Tháng mười hai năm Sùng Trinh thứ mười sáu (năm 1643), Trung Ương Quân của Đại Minh tiến sát Liêu Thành, uy hiếp nghiêm trọng đến an toàn của Bắc Kinh, lại thêm Khương Tương, Vương Thừa Dận, Đường Thông và hàng tướng tiền Minh rục rịch, Đa Nhĩ Cổn bị bức bách không còn cách nào, đành phải hạ lệnh cho Ngô Tam Quế lui giữ Thái Nguyên, lại đem mười vạn đại quân Bát Kỳ tại Sơn Tây triệu hồi Bắc Kinh.
Đồng thời lại từ Mạc Nam khẩn cấp chiêu mộ năm vạn kỵ binh Mông Cổ.
Tháng giêng nguyên niên Long Võ(năm 1644), Đa Nhĩ Cổn lưu lại hai vạn binh lính Mãn Châu đóng ở Bắc Kinh, sau đó tự mình dẫn mười bảy vạn đại quân Bát Kỳ và sáu vạn hàng quân tiền Minh Nam chinh, ngày mười chín tháng giêng, cùng hai vạn đại quân Bát Kỳ của Bác Nhạc tới Liêu Thành hội hợp, cuộc chiến Liêu Thành liên quan đến quốc vận của Kiến Nô và Đại Minh chính thức mở màn.
Đây là một trận quyết chiến có ý nghĩa chiến lược chân chính, Đại Minh và Kiến Nô đều muốn bằng một lần hành động tức khắc giải quyết triệt để đối phương.
Đối với Đại Minh mà nói, chỉ cần trận chiến Liêu Thành có thể thắng lợi, Kiến Nô sẽ bị cô lập hoàn toàn, nguyên khí đại thương, thu phục Bắc Kinh, khôi phục Liêu Đông liền ở trong tầm tay, đối với Kiến Nô mà nói cũng giống như thế, chỉ cần thắng được trận chiến Liêu Thành, hơn hai mươi vạn đại quân có thể thuận thế quét xuống Giang Nam, hoàn toàn tiêu diệt chính quyền Nam Minh.
Kiến Nô trên phương diện binh lực chiếm ưu thế tuyệt đối, để bảo đảm cuộc chiến Liêu Thành có thể giành được thắng lợi, Đa Nhĩ Cổn điều động năm vạn Bát Kỳ Kiến Nô, trong đó có hai vạn thiết kỵ Bát Kỳ tinh nhuệ! Ngoài ra còn có mười vạn kỵ binh Mông Cổ, hai vạn Bát Kỳ Triều Tiên, hai vạn Bát Kỳ quân Hán, và sáu vạn hàng quân tiền Minh, tổng binh lực đạt tới hai mươi lăm vạn người!
Đại Minh cũng chỉ có bốn vạn Trung Ương Quân của Vương Phác, trong đó bao gồm hai Hỏa thương doanh và một Pháo doanh, còn có năm nghìn Thủy sư của Thi Lang, luận binh lực, Kiến Nô gần như là gấp sáu lần Trung Ương Quân của Đại Minh, hơn nữa Kiến Nô còn có lợi thế của kỵ binh, có được một chi hai vạn thiết kỵ Bát Kỳ tinh nhuệ cùng cả mười vạn khinh kỵ binh của Mông Cổ.
Tuy nhiên quân Minh cũng có ưu thế của mình, đó chính là Thủy sư của Thi Lang!
Thủy sư của Thi Lang tổng cộng có năm ngàn người, nắm giữ năm mươi chiến thuyền cỡ đại, trên mỗi chiến thuyền đều được trang bị không đồng đều từ mười đến hai mươi cỗ Phật Lang cơ pháo, trên thuyền các tướng sĩ Thủy sư đều đã hoán đổi trang bị của Trung Ương Quân bằng Toại phát thương do Đại Đồng chế tạo, tầm bắn mặc dù không xa bằng Toại phát thương tối tân của Trung Ương Quân do Nam Kinh chế tạo, độ chính xác cũng kém, nhưng dùng để áp chế cung tiễn của Kiến Nô cũng là dư dả rồi.
Năm mươi chiến thuyền cỡ đại này tựa như năm mươi tòa thành lũy di động trên nước, Kiến Nô không hề có bất kỳ biện pháp nào để đoạt lấy, kỵ binh và bộ binh cho dù có ngạo mạn thế nào cũng không cách nào xông vào trong nước mà chiến, dùng Hồng Di đại pháo oanh tạc à, chờ ngươi lắp xong đại pháo, chiến thuyền của người ta đã sớm đi ra xa rồi, dùng hỏa tiễn đốt, tầm bắn của cung tiễn vẫn chưa có xa bằng Phật Lang cơ pháo và Hỏa thương của người ta đâu, không đốt được chiến thuyền người ta mà lại tự đánh đổ một đám cung tiễn thủ.
Trải qua vài lần thăm dò, đến tháng giêng nguyên niên Long Võ, Đa Nhĩ Cổn và Vương Phác như nhau đều đã thăm dò hư thật của đối phương, song phương không hẹn mà cùng bỏ qua tập kích quấy rối vô vị, bắt đầu tiến hành chuẩn bị cuối cùng trước khi quyết chiến, chiến tranh vĩnh viễn luôn thay đổi, ngươi có thể làm chuẩn bị đầy đủ nhất, nhưng địch nhân vĩnh viễn sẽ không dựa theo lối mòn ngươi đặt ra để đùa với ngươi, quan chỉ huy cao minh chân chính là phải căn cứ theo tình thế chiến trường biến đổi trong nháy mắt mà đúng lúc điều chỉnh chiến thuật.
Liêu Thành, hành dinh của Đa Nhĩ Cổn.
Đa Nhĩ Cổn đang triệu tập hai đại tâm phúc phụ tá Phạm Văn Trình, Ninh Hoàn Ngã còn có Đa Đạc, Hà Lạc Hội, Bác Lạc, Tát Cáp Liêm, A Ba Thái và các tướng lĩnh Kiến Nô đến nghị sự.
Đa Đạc nói:
- Thập Tứ ca, thằng nhãi Vương Phác này rất là giảo hoạt, hắn đem đại doanh đóng bên cạnh kênh đào, còn ở trước doanh đào một chiến hào rộng năm trượng, lại dẫn nước chảy ngược vào làm cho kỵ binh không cách nào vượt qua thành hào, vừa dựa lưng vào kênh đào có lợi thế của Thủy sư pháo, chúng ta nếu phát động cường công chỉ sợ sẽ tổn thất thê thảm và nghiêm trọng.
A Ba Thái nói:
- Chúng ta đây liền bao vây hắn, vây luôn một năm rưỡi, cho hắn chết đói!
- Điều đó không có khả năng.
Đa Đạc lắc đầu cười khổ nói:
- Nếu không thể trước tiên chặt đứt kênh đào, lương thảo đồ quân nhu của quân Minh có thể thông qua thủy lộ liên tục không ngừng vận chuyển tới.
A Ba Thái nói:
- Chúng ta đây sẽ đem kênh đào chặt đứt!
- Nói dễ hơn làm.
Đa Đạc lần thứ hai lắc đầu nói:
- Quân Minh có Thủy sư, chúng ta không có bất kỳ biện pháp nào để bắt giữ bọn họ.
Đa Nhĩ Cổn chuyển ánh mắt sang Phạm Văn Trình, hỏi:
- Văn Trình tiên sinh, ngươi có cao kiến gì?
Phạm Văn Trình khẽ mỉm cười, nói:
- Hai vị Thân vương nói đúng, quân Minh dùng địa thế hiểm trở mà thủ, quân ta nếu như cường công thì thảm kịch trận chiến Đại Đồng sẽ tái diễn, quân ta ắt phải tổn thất thảm trọng, cho dù cuối cùng thắng được trận chiến Liêu Thành, cũng làm mất đi thực lực tranh giành Trung Nguyên, bởi vậy, nô tài không tán thành cường công.
Đa Nhĩ Cổn nhẹ nhàng gật đầu, nói:
- Không thể cường công, vậy cũng chỉ có thể vây khốn trường kỳ rồi.
- Đúng vậy.
Phạm Văn Trình nói:
- Chẳng qua đúng theo lời Dự Thân vương, nếu không thể chặt đứt tuyến đường kênh đào, vây khốn quân Minh là không có khả năng, mà nếu không thể tiêu diệt Thủy sư của quân Minh, chặt đứt tuyến đường kênh đào là không thể nào làm được, bởi vậy, then chốt thắng bại trận chiến Liêu Thành kỳ thực chỉ có một.
Đám người Đa Đạc, A Ba Thái, Tát Cáp Liêm cùng kêu lên:
- Thủy sư quân Minh?
- Không sai.
Phạm Văn Trình trang trọng gật đầu nói:
- Có thể tiêu diệt Thủy sư quân Minh hay không, trực tiếp liên quan đến thành bại của trận chiến Liêu Thành.
Mười dặm về phía nam Liêu Thành, bờ trái kênh đào, đại doanh Trung Ương Quân.
Trong soái trướng của Vương Phác bày ra một sa bàn cỡ đại được chế tác tạm thời, địa hình khu vực Liêu Thành đều được mô phỏng ra, mặt trên cắm đầy hai màu tiểu kỳ đại biểu cho quân đội Kiến Nô và Trung Ương Quân của Đại Minh, đại biểu Kiến Nô là một phương tiểu kỳ màu đen chi chít một mảng lớn, tại một khu vực đem tiểu kỳ đại biểu Trung Ương Quân của Đại Minh vây vào giữa.
Mặt Sẹo, Lý Bản Thâm, Ngô Thắng Triệu, Cao Tiến Khố, Lý Thành Đống, Lưu Khổng Hòa, Lưu Hồng Cơ, Lý Hóa Kình và tổng binh tám trấn cùng với Thi Lang, Trương Nhan Lân, Lý Ngang ba vị tướng lĩnh Thủy sư đang vây quanh bên sa bàn thảo luận tình thế hai quân, hơn nữa thảo luận đến vô cùng sôi nổi, náo nhiệt giống như ngoài chợ bán thức ăn vậy.
Những tiếng bước chân dồn dập vang lên, thân ảnh của Vương Phác xuất hiện ở ngoài trướng vải.
Tiếng thảo luận sôi nổi đột nhiên dừng lại, ánh mắt của hơn mười viên tướng lĩnh đồng loạt rơi trên người Vương Phác, cung kính nói:
- Ty chức tham kiến Hầu gia.
- Cứ nói tiếp.
Vương Phác đi đến bên cạnh bàn cát rồi dừng lại, mỉm cười nói:
- Các ngươi tiếp tục nói về đề tài đang bàn luận đi.
Mặt Sẹo cười ha hả nói:
- Ty chức vừa rồi đang nói, binh lực của Kiến Nô ít nhất đã ngoài hai mươi vạn, riêng kỵ binh phải có hơn mười vạn người, chúng ta nếu ra khỏi đại doanh cùng bọn họ dã chiến khẳng định sẽ không có lợi.
Lý Thành Đống nói:
- Bởi vậy ty chức cho rằng quân ta nên đào hào sâu xây lũy cao xung quanh, đánh một trận chiến tiêu hao với Kiến Nô, Kiến Nô nhiều lính, lại có hơn mười vạn chiến mã, mỗi ngày tiêu hao số lượng lương thảo rất lớn, chỉ cần càng kéo dài, bên đầu tiên chống đỡ không được nhất định là bọn họ, chỉ cần chờ Kiến Nô chống đỡ hết nổi lui binh, cơ hội của quân ta đã tới rồi!
- Ty chức lại không cho là vậy.
Tiếng nói của Lý Thành Đống vừa dứt, Lưu Khổng Hòa liền đưa ra ý kiến bất đồng.
Vương Phác vui vẻ nói:
- Như vậy cái nhìn của ngươi thế nào?
Trên mặt Lưu Khổng Hòa xẹt qua một tia bi thương, ngữ khí trầm thấp nói:
- Kiến Nô đều là súc sinh không có nhân tính, không có lương thảo bọn họ sẽ chém giết dân chúng, bởi vậy ty chức cho rằng nếu quân ta ở chỗ này cùng Kiến Nô giằng co càng lâu, bách tính Bắc Trực gặp khổ nạn sẽ càng nặng nề.
- Ừ.
Sắc mặt Vương Phác cũng trở nên ngưng trọng, tiến lên vỗ vỗ bả vai Lưu Khổng Hòa, nói:
- Thân là con dân đế quốc Đại Minh, ngươi có thể suy nghĩ cho dân chúng Bắc Trực là rất khó được, tuy nhiên thân là một tướng lĩnh lãnh quân, ngươi lại không thể nhân từ nương tay! Chúng ta tuyệt đối không có khả năng thiệt hại toàn bộ bách tính Đại Minh làm cái giá để cứu vớt bách tính Bắc Trực.
Trên mặt Lưu Khổng Hòa lướt qua một tia xấu hổ, mặt toát mồ hôi nói:
- Ty chức hổ thẹn.
Vương Phác thở phào một cái, nói sang chuyện khác:
- Bây giờ chúng ta thảo luận sang đề tài khác đi, nếu các ngươi là Đa Nhĩ Cổn, trong tay có được trên hai mươi vạn đại quân, trong đó còn có trên mười vạn kỵ binh, các ngươi sẽ đánh một trận thế nào?
Câu hỏi vừa được đặt ra, chẳng khác nào hỏi khó gần như tất cả mọi người rồi, những vũ phu xuất thân binh nghiệp này am hiểu nhất đúng là dẫn quân xông pha chiến đấu, quanh năm suốt tháng tắm trong chiến hỏa, hoặc nhiều hoặc ít cũng học hỏi được một chút chiến thuật thực dụng đơn giản, chẳng qua bọn hắn thật sự là không hề đứng ở góc độ địch nhân để suy xét qua trận chiến.
Chỉ có Lý Thành Đống suy ngẫm một lát sau nói:
- Nếu ty chức là Đa Nhĩ Cổn, trận này chỉ có thể áp dụng chiến thuật vây khốn.
- Đúng vậy, thủ đoạn trước sau như một của Kiến Nô chính là vây khốn!
Vương Phác vui vẻ gật đầu nói:
- Trận chiến sông Đại Lăng như vậy, trận chiến Cẩm Châu như vậy, trận chiến Ninh Viễn cũng như vậy, chẳng qua bản hầu muốn biết, ngươi dự định làm sao vây khốn quân ta? Phải biết rằng quân ta có lợi thế Thủy sư, toàn bộ kênh đào hải đạo đều nằm dưới sự khống chế của quân ta!
Lý Thành Đống nói:
- Vậy thì trước tiên nghĩ biện pháp tiêu diệt Thủy sư của Thi Lang, sau đó lại chặt đứt kênh đào thủy đạo!
- Bậy bạ!
Thi Lang mất hứng nói:
- Kiến Nô tuy rằng nhiều người, nhưng bọn có thể cưỡi ngựa phóng vào trong kênh đào hay sao? Bọn họ không đến thì thôi, nếu thật dám đến, ha hả, ta sẽ làm cho bọn họ có đến mà không có về!
Lý Thành Đống nói:
- Thi Lang, Thủy sư của ngươi tuy rằng lợi hại, nhưng cũng không phải không có biện pháp đối phó với ngươi.
Thi Lang giận dữ nói:
- Ngươi có chiêu gì, nói thử một chút coi.
Lý Thành Đống nói:
- Ta dùng hỏa thuyền thiêu.
- Si tâm vọng tưởng.
Thi Lang lãnh đạm nói:
- Đội tàu Thủy sư của lão tử cũng không phải là liên hoàn chiến thuyền của Tào Tháo, sao có thể để ngươi một mồi lửa thiêu trụi?
Lý Thành Đống nói:
- Ta đây phóng hỏa tiễn.
Thi Lang mỉm cười nói:
- Đó là muốn chết, tầm bắn của cung tiễn Kiến Nô mấy ngày nay mọi người đều thấy được, so ra còn kém Hỏa thương do Đại Đồng chế tạo mà các huynh đệ Thủy sư dùng, còn Phật Lang cơ pháo thì càng không thể rồi, chưa đợi hỏa tiễn của ngươi bắn tới thuyền lão tử, mấy hàng lửa đạn của lão tử đã oanh tạc đến rồi, cung tiễn thủ của ngươi đều chết sạch.
Lý Thành Đống lại nói:
- Lão tử dùng Hồng Di đại pháo đến oanh tạc!
Thi lang nói:
- Ngươi cứ oanh tạc đi, xa thì đánh không trúng, gần thì lão tử dùng Phật Lang cơ pháo so với Hồng Di đại pháo của ngươi nhiều hơn, tốc độ bắn cũng nhanh hơn ngươi, để xem ai oanh tạc chết ai.
- Vậy...
Lý Thành Đống gãi gãi đầu:
- Lão tử sẽ dùng xích sắt Lan Giang chặt đứt kênh đào, đem ngươi vây ở trong đại doanh không thể động đậy!
- Ha ha.
Thi Lang cười to nói:
- Trước hết không nói tới ngươi có cơ hội dựng lên xích sắt Lan Giang hay không, cứ cho là ngươi dựng được đi, chẳng lẽ lão tử không biết dựng lên bếp lò đốt hay sao? Đầu tiên dùng lửa than đốt đến đỏ bừng, lại dùng đại chùy đập vài cái, xích sắt Lan Giang trải qua trăm cay nghìn đắng chế tạo thành liền tiêu tan mất hết.
Lý Thành Đống á khẩu không trả lời được, vô kế khả thi.
Chính khi Thi Lang dương dương đắc ý, Vương Phác bỗng nhiên nói:
- Nếu ta chọn dùng biện pháp gánh đất lấp sông thì sao?