brissac có mặt khi buộc tội hắn ta.
“Thưa bá tước,” gã quản gia thốt lên và khiến cho Hugo ngạc nhiên bằng một nụ cười cho dù là nhợt nhạt. “Thưa bá tước, chuyện gì thế này? Ngài nghe lời đồn thổi ở trong làng ư. Tôi thấy ngạc nhiên đấy. Trước kia ngài đâu có phán xét ai đó mà không cho người ta cơ hội giải thích...”
“A!” quận trưởng de Brissac kéo ghế ra ngồi và quan sát Hugo và ông chú họ của chàng. “Vậy ta hãy lắng nghe những điều ông nói nào, thưa ông Laroche. Chắc sẽ là một câu chuyện thú vị lắm đây. Bá tước Hugo, xin mời ngồi xuống thưởng thức màn biểu diễn nào.”
“Tôi đứng được rồi, cảm ơn John,” Hugo nói và không thể kìm nối một nụ cười trước sự hứng thú rõ rệt của viên quận trưởng trước tình huống này. “Chúng tôi nghe đây, Reginald,” chàng nói và lại khoanh tay trước ngực. “Bắt đầu từ lũ ngựa đi.”
“Chuyện đó từ lâu rồi, tôi cũng không nhớ được nhiều, nhưng dường như lúc đầu có một con bị ốm, và rồi chuyện đó lây lan sang những con khác, cho tới cuối cùng, gần như tất cả đàn đã bị chết...”
“Vậy là cha tôi cũng không bán chúng?”
“Có vẻ như tôi đã lầm lẫn về điều tôi nói lúc trước, thưa bá tước...”
“Vậy còn việc tăng thuế?” Lời bào chữa của hắn ta sẽ là gì đây, Hugo tự hỏi và không thể không thấy án tượng với điều mà hắn ta bịa ra một cách dễ dàng, nạn lụt.
“Ôi thưa bá tước, cái trận lụt khủng khiếp đó. Nước sông dâng lên vào tháng Sáu vừa qua làm ngập gần hết đất đai của ngài, phá hủy hơn nửa mùa màng. Tôi phải tăng thuế, để bù vào chỗ mùa màng đã bị phá hủy và giữ cho thái ấp duy trì được qua những tháng mùa đông...”
Hugo liếc nhìn quận trưởng de Brissac trông đang có vẻ rất trầm ngâm. “Đúng rồi, nước sông dâng lên vào tháng Sáu,” ông đồng ý. “Và nó có làm ngập một vài cánh đồng thật. Nhưng theo tôi nhớ thì đâu như chỉ có một cánh đồng lúa mỳ bị hư hại...”
“Tổn thất nặng nề hơn thế nhiều. Toàn bộ đất đai bị ngập nước trong nhiều ngày...”
“Vì thế mà ông đòi Matthew Fairchild cả đống tiền để được lấy Mavis Poole và rồi anh ta buộc phải nhận của bố thí để có tiền trả cho ông?” Cặp mắt của Hugo đầy vẻ bực tức.
“Matthew Fairchild?” Reginald Laroche có vẻ hoảng sợ như một con quạ trong bẫy. “Mavis Poole ư? Chắc hẳn phải có nhầm lẫn gì đó. Tôi không biết những cái tên này...”
“Gia đình nhà Mavis Poole đã trồng trọt cho dòng họ Fitzstephens hơn năm mươi năm rồi,” Hugo thông báo với vẻ khinh miệt. “Thế mà ông vẫn nói tên của cô ta nghe không quen ư? Ông đã làm quản gia cho cha tôi nhiều năm trước khi ông qua đời. Vậy thì ông làm công việc gì nếu không phải là ghi nhớ tên những người làm công cho ông?”
Reginald lắp bắp câu trả lời, nhưng Hugo đã cắt ngang lời hắn ta một cách giận dữ. Chàng không thể chịu đựng thêm nữa. Gã đàn ông này, nếu không phải là đã giết hại ngài Geoffrey, thì cũng đã sát hại ký ức của chàng, bằng cách để cho người của chàng chết đói. Cơn giận của Hugo lên tới cực điểm và chàng không thể kiềm chế nó được nữa.
Vị bá tước túm lấy Reginald Laroche, nhìn chằm chằm vào hắn bằng cặp mắt đã chuyển sang màu vàng đầy nguy hiểm. “Tôi có thể bẻ gãy ông,” Hugo gầm gừ, “như là một cành cây. Tôi có thể quăng ông vào bức tường đó để cho ông bị gãy cổ...”
“Thưa bá tước...” Quận trưởng de Brissac nhổm dậy khỏi cái ghế yên ấm, trông ông có vẻ báo động.
“Tôi có thể buộc tội ông vì những tội lỗi rành rành,” Hugo nói tiếp, bằng giọng nói vô cảm của người mà cơn giận đã vượt quá khả năng biểu hiện. “Và rất vui được thấy ông mục nát trong tù trong suốt phần đời còn lại. Nhưng tôi sẽ còn thích hơn nữa nếu có thể thọc thanh kiếm của tôi xuyên qua người ông, và rồi lau máu vấy trên thanh kiếm đó bên trên cái xác thảm hại của ông...”
“Bá tước!” viên quận trưởng thốt lên, “Không được đâu!”
“Nhưng thay vào đó,” Hugo gầm ghè, vẫn túm chặt lấy cổ áo của gã quản gia, “Tôi sẽ cho ông biết ông đã làm những gì, bởi vì ông đóng vai kẻ vô tội thuyết phục đến vậy...”
Hugo giật mạnh gã quản gia về phía chàng. “Không gì cả,” chàng rít lên, nhỏ đến nỗi quận trưởng de Brissac phải nghiêng về phía trước để nghe điều chàng nói. “Ông không làm gì cho cái nhà này và không làm gì cho cha tôi. Ông không lo lắng tới những mạng sống mà cha tôi đã thề sẽ bảo vệ và đã ra lệnh cho ông làm điều đó. Ông chỉ quan tâm tới việc lấp đầy cái túi bẩn thỉu của ông bằng vàng của nhà Fitzstephen. Tối nay, điều đó sẽ chấm dứt.”
Xô gã đàn ông gầy gò ra, Hugo quan sát tên quản gia va vào bức tường đối diện rồi trượt xuống, rên rỉ, thân hình hắn ta cuộn lại như là một đứa trẻ. Hoàn toàn không có một chút thương cảm cho kẻ đã làm hại biết bao nhiêu người, Hugo hờ hững nói, “Từ giờ tới cuối năm, ông phải trả lại từng đồng ông đã bóp nặn từ người của tôi. Tôi muốn ông trao tất cả những ghi chép về các giao dịch ông đã thực hiện cho quận trưởng Brissac trước khi trời tối. Và tôi muốn ông xéo khỏi nhà tôi trước trưa mai. Như thế đã rõ chưa?”
Trong một khoảnh khắc, Reginald Laroche ngước nhìn lên, và khi đó Hugo nhìn thấy điều gì đó lướt qua khuôn mặt của ông chú họ, không phải là sự sợ hãi hay lo âu, mà là sự thù ghét, sự thù ghét tuyệt đối và lạnh lùng như Hugo đã từng thấy trong mắt của những kẻ Saracen mà chàng đã từng giao chiến. Chỉ có điều sự căm ghét này còn có vẻ khủng khiếp hơn, bởi vì bị kẻ thù của mình căm ghét là chuyện bình thường.
Nhưng bị ai đó trong gia đình mình căm ghét, đó lại là chuyện khác. Reginald Laroche căm ghét Hugo và có thể là cả cha chàng nữa. Tại sao cha chàng không nhận ra sự khinh ghét rõ rệt đó trong cặp mắt đen của ông em họ, thì quả thực Hugo không thể hiểu nổi.
Nhưng điều đó lập tức biến mất ngay khi Hugo nhìn thấy nó, bộ dạng của Reginald co lại thành một sự biểu hiện của sự khúm núm đầy lo lắng khi hắn ta bò tới bên Hugo.
“Thưa Đức ông,” tên quản gia lẩm bẩm, vội vàng chỉnh sửa quần áo như thể hắn ta chỉ vô tình trượt ngã, chứ không phải là bị ai đó quăng qua gian phòng. “Tất cả những gì tôi làm khi ngài đi vắng đều là vì lợi ích của thái ấp. Đúng là rất nhiều nông nô than phiền này nọ, nhưng ngài phải biết rằng cha của ngài đã nuông chiều bọn chúng. Chúng là những nông nô được đối xử tốt nhất trong vùng, ngay cả ngài quận trưởng đây cũng có thể làm chứng điều đó”
“Đã từng thôi,” John sửa lại. “Đã từng được đối xử tốt nhất.”
“Đó, ngài thấy chưa? Cha ngài, Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, là một người tử tế, nhưng ông ấy lại không biết làm ăn. Tôi rất vui sướng cho ngài xem bất cứ giấy tờ gì ngài muốn, thưa Đức ông, nhưng sao phải vội như vậy. Ngài cứ để chuyện đó tới mai hẵng tính, thưa bá tước. Ngài đã mệt mỏi vì chuyến đi và có thể tai của ngài đã phải nghe lời lẽ thẽ thọt của những kẻ chống lại tôi...”
“Chẳng có gì phải nghĩ cả,” Hugo lắc đầu nói. Quả là gã này muốn chết rồi thì mới cả gan nghĩ rằng hắn có thể làm Hugo nguôi đi cơn giận chết người hiện tại. “Ngày mai ông sẽ phải đi, nếu không thể có Chúa, Laroche ạ, tôi sẽ dùng lưỡi kiếm của tôi để đuổi ông đi...”
“Cha à?”
Một giọng nói du dương ngân vang về phía họ, và Hugo nhìn về hướng cầu thang ở bên phải của đại sảnh. Ở đó, một cánh tay thon thả lướt trên thành cầu thang gỗ được đánh bóng khi cô gái đi xuống cầu thang, trôi nổi như một ảo ảnh màu tím. Làn da trắng xanh xao như kem được tôn lên bởi mái tóc đen như gỗ mun, tạo nên một vẻ bề ngoài nữ tính mong manh hiếm người có được. Isabella Laroche, người mà Hugo chỉ nhớ tới như là một con nhóc mười tuổi đáng ghét, đã lớn lên thành một phụ nữ thực sự quyến rũ.
“Cha à?” cô gái hỏi lại bằng giọng nói thật mềm mại. “Có chuyện gì à?” Rồi nhận ra Hugo, cô nàng đặt một tay lên ngực và rồi thở gấp.
“Trời ơi, bá tước Hugo!” cô nàng thốt lên, và chỉ bằng vài bước chân nhanh nhẹn và duyên dáng nàng đã tới trước chàng, nhún mình điệu đà khiến cho gấu váy rộng màu tím của nàng quấn quanh chân Hugo.
“Cứ như là mơ vậy! Em nghe thằng nhóc Jamie nói rằng cuối cùng anh đã về, và em không thể nào tin nổi, khi mà em chưa tận mắt được thấy!”
Cặp mắt nàng đen như mã não, Isabella mỉm cười rạng rỡ với Hugo. Chàng lấy làm buồn cười khi nhận thấy cặp môi tuyệt đẹp của cô nàng được tô son, bởi vì chúng đỏ một cách khác thường, màu của hạt lựu mà Hugo đã từng ăn khi ở Ai Cập.
“Ôi anh họ, bây giờ anh cao lớn làm sao! Cứ như là trong mơ vậy. Trông anh ấy tuyệt quá, phải không cha?”
Reginald Laroche càu nhàu, chẳng còn chút khúm núm nào trong giọng nói của hắn ta, “Vào bếp đi, Isabella, vào xem bà Laver chuẩn bị bữa tối đến đâu rồi”
“Không phải cha nói thật đây chứ! Lâu lắm rồi con và anh Hugo mới được gặp nhau. Chúng con có biết bao chuyện cần nói. Dù sao thì anh ấy đã đi khắp thế giới. Con muốn nghe về chuyện đó, và về những tên Saracen mà anh ấy đã giết, và những thắng cảnh mà anh ấy đã thấy. Anh đã thấy kim tự tháp chưa, anh Hugo? Em muốn được tận mắt thấy chúng làm sao. Chúng có thực sự như mọi người nói không?”
Hugo nhìn xuống tạo vật mê hoặc này và hiểu tại sao Finnula và các chị gái của nàng ghét cô ta đến vậy. Xinh đẹp và quỷ quyệt, Isabella Laroche theo cách riêng của cô ta, còn nguy hiểm hơn cả cha của mình, và bất kỳ cô gái nào không hiểu rõ đều sẽ thấy ghen tị với bề ngoài và địa vị của cô ta. Rõ là Isabella đã chuẩn bị rất kỹ càng cho buổi tối hôm nay, với một chiếc váy bằng lụa cổ trễ và đủ thứ trang sức nặng trĩu trên cổ tay và ngón tay của cô ta.
“Có vẻ như người cha hay quên của em còn chưa mời anh uống một ly,” Isabella thủ thỉ, nắm lấy cánh của Hugo. “Để em mời anh một ly, thưa bá tước...”
Quận trưởng de Brissac phá ra cười vì điệu bộ mời mọc của cô nàng, và Isabella ném về ông một cái nhìn bực tức, cặp lông mày mảnh mai của cô ta nhíu lại.
“Ôi,” cô nàng nói toẹt ra. “Là ông đấy à. Tôi không nhìn thấy ông ở đó. Xin hỏi ông cười cái gì vậy?”
“A, thưa tiểu thư,” viên quận trưởng thở dài. “Nếu cô không biết, thì tôi cũng chẳng thể cho cô biết được.”
“Isabella,” Reginal quát nạt. “Đi đi.”
“Cha!” Cô nàng tóc đen dậm chân. “Cha đang tỏ ra thô lỗ với chủ nhà của chúng ta đấy!”
“Ngài Hugo và cha đang bàn chuyện quan trọng, không liên quan đến con! Mau xuống bếp giúp bà Laver chuẩn bị bữa tối đi...”
“Thực ra thì thưa ông,” Hugo cắt ngang, “Tôi sẽ ăn tối ở nhà cối xay tối nay. Vậy nên ông hay bà Laver không cần phải lo bữa tối cho tôi, mặc dù tôi chắc quận trưởng de Brissac, người sẽ ở lại đây giúp ông đóng gói hành lý, sẽ rất cảm kích vì bữa tối đây.”
“Ăn tối ở nhà cối xay?” Isabella thốt lên với vẻ kinh hoàng. Cô ta không nghe thấy gì khác ngoài điều đó. “Tại sao anh lại ăn tối ở đó? Ăn ở nhà thì ngon hơn ở chỗ đó chứ...”
“Có thể như vậy.” Quận trưởng de Brissac cười. “Có thể đấy, thưa tiểu thư. Nhưng tiểu thư không thể cung cấp một người bạn đồng hành như Đức ông đã có trong vài ngày vừa qua.”
“Ý của ông ta là gì?” Isabella hướng cặp mắt buộc tội về phía Hugo. “Ông ta nói gì vậy, thưa Bá tước?”
Hugo không muốn nói ra tên của Finnula, vì vậy chàng chỉ nhún vai. “Hãy nhớ những gì tôi đã nói, thưa ông,” chàng nói, hướng cái nhìn chết người về phía viên quản gia. “Không quá trưa mai.”
Hugo không cần phải nói thêm rằng, Nếu không ông sẽ phải hối tiếc đấy. Sự đe dọa đó đã có sẵn trong giọng chàng, chẳng cần nói thành lời.
“Thưa bá tước, xin ngài...”
Một bàn tay nặng nề đặt lên vai của Reginald Laroche, viên quản gia giận giữ quay lại, và thấy mình đang đối diện với khuôn mặt vuông vức, râu ria rậm rạp của ông quận trưởng.
“Cho tôi xem sổ sách kế toán của ông đi, ông bạn thân mến,” John ra lệnh rất nhã nhặn. “Và nếu có chút rượu đi kèm thì càng tốt.”
“Nhưng...” Reginald gọi với theo Hugo, người đã quay đi và hướng ra phía cửa. “Thưa Đức ông, đợi đã...”
Nhưng Hugo đã đi ra ngoài trước khi viên quản gia kịp nói thêm câu gì. Hít thở sâu không khí lạnh của buổi tối, Hugo cảm thấy mùi hương của thông và khói gỗ thân thuộc.
Hugo nhìn về hướng chuồng ngựa, và sắp sửa tới đá đít gọi gã hộ vệ của chàng dậy, bởi vì chắc hẳn thằng khốn đó đang lăn ra ngủ sau trận say sưa vừa rồi, thì một giọng nói nhỏ ngăn chàng lại.
“Ngài đi đấy ạ?” Thằng nhóc tóc vàng như thể từ trong không khí hiện ra.
“Chỉ một lúc thôi,” Hugo nhẹ nhàng nói. “Ta sẽ về sau khi cháu lên giường ngủ.”
“Con thích đi ngủ lúc nào cũng được,” Jamie cam đoan với chàng. “Con sẽ đợi ngài.”
Hugo nhướn lông mày. “Tùy nhóc thôi.”
Đi về phía chuồng ngựa, Hugo có cảm giác rằng thằng nhóc đang đi theo chàng, và khi chàng quay lại thì nó giả bộ như đang để mắt tới một con mèo đang lảng vảng gần đó, chàng tò mò hỏi, “Cháu là người nhà ai hả cậu nhóc?”
“Ngài hỏi gì ạ?” Thằng nhóc nuốt khan, ánh mắt rời khỏi cái lưng của con mèo mướp. “Con ấy ạ?”
“Phải, cháu đấy. Cháu là người nhà ai? Bà Laver hay Laroche?”
“Không, thưa ngài,” cậu bé thốt lên và đứng thẳng người dậy. “Con thuộc về ngài đấy.”
Hugo thờ ơ gật đầu. Chắc hẳn nàng hầu nào đó đã có thai và rồi bỏ đứa bé này lại với họ. Trông nó cũng khá cứng cáp, mặc dù rõ là bẩn thỉu.
“Được rồi,” Hugo nói, cọ cọ cằm của chàng. Đã lâu rồi chàng mới cạo râu nhẵn nhụi thế này, đến mức chàng vẫn chưa thấy quen với việc đó. “Có việc này cháu có thể làm cho ta trong khi ta đi.”
Thằng bé háo hức gật đầu. “Gì vậy ạ?”
“Hãy để mắt tới quận trưởng de Brissac. Đừng để ông ấy ngủ gật trước khi ta quay về. Ta đã ra lệnh cho ông Laroche và con gái của ông ta ra đi, và ta không muốn họ chơi trò lừa gạt ta...”
“Con hiểu, thưa ngài,” cậu nhóc nói. “Con sẽ không để chuyện gì xảy ra với ngài quận trưởng. Ông ấy rất tốt với con. Còn đưa con đi câu cá.”
Hugo nhướn lông mày khi nghe điều đó nhưng không nói gì. Thay vào đó chàng quăng một đồng tiền ra và cậu nhóc đón lấy rất thành thạo.
“Nhóc ngoan lắm,” Hugo nói rồi chàng đi tìm gã hộ vệ của mình.