- Ghê thật! Làm đẹp mặt cho gia đình sau này chính là nó! Nhưng làm tan cửa nát nhà lại cũng là nó! Nó cần phải đọc nhiều sách thì may ra mới thoát khỏi hoạ này!
Nghe thầy tướng nhắc đến chuyện đọc sách, ông Linh chạnh lòng, thở dài nói:
- Thằng bé này hư hỏng quá rồi. Nó lại kỵ nhất là việc đó.
Thầy tướng nói:
- Thưa lão ông, nếu lão ông tin mà uỷ thác, vãn sinh sẽ xin cố giúp cho cháu trở thành người văn võ toàn tài.
Miêu Hà Linh bèn mời thầy tướng về nhà nghỉ lại. Đêm đó thầy tướng bèn đem lai lịch của mình cũng như cách thức giáo dưỡng thằng bé kể cho ông Linh nghe. Ông phục hết chỗ nói, muốn thầy tướng nhận ngay Nghiêu làm học trò. Thầy bảo:
- Hãy khoan! Xin lão ông xuất ra cho hai vạn lạng bạc giao cho vãn sinh lo liệu mọi thứ đã.
Ông Linh không do dự chút nào, tức tốc làm theo, còn cho quyền thầy tuỳ nghi sử dụng. Từ đó về sau, toàn gia họ Miên đều gọi thầy tướng là tiên sinh.
Tiên sinh nọ lấy tiền xong, chẳng thèm nói tới chuyện dạy dỗ gì Nghiêu hết. Ông đem số tiền mua một miếng đất trống ở đằng sau Miên gia trang, mướn rất nhiều thợ gấp rút xây cất một toà hoa viên tráng lệ với nhiều cây cối xum xuê hoa lá ở trung tâm, ông lại cho xây một thư viện chứa đầy sách.
Cuối đông năm đó, toà hoa viên mới được xây cất xong. Chung quanh, ông lại cho xây hai lần tường vây kín, chỉ để một cái cửa nhỏ ở về hướng tây nam thông ra ngoài mà thôi.
Thế rồi tiên sinh nọ chọn đúng ngày mười sáu tháng giêng năm sau, là ngày lành tháng tốt, khai tâm cho tên học trò duy nhất Miên Canh Nghiêu của ông.
Hôm đó, Miên Hà Linh cho mời thân bằng cố hữu tới dự bữa tiệc đãi tiên sinh. Rượu xong, chính Miên Hà Linh đưa Miên Canh Nghiêu tới để làm lễ nhập môn. Ông Miên chắp tay lạy tiên sinh nọ ba lạy rồi gởi lời ký thác, xong cáo từ quay về. Tiên sinh nọ tiễn Miên Hà Linh ra khỏi hoa viên bằng cái cửa nhỏ duy nhất nọ, rồi sai thợ hồ xây bít luôn lại, chỉ trừ có một cái lỗ nhỏ đủ để đưa cơm nước vào trong mà thôi.
Toà hoa viên xây cất tráng lệ cho nên Miên Canh Nghiêu bị nhốt bên trong mà cũng không lấy làm buồn chán lắm. Nghiêu tung tăng chạy nhảy, rong chơi suốt ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng ai thèm nói tới. Vị tiên sinh khả kính nọ thì suốt ngày ngồi trong thư viện, tay không rời sách, cũng chẳng thèm để ý tới Nghiêu, cũng chẳng bao giờ bắt Nghiêu mó đến bút giấy. Nghiêu được hoàn toàn tự do, khoái lắm, thế là cứ việc chạy nhảy suốt ngày trong hoa viên, không có chỗ nào là không đạp chân tới. Nhưng có điều lạ là Nghiêu chẳng bao giờ bén mảng tới thư phòng, chẳng bao giờ chuyện trò lấy nửa lời với tiên sinh nọ. Thư phòng đối với Nghiêu dường như là một cấm địa mà chính Nghiêu tự nhủ phải chừa ra.
Càng được tự do, Nghiêu càng thấy khoái. Nghiêu cởi hết quần áo, ở truồng nồng nỗng, nhảy đại xuống ao bơi lội, bắt cá. Lại có lúc Nghiêu leo lên cây hái trái ăn, phá tổ chim chơi.
Mùa xuân, Nghiêu lấy sáo ra thổi vang lên. Mùa hè Nghiêu vác cần ra ao câu cá. Mùa thu, Nghiêu đuổi ve, bắt dế suốt ngày. Mùa đông Nghiêu nghịch tuyết rỡn cười. Một năm có bốn mùa thì không mùa nào là Nghiêu không có cái thú để tiêu khiển. Chơi những trò đó chán rồi, Nghiêu lại có lúc cuốc đất, đào hố, trồng cây…, thôi thì đủ trò của một thằng nhỏ mười hai, mười ba, nghịch ngợm khôn ranh.
Nghiêu tự do tự tại như vậy được một năm, thì tường đổ, vách xiêu, hoa tàn, nước cạn, thậm chí những trụ đá xây hết sức vững chắc cũng bị Nghiêu đập gục xuống hết. Không chỗ nào là còn lành lặn dưới sự tàn phá của Nghiêu. Riêng toà thư viện đã trở thành cấm địa đối với Nghiêu thì quả thực Nghiêu không bao giờ đụng tới. Tiên sinh nọ thấy Nghiêu phá phách đến quỷ khốc thần sầu như vậy mà vẫn mặc, chẳng thèm "hừ" lên một tiếng nhỏ nào.
Ít lâu sau nữa, Miên Canh Nghiêu chơi nghịch đã chán hết mọi chỗ mọi trò rồi, bèn liều lĩnh mò vào thư phòng tính chuyện quấy phá. Để "lấy đà", cu cậu mặt hầm hầm, mắt trợn ngược lên, làm oai quát bảo:
- Mau mở cửa ra cho ta! Ta muốn ra khỏi nơi đây.
Tiên sinh nọ mặt lạnh như tiền, đáp:
- Khu vườn này không có cửa. Mi muốn ra cứ việc nhảy qua tường mà ra.
Nghiêu thấy tiên sinh nọ không chịu, liền xắn tay áo giơ cao quả đấm, thoi mạnh một cú vào mặt ông. Chỉ thấy ông quắc mắt lên giơ bàn tay ra chộp ngay lấy cánh tay Nghiêu, văn mạnh. Nghiêu la lên oai oái và giẫy đành đạch. Tiên sinh quát lớn:
- Quỳ xuống!
Nghiêu sợ đau, lúc này chẳng quỳ cũng chẳng được. Tiên sinh thả tay, Nghiêu vội lủi đi, mất hút.
Luôn một lèo, hơn mười ngày, Nghiêu trốn biệt, chẳng dám bén mảng đến thư phòng. Mùa thu đã lại về, phong cảnh có điều tiêu sơ Nghiêu không còn thấy cảnh đẹp nữa, liền lẻn tới thư phòng, thấy tiên sinh nọ đang cúi đầu xem sách. Nghiêu rón rén lại bên bàn, đứng một lúc rồi bỗng mở miệng nói:
- Này lão kia, một toà hoa viên rộng lớn thế mà ta chơi cũng đã chán rồi. Cuốn sách nho nhỏ kia, sáng xem đến tối, tối xem đến sáng. Có gì hay trong đó mà lão xem mãi thế?
Tiên sinh nghe Nghiêu nói xong, cười lên khà khà, bảo:
- Thằng nhỏ, mày biết gì! Cuốn sách này còn có những cảnh trí rộng lớn bằng vạn lần khu vườn kia, suốt đời cũng khó xem hết được, mày không biết, thật đáng tiếc!
Miên Canh Nghiêu nghe xong bảo:
- Lão thử nói ta nghe có gì vui trong đó?
Tiên sinh lắc đầu:
- Thầy mày chẳng lạy mà lại dám bảo nói cho mày nghe hở? Đâu có dễ thế chú bé.
Nghiêu nghe đoạn dựng ngược đôi mày, giơ thẳng cánh tay đập cái rầm xuống mặt bàn, quát.
- Lạy! Lạy cái con khỉ ấy à! Đừng hòng!
Quát xong, Nghiêu khoát tay làm bộ, huênh hoang bước ra khỏi phòng. Tiên sinh mặc kệ, chẳng thèm gọi lại.
Lại hơn mười ngày sau, Nghiêu quả đã chịu hết nổi, bèn chạy vào thư phòng, quỳ xuống đất lạy thầy và nói:
- Xin thầy dạy cho con với.
Tiên sinh nâng Nghiêu dậy, bảo ngồi xuống. Bộ sách đầu tiên mà ông dạy cho Nghiêu là bộ Thuỷ Hử. Ông đem những chuyện trong Thuỷ Hử ra kể. Nghiêu nghe khoái bằng chết, thôi thì khoa chân múa tay, lắm lúc như điên như dại. Tiên sinh giảng tiếp Tam Quốc Chí, rồi Tống Nhạc Phi, rồi những chuyện anh hùng, hiệp khách ly kỳ khác. Sau nữa, ông giảng tới binh thư, sử ký kinh điển, rồi các loại sách về khoa học.
Những lúc rỗi rảnh, ông lại dạy cách dương cung bắn tên hạ cờ, dần dần về sau dạy đủ mười tám ban võ nghệ, không một ban nào là không đến độ tinh vi. Ông còn dạy cả cách ra quân bày trận, phép chạy trên tường, bay trên mái nhà. Thế rồi, sau tám năm công phu đằng đẵng, ông dạy Nghiêu thành một người văn võ toàn tài. Đến lúc đó ông mới bảo Nghiêu phá tường mà ra.
Miên Canh Nghiêu trở về nhà, bái kiến phụ thân. Ông Miên Hà Linh sau tám năm không gặp, nay thấy con trở về với toàn tài văn võ, bản lãnh phi thường thì làm sao chẳng mừng. Ông vội tới lạy tà tiên sinh nọ. Tiên sinh chỉ chào rồi cáo từ ra đi mặc cho cha con họ Miên khẩn khoản lưu lại. Tiên sinh nọ chỉ dặn đi dặn lại Nghiêu có một câu "cấp lưu dũng thoái" (nghĩa là đi thì cho nhanh mà về thì cũng cho lẹ).
Đến lúc này, đại tướng quân Miên Canh Nghiêu phú quý đã tột bực. Mỗi lúc nhớ tới vị thầy xưa, Nghiêu lại thấy kính trọng vô bờ. Cũng bởi lẽ đó nên Nghiêu hết sức kính trọng Vương tiên sinh hiện dạy học cho con mình.
Ông Vương Hàm Xuân tuy không phải là một ông thầy văn võ toàn tài như tiên sinh thuở nọ nhưng ở trong nhà họ Miên, ông luôn tỏ ra ngay thẳng trung hậu, nên được Nghiêu tin cậy ký thác mọi việc cho. Ngoài việc dạy cho cậu út học, ông còn trông coi cả việc nhà cho Nghiêu. Những lúc nhàn rỗi, Miên thường tới gặp ông để trò chuyện.
Vương tiên sinh vốn nhân hậu nên khi thấy Miêu đại tướng quân giết chóc quá nhiều thì lòng ông không yên. Phải cái Miên tính nóng như lửa, việc khuyên can nhiều khi cũng chẳng dễ dàng gì. Trong nhà đã có hai đầu bếp, một hầu gái mất mạng vì ông khiến ông suốt đời không thể nào quên được. Cứ mỗi khi nằm, ông lại giở cuốn kinh Kim Cương ra tụng niệm, mong siêu sinh tịnh độ cho những oan hồn đã chết vì mình. Ông nguyện rằng công quả này sê không bao giờ sao nhãng, cho mãi tới khi ông chết. Gia nhân thứ nhất họ Hồ, làm cho Miên đã bốn năm. Một hôm, Miên mời khách dự tiệc. Trong bữa có món đặc biệt tên gọi "Nguyên quần", do Miên bảo làm.
Ông thầy Hàm Xuân bữa đó ngồi ghế nhất. Khi gia nhân dâng bát Nguyên quần, ông không biết món gì liền hỏi thì Miên giải thích đó là món thịt ba ba cắt ở chung quanh cái viền thịt trên lưng ba ba. Giải thích xong, Miên bèn lấy thìa múc lên đãi khách.
Ông tiếp lấy miếng thịt. Miên hỏi mặn nhạt ra sao, ông chưa kịp đáp, chỉ nhíu đôi lông mày, lắc nhẹ cái đầu một cái. Không đáp kịp chỉ tại miếng thịt nóng quá, khiến đầu lưỡi của ông gần như tê đi, không nói được. Miên thấy thế cho là ông chê món ăn không ngon, bèn khẽ hất đầu ra hiệu cho đám thị vệ túc trực bên ngoài. Một lát sau, ông thấy một tên thị vệ chạy từ ngoài vào, tay bưng chiếc mâm sơn đỏ, trên phủ một tấm khăn đỏ. Tên thị vệ quỳ xuống, miệng bẩm lớn:
- Hồ nhà bếp nấy món không ngon. Nay đã chém đầu đem nộp.
Nói đoạn thị vệ giở tấm khăn đỏ ra. Ông thấy một cái đầu người vừa mới cắt xong, máu đang còn ứa. Tân khách trong tiệc, người nào người nấy ghê quá, quay mặt không dám nhìn, ông hỏi tại sao thì Miên đại tướng giải thích:
- Bản chức thấy tiên sinh nhíu đôi mày, biết món ăn không ngon nên đã bảo nô dịch chặt đầu tên nhà bếp.
Ông vừa nghe đoạn, bất giác chồm dậy, luôn miệng nói:
- Tội quá! Tội quá!
Rồi ông giải thích lý do tại sao lại nhíu đôi mày và lắc đầu Miên đại tướng mới vỡ lẽ nhưng đâu thèm để ý, chỉ cười xoà một tiếng coi như xong.
Hồ nhà bếp chết rồi, ít lâu sau lại đến Tiền nhà bếp. Anh nhà bếp họ Tiền này biết rõ lý do cái chết của người đi trước cho nên hết sức cẩn thận: Cứ mỗi bữa định nấu món gì, Tiền nhà bếp lại tới hỏi Vương gia sư trước đã. Sự khôn ngoan ấy đã giúp cho anh ta được yên ổn, không xảy ra chuyện gì.
Vương tiên sinh vốn người Hàng Châu. Một hôm, ông nhớ tới món đậu hũ xứ Hàng, liền bảo Tiền nhà bếp làm cho một nồi. Miên đại tướng thường ngồi ăn với Vương tiên sinh, khi thấy chén đậu hũ, đột nhiên cả giận quát:
- Đậu hũ là món tồi tệ nhất, tại sao dám đem đãi tiên sinh? Bay đâu? Chém!
Ông thầy họ Vương nghe quát, hoảng quá, vội bảo món đậu hũ chính là do ông bảo làm. Miên đại tướng không ngờ món này ngon thật, bèn dặn Tiền đầu bếp bữa nào cũng phải có một chén cho Vương tiên sinh. Vương ăn mãi cũng chán nhưng không dám nói. Về sau Tiền nhà bếp bận việc nhà xin cáo về, một anh bếp mới tới nghe nói Vương thích món đậu hũ liền bắt chước anh bếp cũ làm theo. Miên đại tướng nếm thử, không ngờ đậu hũ vừa đắng vừa mặn, thế là đùng đùng nổi giận, quát chém, khiến Vương tiên sinh vội can mà không kịp.
Ít lâu sau, Tiền nhà bếp xong việc nhà, trở lại bếp nhà Miên. Y lại chế món đậu hũ, mùi vị thật hết sức ngon thơm.
Vương tiên sinh lấy làm lạ, bèn cho gọi tới hỏi xem thì mới biết rằng: Cứ mỗi nồi đậu hũ phải lấy một trăm bộ óc cá mè trộn vào mới được ngon thơm như vậy.
Vương nghe xong luôn mồm nói:
- A di đà phật! Anh bếp mới nọ thật là oan, như thế thì làm sao anh ta biết được! Thôi từ mai anh bỏ cái món đó đi nhé!
Ít hôm sau, Miên Canh Nghiêu lại nghĩ ra một món nhậu đặc biệt. Ngài cho mời một số tân khách tới dự tiệc. Vương tiên sinh lần này cũng vẫn ngồi ghế nhất. Rượu được vài tuần, Miên truyền lệnh bưng ra. Người ta thấy bọn gia nhân vội vã sắp đặt, cứ trên mỗi bàn đặt một cái bếp hoả than, trong nòi nào xáo gà, nào vây cá sôi sùng sục, khói bốc nghi ngút. Trước mỗi thực khách, chúng để tiếp một cái mâm đầy đủ đồ gia vị, một cái dùi bạc, một con dao bạc, một cái thìa bạc. Khách khứa chẳng ai hiểu ra sao.
Đợi một lát, lại thấy bọn gia nhân đặt trước mặt mỗi thực khách một cái lồng nhỏ bằng gỗ, bên trong nhốt một con khỉ nhỏ, đầu nhô lên trên chóp lồng, chìa hẳn ra bên ngoài, cứng ngắc không thể cựa quậy, y như bị cùm chặt vào đó, còn cổ thì bị khoá chặt vào những thanh lồng, khiến khỉ ta không thể thò lên thụt xuống được. Bầu không khí ồn ào trong bữa tiệc bỗng dưng biến mất. Mọi người im lặng, đợi chờ một sự lạ nào đó sắp xảy ra.
Miên đại tướng quân động thủ trước. Ngài cầm dùi bạc, giơ cao lên, đập mạnh vào sọ con khỉ, thủng thành một lỗ lớn. Đoạn, ngài cầm thìa bạc thọc vào sọ khỉ, múc óc ra, nhúng nhúng vào nồi hoả than rồi bỏ vào miệng, ăn hết sức ngon lành. Xong ngài lại lấy con dao bạc cắt cái sọ khỉ khác bỏ vào nước đang sôi.
Nhiều thực khách thấy cách ăn của Nghiêu cũng bắt chước theo. Thế là cả bữa tiệc rùm lên vì tiếng kêu la thàm thiết của lũ khỉ, tiếng đập đôm đốp của dùi, tiếng xẻo tiếng cắt xoèn xoẹt của dao. Rồi tiếng người khen ngon, kẻ khen tuyệt, ồn ĩ cả lên.
Vương gia sư ngồi trên ghế nhất nhìn cử toạ, thấy mặt mũi tối sầm lại. Ông thác cớ nhức đầu, rút lui về phòng, thiếu điều nôn thốc nôn tháo.
Bữa tiệc kéo dài mãi tới mặt trời gác núi mới tan. Tính ra đến gần một trăm con khỉ đã thiệt mạng. Nghiêu đại tướng quả được một bữa mãn nguyện. Ngài vào thư phòng thăm Vương tiên sinh, cũng vừa lúc con a hoàn dâng trà lên cho Vương.
Ông đứng lên để đón Nghiêu, không ngờ trật tay nghe đánh choang một tiếng, chiếc chén ngọc đã rớt, bể tan trên mặt đất, còn nước trà bắn tung tóe lên cả áo quần mình. Ông lấy khăn, vừa cúi xuống lau những giọt nước trà trên quần áo, tai đã nghe thấy tiếng gió vút, vội ngẩng lên thì đã thấy đầu con a hoàn bị Nghiêu chém đứt, lăn lông lốc trên sàn nhà.
Vương tiên sinh lúc này không nhịn được nữa, đành phải lên tiếng khuyên can Nghiêu. Ông còn nói thêm:
- Người đời thường nói công cao át cả chúa, đó là điều không lợi Đại tướng quân ở nơi đây, nhất cử nhất động e khó qua được tai mắt của hoàng thượng. Thiết tưởng đại tướng quân nên làm nhiều điều nhân đức, cố kết lòng quân mới phải.
Giữa lúc Vương tiên sinh đang can gián Nghiêu, từ bên ngoài bỗng trình vào một phong văn thư. Nghiêu mở xem, nhận ra là thư của tâm phúc từ kinh gửi tới. Đọc chưa xong, hùng khí của Nghiêu vốn cao đến vạn trượng, bỗng thấp hẳn xuống chỉ còn độ vài gang. Nghiêu lắp bắp nói:
- Hỏng rồi Hỏng rồi!
Vương tiên sinh tiếp lấy thư, xem qua, bất giác cũng phải nhíu đôi lông mày lại, mặt lộ vẻ buồn thảm vô hạn…