Mới đầu khi nói chuyện ảo ảnh với Thành Nhai Dư và Thôi Lược Thương, Cố Tích Triều vẫn còn thận trọng, cố tình lược đi tên người đó và những chuyện xảy ra trong ngôi nhà tranh nhỏ. Cố Tích Triều còn nhớ rõ mình chưa hề nhắc đến ba chữ Thích Thiếu Thương, nhưng mà lúc này lại nghe từ miệng Vô Tình nói ra cái tên đó, quả thật khiến người ta không thể trấn tĩnh nổi.
Thành Nhai Dư và Thôi Lược Thương đều nhạy cảm phát giác một thoáng bất thường của Cố Tích Triều, hai người nhìn nhau, đều biết sự tình rõ ràng rất không bình thường.
Thành Nhai Dư hỏi: “Thích Thiếu Thương là ai? Còn Vô Tình lại là ai? Lần đầu tiên cậu gặp tôi đã rất kinh ngạc, có liên quan tới Vô Tình sao?”
Cố Tích Triều có chút bần thần suy nghĩ một hồi, mới nói: “Ở trong ảo ảnh tôi nhớ có nhìn thấy anh, tên của anh vẫn giống như bây giờ, nhưng mọi người đều gọi anh là Vô Tình! Còn người đàn ông kịch chiến trên chiến trường mà tôi nhìn thấy trong ảo ảnh đó, tên là Thích Thiếu Thương. Nhưng tôi quả thật không biết cái nơi tôi không muốn để Thích Thiếu Thương đến là nơi nào hết, lúc thôi miên anh có hỏi không?”
“Có.” Thành Nhai Dư nhìn Cố Tích Triều: “Minh Sa Sơn[1]!”
“Minh Sa Sơn…?”
Cố Tích Triều biết chỗ đó, chỗ đó nằm ở khu vực phụ cận Đôn Hoàng[2] bên ngoài Gia Dục Quan[3], hiện nay là một vùng sa mạc hoang vu, nhưng theo chuyên gia khảo cổ kiểm chứng, chỗ đó một ngàn năm trước ắt phải là một ốc đảo trong thảo nguyên. Ba mẹ Cố Tích Triều từng mấy lần đến đó tham gia khai quật di tích Đôn Hoàng. Chỉ là không thể tưởng tượng nổi nơi đó rốt cuộc có nguy hiểm gì, làm cho mình đến đời này cũng không thể quên được.
Bên này Cố Tích Triều và Thành Nhai Dư còn đang bàn luận phân tích mấy vấn đề quái dị trong lúc thôi miên, bên kia Thôi Lược Thương đã uống sạch sẽ mấy lon bia mà Cố Tích Triều mới đem ra, rồi thoải mái tự tiện mở tivi lên, tự nhiên như chủ nhà đi vào bếp lục tủ lạnh lấy bia: “Uống không?”
Cố Tích Triều và Thành Nhai Dư mỗi người lấy một lon, mới uống được mấy ngụm, cái tên kia đã uống ực ực cạn sạch một lon, sảng khoái la lên: “Đã quá!”
Thấy hai người kia nhìn mình, tỏ ý bó tay hết thuốc chữa, ý tưởng bị Thôi Lược Thương kìm nén mấy ngày nay lại trồi lên: “Nói nghe nè, hai người vò đầu bứt tai hơn cả tiếng đồng hồ, rốt cuộc là có chứng minh được Cố Tích Triều có kiếp trước hay không?”
Thành Nhai Dư cẩn trọng từng chữ: “Cũng không thể nói là chứng minh được chuyện kiếp trước hay không, những thứ thế này rất huyền ảo, không có chứng cứ xác thực gì có thể chứng minh là từng tồn tại kiếp trước, khoa học có thể giải thích là do tầng vỏ đại não của cậu sản sinh ảo giác, hoặc là chịu sự thôi miên tiềm thức từ các tác phẩm văn học, điện ảnh truyền hình, nhưng cá nhân tôi cảm thấy tình trạng của Cố Tích Triều rất không bình thường.”
Thôi Lược Thương rất nghiêm túc, rất đường hoàng nói: “Vậy nên chúng ta cần tích cực tìm ra chân tướng phía sau, em tin rằng, chân tướng chỉ có một!!”
“Dẹp!” Cố Tích Triều và Thành Nhai Dư đồng thanh.
Thôi Lược Thương làm như không nghe thấy tiếng đáp khinh bỉ đó: “Cho nên, Cố Tích Triều, cậu lấy cái bột đó ra, chúng tôi cùng cậu đi vào trong ảo giác khám phá nơi đó, tung hoành bốn phương, làm một cú long trời lở đất!”
Thành Nhai Dư mặc kệ cậu ta, đứng lên nói: “Trong khi chưa xác định được thứ bột đó là cái gì thì không nên dùng là tốt hơn, chúng tôi đi trước!” Nói rồi lôi Thôi Lược Thương còn đang bất mãn không cam đi ra khỏi cửa, bỏ lại Cố Tích Triều một mình trầm tư.
Buổi sáng, mở máy tính kiểm tra hộp mail và msn, phát hiện người bạn qua mạng Đại Hà Yêu Rượu Như Mạng để tin nhắn cho mình, đại ý là mùa hè còn có hoạt động thực tập xã hội phải hoàn thành, nên thời gian trở về sẽ hoãn lại, ước chừng đến cuối tháng 7 đầu tháng 8 mới về được.
Cố Tích Triều đọc thêm mấy cái tin, vừa tắt máy tính, điện thoại trong phòng đúng lúc vang lên.
Đó là cú điện thoại trông đợi đã lâu từ Thích Trí Không.
“Cố Tích Triều, ở trong chùa anh tìm được một thứ kỳ quái, anh cảm thấy có chỗ tương đồng với thứ bột đó của em, có muốn qua xem không?”
Cố Tích Triều nói: “Ok, chừng trưa em qua.”
Buổi sáng Cố Tích Triều còn bận chút việc, hôm trước lão Tề ở Thấu Thạch Trai có gọi điện qua, nói là mới thu được một món cổ vật, hình như là cùng nguồn với cái hộp nhỏ mà cậu mua lần trước.
Cố Tích Triều đương nhiên là có hứng thú, mới nhờ lão Tề giữ món đó lại, còn mình thì mới sáng sớm đã mang theo cái hộp nhỏ vội vàng chạy qua.
Cửa hàng của Thấu Thạch Trai vẫn u ám xưa cũ như mọi khi, cái nóng 32 độ bên ngoài dường như không thể xua đi nổi không khí âm trầm do vô số món cổ vật đem lại, nhưng lão Tề lại như không cảm nhận được gì hết, vẫn tự nhiên thoải mái như thường, có thể thấy người này có dương khí rất thịnh.
Cố Tích Triều vừa đẩy cửa, lão Tề liền háo hức mở một cái hộp lớn ra: “Mau lại xem!”
Cố Tích Triều nhìn vào, bên trong là một đống linh tinh lộn xộn: “Đồ mà ông nói có liên quan tới cái hộp đó lại nhiều như vậy sao??!”
Lão Tề cười lên ranh mãnh, một chút cũng không có khù khờ như vẻ ngoài thô kệch của mình: “Nghỉ hè rồi, hiếm có dịp cậu đến, nên tôi cũng tiện thể tranh thủ đó mà? Giúp tôi xem đồ nha? Xem xem đại ca tôi ôm nay thu hoạch được tốt không?”
Cố Tích Triều lạnh lùng liếc gã một cái, rồi cũng đành lấy từng món đồ ra xem.
Nhìn những ngón tay thon dài, thanh tú của Cố Tích Triều nhẹ nhàng phân loại các đồ vật ra thành hai mớ, sắc mặt lão Tề càng lúc càng khó coi: “Phải không đó? Cặp này cũng là đồ nhái??
Cố Tích Triều vừa “Ưm” vừa chăm chú lật nhìn, mắt không thèm ngước: “Kỹ thuật của người làm nhái này khá cao, mấy bức tranh cổ này đều gần như có thể nhầm thành đồ thật, nhưng mà khi nhìn kỹ vào mấy chỗ thư pháp do các danh gia khác nhau viết ra, thấy được chữ này có đặc điểm gì?”
Lão Tề cầm lên soi ra ánh đèn so sánh, lập tức lửa giận bốc lên: “Cái này kỳ thực đều do một người làm ra, chữ ‘半bán‘ này giống y hệt nhau!”
Cố Tích Triều nói: “Vậy thì xem ra, tác phẩm của cao thủ này không phải là lần đầu bán cho ông rồi? Người này có khả năng mô phỏng rất tài, chỗ này chắc là ông ta cố ý để lại một chút sơ hở cho người tinh ý phát hiện. Ông cũng đừng tức nữa, đồ nhái như vậy cũng rất đáng tiền.”
Cơn giận của lão Tề liền xẹp bớt, rầu rầu nói: “Coi như là xui rủi vậy… cũng may có cậu phát hiện ra, lần sau tên tiểu tử đó còn lại đây giỡn mặt với tôi, tôi cho nó biết tay!”
Cố Tích Triều không bận tâm, nói: “Đợt này hàng thật không nhiều, nhưng cũng đủ thu hồi vốn!” Nói rồi cầm một món đồ nhỏ lên, là một miếng đồng to cỡ bàn tay: “Cái đồ ông nói có phải là món này?”
Lão Tề nói: “Đúng, chính là cái này, lần trước sau khi cậu mua món đó xong, tôi nhớ ra là do một người họ Cát đem đến bán, ổng nói khi dời mộ tổ phát hiện ra mấy món đồ cũ, lần này ổng lại mang tới mấy món, tôi đều thu hết, xem xem cậu có cần tới không.”
Cố Tích Triều không đáp, chăm chú quan sát miếng đồng dưới ánh sáng đèn, nói là miếng đồng nhưng kỳ thực chỉ là cảm nhận bằng giác quan thôi, cũng không biết rốt cuộc là làm từ kim loại gì, không phải là màu xanh đồng thường thấy trên đồ đồng cổ, có các vết bị ô xi hóa ăn mòn, nhưng vẫn có thể nhìn ra nó từng được mài giũa rất kỹ lưỡng.
Miếng kim loại mỏng mỏng, một mặt rất láng, một mặt có hoa văn lồi lõm ở chỗ bị sét. Trên bề mặt trơn láng, ở rìa có khắc vân mây và vỏ sò biển đan vào nhau, từ phong cách hoa văn và niên đại món đồ có thể phán đoán được nó là đồ cùng thời với cái hộp, càng chắc chắn là do cùng một thợ thủ công chế tạo.
Cố Tích Triều cầm lật tới lật lui một lúc, chợt trong não lướt qua tia trực giác, nghĩ đến một khả năng, cậu hít sâu một hơi, lấy từ trong túi ra cái hộp nhỏ.
Đặt cái hộp bên cạnh miếng kim loại, lập tức phát hiện kích cỡ của hai món đồ rất khớp với nhau, Cố Tích Triều nhớ đến một hộp trang sức thời Minh mà mình từng giám định, bên trong nắp cái hộp trang sức đó có gắn một mảnh gương đồng nho nhỏ.
Cố Tích Triều dỡ nắp hộp lên, trên nắp hộp quả nhiên có vết hằn, hình như từng khảm cái gì bên trên, đem miếng kim loại lại gần, quả nhiên vừa khớp, làm thành một thể hoàn chỉnh, chắc là chỗ nối cố định miếng kim loại năm đó đã bị mất đi theo thời gian.
Lão Tề nói: “Cái món này rốt cuộc là cái gì? Cậu nghiên cứu ra chưa?” Ngầm tỏ ý cảm thấy hôm đó bán đi có hơi bị lỗ.
Cố Tích Triều liền lắc đầu: “Vẫn chưa, miếng đồng này có thể là một mảnh gương, suy ra cái này có thể là hộp nữ trang, nhưng có chỗ hơi lạ…”
“Đúng đó, hộp nữ trang thời đó sao lại nhỏ như vậy?” Lão Tề vừa thu gom đống đồ trên bàn vừa nói.
Cố Tích Triều nói: “Cái này ông mua bao nhiêu?”
Lão Tề thầm tiếc hùi hụi, biết rõ nói giá cao Cố Tích Triều chắc chắn không tin, lần trước bán cậu ta giá vốn, lần này thấy cậu ta quan tâm cũng muốn nâng giá lên chút đỉnh, ai ngờ tiểu tử này lại tinh như vậy.
Lão Tề chần chừ nửa ngày, nghĩ đến sau này còn phải nhờ vả Cố Tích Triều, đành hào sảng cười lên: “Lấy cậu 50 đồng luôn!”
Cố Tích Triều gật đầu, lấy ra 50 đồng đặt lên bàn, cầm lấy đồ quay người đi ra khỏi Thấu Thạch Trai.
Trên cái bàn gỗ nhỏ sạch sẽ đặt một món đồ đen thui, hơi giống một khúc cây.
Cố Tích Triều lại không hề xem nhẹ món đồ này, mà thận trọng nhìn qua Thích Trí Không đang ngồi đối diện: “Cái món đồ anh gọi em lại xem này, rốt cuộc là cái gì? Tại sao lại nói có hơi giống chỗ bột đó?”
Thích Trí Không nói: “Đây là một loại gỗ, anh tìm được ở trong nhà kho của chùa đó, bình thường không thể đem ra ngoài được đâu, anh có thể xem là đem trộm ra đó, chút nữa phải trả lại thật nhanh.”
“Gỗ? Đen thui? Nhà kho đó không phải toàn là cất mấy món Phật bảo có được do trao đổi giao lưu với các chùa Phật khác sao? Khúc gỗ này cũng là Phật bảo?”
“Ngoài Phật bảo cũng có mấy thứ là do cao tăng các đời trước lưu lại, nhưng mà cái hồi Phá Tứ Cựu[4] cũng bị đập gần hết rồi, cái thứ đen thui này là một khúc gỗ mục nhưng lại có thể vượt qua bình an vô sự.” Thích Trí Không nói: “Mấy hôm nay anh lật xem các thư tịch trong chùa, nhìn thấy văn bản ghi chép lịch sử của nhà kho mới biết điểm đặc biệt của khúc gỗ này, chắc là hiện giờ những người khác trong chùa đều không biết chuyện này, nếu không anh cũng không tha ra nổi.”
Cố Tích Triều quả thực đã bị thu hút: “Đừng có làm màu nữa, rốt cuộc là cái gì?”
“Lõi của Phản Hồn Thụ!” Thích Trí Không nói: “Theo ghi chép, hơn một ngàn năm trước, một đạo sĩ ở Cát Lĩnh đã tặng nó cho trụ trì lúc bấy giờ của chùa.”
“Đạo sĩ Cát Lĩnh? Em lại nghĩ đến thuật sĩ luyện đan Cát Hồng ẩn cư ở Bảo Thạch Sơn thời Đông Tấn.” Cố Tích Triều nói.
Thích Trí Không nói: “Hôm qua anh cũng đoán là Cát Hồng, nhưng ghi chép rất mơ hồ, không có nói rõ.”
Cố Tích Triều cẩn thận cầm khúc cây đó lên: “Cái này có tác dụng gì?”
“Chiêu hồi hồn phách!” Thích Trí Không nói: “Từ ghi chép các đời cho thấy, dùng dược luyện từ cái cây này có thể khiến người chết hồi sinh, gọi hồn phách về.”
Cố Tích Triều lắc đầu: “Cái này chắc là truyền thuyết? Thực tế làm gì mà linh vậy? Nếu quả thực có thể khiến người chết hồi sinh, khúc cây này còn lưu lại được đến ngày nay? Bao nhiêu hoàng đế phi tần tìm kiếm con đường trường sinh của các đời lại không ra tay đoạt lấy sao?”
Thích Trí Không nói: “Cho nên anh đã tra rất nhiều truyền thuyết dã sử có liên quan, rút ra được một kết luận, Phản Hồn Thụ này không thể thực sự hồi sinh người chết, nhưng có khả năng chiêu hồi hồn phách.”
Cố Tích Triều liên hệ tới câu Thích Trí Không nói trước đó, hỏi: “Ý anh là, Phản Hồn Thụ này có cùng công dụng với thứ bột em tìm thấy, có nghĩa là ảo giác mà thứ bột đó đem lại cũng chính là một đoạn quá khứ mà hồn phách từng nhìn thấy?”
TBC
[Chú Thích]
[1] Minh Sa Sơn 鸣沙山: một vùng núi cát nằm phía tây nam thành phố Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, từ tây sang đông dài 40 km, từ nam lên bắc rộng 20km, nổi tiếng vì cát phát ra tiếng khi bị gió thổi chuyển động (Minh Sa là ‘cát phát ra tiếng kêu’)
[2] Đôn Hoàng 敦煌 (thời cổ là燉煌): thuộc tỉnh Cam Túc, từng là một thành trấn quan trọng trên Con Đường Tơ Lụa, nổi tiếng bởi Hang động Đôn Hoàng và Bích họa Đôn Hoàng.
[3] Gia Dục Quan 嘉峪关: nằm cách thành phố Gia Dục Quan (tỉnh Cam Túc) 5 km về hướng tây, là quan ải trọng yếu nhất ở đầu phía tây của Trường Thành, cũng là nơi hội tụ của các tuyến đường giao thông huyết mạch của ‘Con Đường Tơ Lụa’ thời cổ đại.
Thành trì của Gia Dục Quan nằm trên Gia Dục Sơn có địa thế cao nhất, tường thành hai bên trải ngang qua sa mạc Gobi. Gia Dục Quan dựa vào địa thế hiểm yếu, quang cảnh hùng vĩ mà trở nên nổi tiếng, được xưng là ‘Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan’.
[4] Phá Tứ Cựu 破四旧: là một phong trào trong giai đoạn đầu của Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) của Trung Quốc do Hồng Vệ Binh (gồm học sinh sinh viên) làm chủ lực tiến hành, với khẩu hiệu “Phá bỏ tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ”, đã phá hoại rất nhiều di tích văn hóa lịch sử và tác phẩm thủ công nghệ thuật quý giá, đây là một giai đoạn đen tối trong lịch sử Trung Quốc.