Langdon bước khỏi toà nhà C, ra ngoài trời, vui mừng vì được thoát khỏi căn hộ của Vetra. ánh nắng mặt trời giúp anh gạt bỏ hình ảnh hốc mắt trống hoác khỏi tâm trí.
Lối này, ông Langdon. – Kohler nói rồi quay lên một con dốc. Chiếc xe lăn nhẹ nhàng tăng tốc. – Cô Vetra sẽ về bất cứ lúc nào.
Langdon vội vã leo theo.
Vậy thì, – Kohler hỏi. – Ông còn nghi ngờ về sự dính líu của Illuminati nữa không? Langdon không biết phải nói thế nào. Các mối quan hệ tôn giáo của Vetra nhất định có vấn đề, nhưng Langdon cũng không thể từ bỏ những chứng cứ khoa học mà anh đã nghiên cứu. Bên cạnh đó, con mắt…
Tôi vẫn cho rằng, – Langdon nói, giọng mạnh mẽ bất ngờ – Illuminati không thể chịu trách nhiệm trong chuyện này. Con mắt bị mất là một bằng chứng.
Gì cơ?
Lấy đi một bộ phận, – anh giải thích, – thật… không giống cung cách của Illuminati chút nào. Các nhà nghiên cứu nghi lễ tôn giáo đều cho rằng cách cắt rời một bộ phận làm biến dạng khuôn mặt là của những kẻ cực đoan non nớt “những kẻ cuồng tín tuỳ tiện hành động khủng bố”, còn hội Illuminati vốn thận trọng hơn nhiều.
Thận trọng ư? Phẫu thuật cắt bỏ nhãn cầu của ai đó mà là thận trọng?
Hành động đó chẳng chuyển tải thông điệp gì cả, không phục vụ cho một mục đích cao cả nào hết.
Chiếc xe lăn của Kohler đột ngột dừng trên đỉnh đồ quay lại.
Ông Langdon, tin tôi đi, con mắt bị mất tích đó thực sự được dùng cho một mục đích quan trọng hơn… quan trọng hơn rất nhiều.
Khi hai người đàn ông vượt qua bãi cỏ cao ngút, họ nghe thấy tiếng đập phành phạch của cánh quạt chiếc máy bay từ phía tây vọng lại. Một chiếc trực thăng xuất hiện, vòng quanh thung lũng rồi tiến về phía họ. Nó nghiêng mạnh, rồi từ từ lượn trên bãi đỗ được sơn vạch trên cỏ.
Langdon đứng tách ra ngắm nhìn, đầu óc anh quay cuồng y hệt như những cánh quạt máy bay, không hiểu liệu một đêm ngủ đẫy giấc có thể làm mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu anh sáng sủa hơn chút nào không. Dù sao thì một giấc ngủ lúc này cũng thật xa vời.
Khi máy bay hạ cánh, một viên phi công nhẩy xuống, bắt đầu dỡ các dụng cụ – những
bộ đồ nghề, những túi nhựa dẻo còn ướt, bộ đồ lặn, và vô số thứ trông như những thiết bị công nghệ cao.
Langdon bối rối.
Đấy là đồ nghề của cô Vetra à? – Anh gào lên át tiếng động cơ máy bay. Kohler gật đầu và gào lại.
Cô ta đang tiến hành nghiên cứu sinh học trên biển Balearic(1).
Tôi tưởng cô ấy là nhà vật lí cơ mà!
Đúng đấy. Cô ấy là nhà vật lí sinh học, nghiên cứu mối liên hệ trong hệ sinh thái. Công việc của cô ấy liên quan chặt chẽ với công trình nghiên cứu vật lí hạt của Vetra. Gần đây, cô ấy đang phủ nhận một trong những học thuyết cơ bản của Anhxtanh bằng cách ghi lại sự phối hợp từ khi quan sát một đàn cá ngừ.
Langdon nhìn kỹ xem trên khuôn mặt chủ nhà có pha chút hài hước nào không. Anhxtanh và đàn cá ngừ? Anh bắt đầu băn khoăn liệu có phải chiếc X-33 đã thả nhầm anh lên một hành tinh khác không?
Một lúc sau, Vittoria Vetra mới ra khỏi máy bay. Robert Langdon phải thừa nhận rằng hôm nay là một ngày của hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vittoria Vetra bước xuống máy bay, mặc chiếc quần soóc vải ka ki và áo không tay màu trắng, không hề giống một nhà khoa học chỉ biết tối ngày chúi mũi vào sách vở như anh vẫn tưởng. Cô gái này cao ráo, làn da màu hạt dẻ, mái tóc đen dài bị luồng gió mạnh từ cánh quạt động cơ phả ra thổi tung lên, thật mềm mại và duyên dáng. Khuôn mặt của Vittoria mang nét đặc trưng Italia – không quá đẹp nhưng đầy đặn, một vẻ đẹp đầy trần tục, đến nỗi dù cách cô gần 20 mét, Langdon vẫn thấy xao xuyến. Luồng gió mạnh từ cánh quạt máy bay khiến cho bộ quần áo ép sát vào thân hình thon thả và bộ ngực nhỏ của cô gái trẻ.
Cô Vetra là một phụ nữ có sức mạnh phi thường, – Kohler nói, dường như dọc được thái độ đắm đuối của Langdon. – Cô ấy đã từng làm việc ở những khu vực sinh thái nguy hiểm suốt hàng tháng trời. Một người ăn kiêng nghiêm ngặt và chuyên gia Hatha Yoga(2) trong khu tập thể của CERN. Hatha Yoga? Langdon cười thầm. Nghệ thuật thiền định cổ xưa của đạo Phật khó có thể phù hợp với con gái của một linh mục Cơ đốc giáo.
Langdon ngắm Vittoria khi cô tiến lại gần anh. Cô gái chắc đã khóc rất nhiều, và đôi mắt nâu lúc này tràn ngập những cảm xúc mà Langdon chưa thể gọi tên. Tuy nhiên, dáng điệu của Vittoria vẫn tỏ ra mạnh mẽ và kiên quyết. Làn da rám nắng của vùng Địa Trung Hải ánh lên trên đôi chân mạnh mẽ và săn chắc.
Vittoria, – Kohler nói khi cô đến gọ. – Tôi thành thật chia buồn. Đây là một tổn thất cực kỳ to lớn đối với khoa học… đối với tất cả chúng ta ở CERN.
Vittoria gật đầu vẻ biết ơn. Cô gái cất tiếng nói với một chất giọng thật du dương mượt mà:
Đã tìm được hung thủ chưa?
Chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm.
Cô gái quay sang Langdon, chìa cánh tay mánh mai về phía anh. Tên tôi là Vittoria Vetra. Ông là người của Interpol, đúng không?
Langdon bắt tay cô gái, và ngay lập lức anh bị ánh mắt sâu thẳm nỗi buồn ấy hút mất hồn.
Robert Langdon. – Anh không biết nên nói thêm gì nữa.
Ông Langdon không phải là nhà chức trách, – Kohler giải thích. -Ông ấy là một chuyên gia đến từ nước Mỹ. Ông Langdon sẽ giúp chúng ta tìm ra kẻ đã gây ra chuyện này.
Vittoria có vẻ hoài nghi.
Thế còn cảnh sát?
Thi thể của cha tôi giờ ở đâu? – cô hỏi.
Đang được chăm sóc cẩn thận.
Tôi muốn được ở bên ông ấy. – Vittoria nói.
Vittoria, – Kohler vội vã. – Cha cô đã bị sát hại một cách dã man. Tốt hơn hết là cô hãy nhớ về ông ấy với những hình ảnh ngày xưa.
Vittoria định nói gì đấy nhưng bị ngắt lời.
Xin chào, Vittoria! – xa xa có vài người gọi – Chào mừng trở về nhà!
Cô quay lại. Một nhóm các nhà khoa học đang đi đến gần bãi trực thăng. Họ vui vẻ vẫy chào.
Cô còn phủ nhận thêm thuyết nào của Anhxtanh nữa không? – Một người gọi to. Một người khác đế vào:
Cha cô hẳn phải tự hào lắm!
Vittoria vụng về vẫy chào lại khi họ đi ngang qua. Rồi cô quay sang Kohler, mặt đầy vẻ khó hiểu.
Không ai biết chuyện này sao.
Tôi cho rằng sự thận trọng là thứ quan trọng nhất.
Ông vẫn chưa nói với các nhân viên khác là cha tôi bị giết hại? – Vẻ phẫn nộ bắt đầu lộ rõ trong âm giọng trầm trầm của cô gái trẻ.
Trong phút chốc Kohler trở nên cứng rắn.
Có lẽ cô quên mất một điều, cô Vetra ạ, một khi tôi báo cáo về cái chết của cha cô, người ta sẽ tiến hành điều tra ở CERN. Toàn bộ phòng thí nghiệm của ông ấy sẽ bị khám xét. Tôi tôn trọng thế giới riêng của cha cô. Có hai việc cha cô từng nói với tôi về dự án đang thực hiện. Việc thứ nhất, dự án này sẽ đem đến cho CERN tiền triệu từ các loại hợp đồng trong thập kỷ tới. Và thứ hai, nó không nên được tiết lộ trước công chúng bởi vì đây vẫn là một công nghệ nguy hiểm. Sau khi suy nghĩ về hai điều này, tôi thấy tốt hơn hết là không nên để người lạ nhòm ngó phòng thí nghiệm của ông ấy cũng như ăn cắp công nghệ hoặc tự hại mình rồi đổ hết lên đầu CERN. Tôi diễn đạt như thế đã rõ chưa?
Vittoria nhìn lại, không thốt lên được lời nào. Rõ ràng là cô buộc phải tôn trọng và chấp nhận những lập luận hết sức lôgíc của Kohler.
Trước khi chúng ta báo cho nhà chức trách, – Kohler nói, – Tôi cần biết hai cha con cô đã làm gì. Tôi muốn cô đưa chúng tôi tới phòng thí nghiệm.
Chẳng có gì liên quan ở phòng thí nghiệm,, Vittoria nói.- Không ai biết cha con tôi đang làm gì. Thí nghiệm này không thể dính dáng tới cái chết của cha tôi.
Kohler thở dài não nề.
Nhưng bằng chứng lại cho thấy điều ngược lại.
Bằng chứng? Bằng chứng nào?
Langdon cũng thấy băn khoăn về điểm nà.
Kohler đưa tay lên xoa miệng:
– Rồi cô sẽ tin tôi ngay thôi.
Ánh mắt đầy phẫn nộ của Vittoria cho thấy cô gái trẻ không hề tin những lời vừa nghe thấy.
Chú thích:
Biển Balearic: Vùng biền nằm trong khu vực Địa Trung Hải, gần Tây Ban Nha, Pháp.
Hatha Yoga: Nền tảng của các môn Yoga, ha (mặt trời) và tha (mặt trăng) là sự cân bằng khi thiền định, thư giãn và nghỉ ngơi (nguồn Wikipedia).