Thanh Cung Mười Ba Triều

Hồi 6

Diệp Hách bối lặc là Kim đài Bố Dương Cổ vốn đã ước định với Minh triều đem ba ngàn quân tiêu diệt quân đội Kiến Châu. Cổ vừa đưa quân tới Trung Cổ thành miền Khai Nguyên thì được tin chiến bại của quân Minh. Cổ hoảng hồn bạt vía, vội cuốn cờ bịt trống lặng lẽ trốn về.

Đến lúc đó coi như Anh Minh hoàng đế đã phá tan được hai lộ quân của Minh triều. Quân sư Phạm Văn Trình bèn tâu:

- Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ cấp tốc hành quân về phòng về Hưng Kinh, đó là điều tối khẩn.

Anh Minh hoàng đế nghe lời bèn hạ lệnh thu thập Bát Kỳ binh mã hồi quân tới Cổ Lặc ban mới tạm nghỉ.

Tổng binh quan của nhà Minh lúc đó là Lưu Đĩnh và Lý Như Bá, cùng hai chỉ quân do hai tướng Đổng Ngạc và Hổ Lan tiến binh, không còn xa Hưng Kinh là mấy.

Tin tức báo về đại dinh quân Mãn. Anh Minh hoàng đế liền phong Hỗ Nhĩ Hán làm tiên phong, đem một ngàn người ngựa đi suốt đêm ngày về trước để bảo vệ Hưng Kinh. Quá ngày thứ hai, hoàng đế lại cho Nhị bối lặc đem bản bộ binh mã bà ngàn tên tiếp ứng. Còn chính mình thì cùng với các bối lặc đại thần văn võ bá quan về Giới Phàm Sơn để cùng làm lễ Khai Tuyền, chém tám đầu trâu tế cờ cáo trời.

Đại bối lặc thấy Nhị bối lặc đã đi rồi, sợ em đoạt mất công đầu vội tới tâu phụ hoàng xin đem hai mươi kỵ binh đi trước để do thám tình hình. Anh Minh hoàng đế gật đầu cho đi. Tam bối lặc thấy anh cả được đi cũng có ý muốn theo. Tứ bối lặc lúc đó đang đi săn ở sau núi, được tin hai anh mình sắp ra trận, vội chạy về xin cha cho theo. Hoàng đế thấy vậy, lấy làm vui mừng, bèn kéo Tứ bối lặc vào lòng, mà bảo:

- Con ngoan của cha! Hai anh con đi cả. Con ở lại trong dinh bầu bạn với cha có phải vui không?

Tứ bối lặc lòng vốn nhớ nhà từ lâu, khẩn khoản cha ba, bốn lần để được về Hưng Kinh trước. Thế là cả ba anh em được phép cha cùng lên đường.

Được tin bốn vị bối lặc trở về, các bà phi từ trong cung gọi vào và vây lấy hỏi thăm tin tức nơi quan ải chiến binh.

Bốn vị bối lặc vui mừng cực điểm, khoa chân múa tay, đem tất cả tình hình nơi chiến trường kể lại một lượt. Các bà nghe xong vừa mừng vừa sợ.

Trong số bốn bối lặc có mặt lúc đó, chỉ có Tam bối lặc Mãng Hỗ Nhĩ Thái là còn có mẹ. Bởi vậy khi bà Phú Sát thị ngồi nghe tới lúc xuất thần, bèn kéo con lại gần mình mà bảo:

- Chả trách mà mẹ thấy tim gan hồi hộp, nhiều lúc trống ngực tự dưng cứ thình thịch.

Kẻ đẹp trai nhất phải nói là Tứ bối lặc Hoàng Thái Cực, mẹ chàng là bà Diệp Hách thị tuy đã mất sớm, nhưng chàng có cái sắc tướng tươi trẻ đáng yêu nên ai cũng thích cũng chiều.

Các bà phi trong cung không ai là không quý mến chàng, nhất là bà Ô Lạp thị. Bà này lúc nghe kể chuyện quá hứng thú, cứ cầm lấy tay Hoàng Thái Cực mà xuýt xoa nói:

- Chả trách gì ta cũng thấy tim gan nó hồi hộp ghê gớm mấy bữa nay!

Hoàng tử thứ mười bốn là Đa Nhĩ Cổn thấy mẹ yêu quý anh Tư cũng vội chạy tới nằm vào lòng mẹ. Bà Ô Lạp một tay thì cầm tay Đa Nhĩ Cổn, còn một tày thì nắm tay Hoàng Thái Cực. Cả nhà nhướng mắt nhìn bà và hai cậu hoàng tử đẹp trai mà tấm tắc ngợi khen. Đa Nhĩ Cổn tuổi tuy còn nhỏ nhưng xem bề sắc diện còn có phần bảnh trai hơn anh đôi phần.

Đại bối lặc cùng Nhị bối lặc nhìn quang cảnh đó bỗng nhiên nhớ tới mẹ mình, bất giác thấy chua xót trong lòng, đôi mắt rưng rưng ứa lệ. Hai anh em vội quay đầu chạy ra khỏi cung.

Trời hừng sáng. Bỗng tiếng pháo liên châu nổ vang ngoài thành rồi trống, còi vang lên. Mọi người đều biết xa giá hồi kinh. Thế là trong thành, từ lớn chí bé, từ dân đến quan, ai nấy đều vội vã ra khỏi thành đón rước.

Anh Minh hoàng đế về tới cung. Bà Ô Lạp vội bày yến tiệc để hoàng đế đón gió. Lúc đó trong doanh có bắt được mấy trang mỹ nữ của Minh triều. Được lệnh, họ phải vào cung. Các bà phi và các nàng công chúa thấy phía dưới quần họ lộ một đôi chân nhỏ bé xinh xinh, ai cũng đều lấy làm lạ. Các bà, các nàng tò mò, vây quanh họ, cởi bỏ đôi hài của họ, nắm đôi bàn chân xoay đi xoay lại để xem xét khiến họ mắc cỡ đến mặt đỏ tía tai, không cất đầu lên nổi nữa.

Bọn cung nữ được lệnh đưa mấy cô gái đẹp người Hán từ trong phòng tắm ra để trang điểm. Rồi ngay đêm đó họ được đưa vào cung để phục thị hoàng đế. Anh Minh hoàng đế thấy mấy cô này vừa xinh đẹp lại vừa hiền hậu ngoan ngoãn nên rất sủng ái.

A Mẫn vốn hiếu sắc, nên đêm đó cố xoay cho kỳ được hai cô gái Hán đến phòng mình để hầu hạ mua vui.

Sáng hôm sau, cậu tới xin hoàng phụ và được cha phong thưởng cho hai nàng làm thị nữ của Mãn, đồng thời cũng phong cho mấy người đẹp của mình làm thứ phi. Cậu hoàng A Mẫn lúc đó liếc mắt so sánh người đẹp của mình với người đẹp của cha, thấy của mình thua kém xa nên có vẻ chờm bơm, cười nói đưa tình chẳng nể mặt hoàng phụ. Anh Minh hoàng đế thấy vậy làm giận lắm, tức tốc sai cung nữ đuổi Mẫn ra khỏi cung. Từ đó, Đế trong lòng có ý chán ghét cậu hoàng nhi A Mẫn, rất ít khi cho gọi vào gặp mặt.

Ngày hôm sau, Anh Minh hoàng đế lâm triều. Đại tướng Hỗ Nhĩ Hán xuất ban tấu lên:

- Tây lộ của Minh triều hiện đã theo đường Khoan Diện tiến tới Đổng Ngạc. Cư dân quanh vùng đều phải chạy trốn vào những nơi rừng sâu, núi thẳm. Tổng binh Lưu Đĩnh tung quân đốt làng, cướp của, giết chết dân chúng rất nhiều. Ngưu Lộc Ngạch Nhân, Thác Bao Ngạch Nhĩ, Nạp Ngạch Hắc Ất, ba người đã chỉ huy quân trú phòng năm trăm người tiến tới nghênh địch nhưng đều bị quân Minh bao vây khắp mặt, Ngạch Chân và Hắc Ất đã bị loạn quân giết chết, ba trăm binh sĩ cũng bị tàn sát theo. Thác Bảo thoát chết vội đem tàn quân chạy tới Hưng Kinh cầu cứu. Xin bệ hạ truyền lệnh cho đại binh cấp tốc tiến tới nghênh địch.

Vừa nghe rời tâu trình của Hán, Anh Minh hoàng đế vội hạ lệnh cho Đại bối lặc, Tam bối lặc, Tứ bối lặc điều khiển toàn bộ quân mã tới Đổng Ngạc trước để nghinh chiến. Lại sai Hỗ Nhĩ Hán đem một chi quân ẩn trong rừng sâu để ứng sách, chỉ lưu có bốn ngàn quân lại Hưng Kinh, chuẩn bị để địch với lộ quân của bọn Lý Như Bá và Hạ Thế Hiền.

Xuất quân lần này, Đại bối lặc làm đại nguyên soái, Tam bối lặc làm phó nguyên soái, còn Tứ bối lặc làm tiên phong nguyên soái.

Tứ bối lặc thống lĩnh hai ngàn quân mã, nhổ trại đi trước. Khi gần tới địa phận Phú Sát, tiên phong nguyên soái được thám mã phi báo:

- Quân Minh ở phía trước tiến dọc theo Đông Gia Giang, chỉ còn cách có mười sáu dặm.

Tử bối lặc hay tin hạ lệnh đóng trại tại nơi sơn cốc rồi cho gọi hai trăm tên quân Minh ở hậu doanh đều là những tên quê miền Chiết Giang lên trướng, thưởng cho rượu thịt và dùng lời ngon ngọt vồ về:

- Các ngươi hãy mặc binh phục của Minh triều vào rồi vác cờ Minh đi thẳng tới Đông Gia Giang, gặp Lưu Đĩnh nói dối rằng: Đỗ Tùng tướng quân đã đánh chiếm được Hưng Kinh cho nên sai chúng tôi tới đây đón tướng quân vào thành thảo luận quân cơ.

Lại còn bảo thêm:

- Các ngươi cẩn thận đi cho thành việc. Nếu lừa được Lưu Đĩnh tới đây, thì các ngươi được kể như chiếm công đầu. Lúc đó ta sẽ tha hồ cho các ngươi trở về Chiết Giang với vợ con, cha mẹ.

Bọn binh sĩ người Hán này nghe nói được về quê với gia đình, kẻ nào kẻ nấy cảm kích, liền hăng hái ra đi. Thế là cả bọn thay đổi Minh trang, vác cờ hiệu Đỗ nguyên soái, thẳng đường tiến tới Đông Gia Giang gặp Lưu Đĩnh.

Tướng Mãn Hỗ Nhĩ Hán lúc đó cũng đã đem quân tới hợp với quân của bốn bối lặc. Thác Bảo với cánh tàn quân cũng chạy về tới, xin vào yết kiến bốn bối lặc, rồi được giao cho nhiệm vụ trinh sát địch tình, bằng cách phóng quân len lỏi trong các khu rừng cây rậm rạp.

Lại nói tướng Minh Lưu Đĩnh xuất phát từ Thẩm Dương, theo đường Khoan Điện, chật vật lắm mới tới được Đông Gia Giang để tiến đánh Hưng Kinh. Đĩnh sợ Đỗ Tùng chiếm được Hưng Kinh trước, cướp mất công lớn của mình, nên đốc thúc quân sĩ ngày đêm tiến gấp. Đường xá ở đây lại hoàn toàn là đường núi gồ ghề hiểm trở cây cỏ hoang vu, gai góc mọc đầy. Gặp núi thì mở đường, gặp sông thì bắc cầu, quân sĩ chịu muôn phần mệt nhọc lao khổ. Chúng kêu khổ khắp trời. Khi tới Đổng Ngạc không chỉ mong mượn được nhà dân mà nghỉ ngơi đỡ mệt. Ai ngờ dân chúng nơi đây đã trốn chạy sạch, mười nhà thì đã tới chín không còn lại một cái gì! Khỏi nói đến trâu bô, dê gà, chó lợn, ngay cả nhà cửa cũng đã bị phá hoại hết sạch, không còn gì đáng giá. Quân Minh kéo tới, muốn tìm cái ăn, không có, muốn tìm chỗ trú cũng không. Tướng Đĩnh bực mình lắm. Bọn quân sĩ cũng cáu tiết, châm một mồi lửa thiêu rụi tất cả nhưng gì còn sót lại, nào cái nhà bẹp, nào cái giường hư, nào cái cầu tiêu mục nát, nào cái bờ dậu xiêu vẹo…

Lộ quân lại kéo đi. Một con sông lớn chắn ngang, vượt qua phía đông là miền Phú Sát. Đây vốn là nơi hội ước với quân Triều Tiên. Trước đó mười ngày Đĩnh đã sai Hải Cái Đao, Khang Ứng Kiền đem năm trăm bộ tốt đi trước để đón quân Triều.

Thế mà nay vẫn không thấy họ tới, ngay cả Kiền cũng chẳng thấy về, Đĩnh chẳng biết làm cách nào hơn, đành hạ lệnh cho đại quân đóng bên sông chờ khi hợp binh để tấn công.

Không ngờ chờ đã mấy hôm liền mà quân Triều văn biệt vô âm tín. Đĩnh không nhẫn nại được nữa, bèn lệnh cho quân sĩ mai ăn cơm sớm để canh năm vượt đò qua sông.

Giữa lúc quân Minh đang vội vã thu lượm doanh trại, bỗng một tiểu đội người ngựa đi đò từ bên kia sông sang, chiếc đi đầu rõ ràng thêu chữ Đỗ to tướng tung tẩy trước gió, trong ánh chiều vàng rực rỡ. Đĩnh cho gọi vào nhìn qua một lượt, quả nhiên đúng là quân của nhà. Đĩnh hỏi về Đỗ nguyên soái thì bọn quân Minh vừa tới kia báo bẩm:

- Trước đây ba ngày, Đỗ nguyên soái đã đánh chiếm được thành Hưng Kinh. Đô đốc Kiến Châu đã bị loạn quân giết chết. Đỗ nguyên soái hiện ở trong đô đốc phủ. Ông chỉ còn chờ Lưu nguyên soái ngài qua sông để tới phủ bàn tính việc thu phục các bộ lạc ở miền bắc.

Nghe xong, Đĩnh bất giác vừa giận vừa mừng, mừng vì bọn mọi Kiến Châu đã bị diệt, quan dân từ đây gối cao ngủ kỹ khỏi phải lo lắng gì, giận vì quân Triều Tiên chậm trễ để đến nỗi công đánh chiếm Hưng Kinh bị Đỗ Tùng cướp mất, uổng phí cái chức tiên phong nguyên soái. Hơn nữa, phen này xuất quân chẳng lập được chút công nào thì khi về gặp mặt quan kinh lược biết ăn nói làm sao.

Sau đó Đĩnh truyền lệnh sáng mai thong thả hành quân lên đường. Quân Minh tin chắc thắng trận nên vũ khí thảy đều gói lại vác vai giáp trụ cũng cởi bỏ, chỉ mong sớm vào thành an nghỉ ít hôm cho bõ những lúc gian khổ trên con đường gổ ghề hoang vắng của cái vùng quan ngoại khỉ ho cò gáy này.