Thăng Long Nổi Giận

CHƯƠNG 3

Khi Sài Thung chưa vào tới Thăng Long thì triều đình  Đại Việt đã nghị án xong xuôi bọn Trần Di Ái. Công việc được giữ kín như bưng, trong ngoài không ai hay. Vì vậy Sài Thung vẫn đinh ninh rằng, lũ Di Ái đã chết trong đám loạn quân.

Trần Di Ái đáng tội chết. Đi sứ để nhục mệnh vua. Nhưng thương tình là người quốc thích, được tha tội chết. Song, để giữ nghiêm phép nước, Di Ái vẫn bị đồ làm binh khao giáp ở Thiên Trường. Bọn tùy tùng như Lê Mục, Lê Tuân cũng bị đồ làm Tống binh. Tức là cho gia nhập với những người nhà Tống lưu vong sang ta, được phiên thành đội ngũ, dưới sự sai khiến của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Mà Trần Nhật Duật đang trấn thủ mạn Đà Giang. Vậy là lũ Trần Di Ái cũng coi như bị lưu đầy viễn châu.

Lại nói về Trần Hưng Đạo, sau khi cắt đặt công việc cho các con và bọn gia tướng cùng môn khách, ông lên đường về kinh vừa kịp tham gia việc nghị án Trần Di Ái.

Một hôm từ Quốc phủ ông sang cung Thánh từ vấn an thượng hoàng Trần Thánh tôn. Nhân có quan gia đến chầu, ông xin bệ kiến để tâu việc cơ mật.

Lúc này điều hành công việc triều chính, thực đã ở tay Nhân tôn. Song Thánh tôn vẫn luôn xem xét giám sát. Vì vậy, ông xin được tâu trình để cả hai vua cùng biết.

Hưng Đạo là con Yên Sinh vương Trần Liễu, về thứ bậc, ông là anh em con thúc bá với thượng hoàng Trần Thánh tôn. Thánh tôn phải gọi ông bằng anh. Còn Nhân tôn lại là con rể ông. Tính tôn tộc là như vậy, nhưng ông giữ lễ vua tôi rất nghiêm cẩn.

Ông vừa quỳ lạy thượng hoàng xong, Nhân tôn đến, ông lại quỳ. Nhưng cả hai cha con Nhân tôn đều nâng ông dậy, và xin được miễn lễ. Nhân tôn nói:

- Trình bá phụ, (Nhân tôn thích xưng hô như vậy hơn là quốc trượng), lễ vua tôi là ở nơi thiết triều. Còn bây giờ ở nhà thì phải theo lễ cha con, bác cháu.

Hưng Đạo vuốt râu cười, thong thả đáp:

- Quan gia thể tình mà rộng lượng, ấy là quyền ở quan gia; còn đạo làm tôi, Quốc Tuấn này dâu dám trái. Ấy tính Quốc Tuấn là như vậy, ông không ưa sự sàm sỡ. Vì sàm sỡ làm cho con người dễ xuề xòa mà lỗi đạo.

Tận đáy lòng mình, Quốc Tuấn cũng rất muốn được biểu lộ tình anh em, tình cha con cốt nhục. Hiềm có sự nghi kỵ ông đem lòng kia khác, vì mối thù cha ông và Trần Thái tôn nên ông càng phải giữ gìn. Lại nhớ hồi năm Bính thìn (1256) Vũ Thành vương Doãn đem cả nhà trốn sang Tống, ông suýt bị liên lụy. Có người hỏi ông: "Sao đại vương không lo giữ mình?". Quốc Tuấn bèn đáp: "Tôi lo giữ đạo để giữ mình?". Đó là ý muốn bày tỏ lòng trung thuận với dòng thứ.

(Đây muốn nhắc lại sự kiện Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung ép Trần Thái tôn cướp Thuận Thiên là vợ Yên Sinh vương Trần Liễu. Và việc Trần Thủ Độ phù Trần Cảnh (là em Trần Liễu) lên ngôi vua. Bính thìn (1256) Vũ Thành vương Doãn là con Yên Sinh vương Trần Liễu với Thuận Thiên. Yên Sinh có hiềm khích với Thái tôn, nên khi Thuận Thiên mất, thấy mình thất thế, Vương Doãn liền bỏ nước ra đi và bị bắt trở lại.)

Phân định lễ vua tôi xong, Quốc Tuấn liền nói:

- Tâu thượng hoàng cùng quan gia, lần này Quốc Tuấn tôi về triều kiến, là để tường trình việc thu góp binh, lương của ta, và việc rèn luyện quân sĩ chờ lệnh sai khiến.

Thượng hoàng Thánh tông từ sau cuộc chống Mông-Thát xâm lấn bờ cõi năm Đinh tỵ (1257), đã hiểu được lòng cô trung của Hưng Đạo. Nhà vua vì thế càng quý trọng người anh họ và cũng là người anh vợ mình.

Thánh tông hiểu những việc tận tâm báo quốc của Vương, chính là sự hóa giải mối hiềm khích giữa hai dòng trưởng và thứ. Chính nhà vua tự mình đi lại thăm hỏi Quốc Tuấn, khi thì ghé nơi Quốc phủ, khi đến tận thái ấp Yên Sinh. Tình anh em từ đấy đã có phần bớt căng thẳng. Song Quốc Tuấn vẫn một lòng thủ lễ vua tôi.

Lần này Quốc Tuấn lai kinh, thượng hoàng mừng lắm. Bởi thế nước bị uy hiếp nặng nề. Mà Quốc Tuấn lại là một tướng tài kiệt hiệt, trong tay nắm giữ tới nửa số binh lực cả nước. Môn khách đầy nhà, thuần những bậc hào kiệt, văn võ kiêm thông.

Sau khi nghe Quốc Tuấn tâu bày, hai vua đều lấy làm dẹp ý vỗ về mãi không thôi. Đại ý Nhân tôn nói:

- Thế nước hưng lên được, phải nhờ vào bậc tể thần lương đống như quốc phụ.

- Đa tạ. Ấy là nhờ hồng phúc của tổ phụ, và ân đức của bệ hạ - Quốc Tuấn khiêm nhường đáp. Và ông hỏi thêm: - Tâu bệ hạ, chẳng hay có tin tức gì từ Đại đô đưa về không?

- Trình Quốc phụ, Nhân tôn đáp - người của ta từ Kinh Hồ hành sảnh, từ Yên Kinh về đều nói: "Hốt-tất-liệt đang chuẩn bị đánh ta gấp lắm. Chỉ mùa thu này là phát binh". Nói xong, nhà vua rút trong tay áo thụng ra một phong thư, hai tay kính cẩn đưa cho Trần Hưng Đạo. - Quốc phụ xem, trong này nói tường tận lắm.

( Năm 1274 nhà Nguyên tập Kinh Hồ đẳng xứ hành trung thư tỉnh. Năm 1277 gộp Ngạc Châu (Hồ Bắc) vào Đàm Châu (thành tỉnh Hồ Nam). Sau khi diệt xong nhà Nam Tống lại sát nhập cả Lưỡng Quảng gọi là trung thư tỉnh Hồ Quảng (gồm Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây). Tuy vậy vẫn cứ gọi là Kinh Hồ.)

Trần Hưng Đạo đỡ lấy bức tấu thư mở ra đọc. Ông kinh ngạc về những tin tức ông thu được qua con đường riêng, cũng trùng khớp với lời lẽ trong mật thư. Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, Hưng Đạo ôn tồn nói với hai vua:

- Tâu thượng hoàng cùng quan gia. Ta phải lo tính cấp kỳ, kẻo hối không kịp. Lực của ta, tuy vậy vẫn còn mỏng lắm. Thần nghe tin tức bên Đại đô nói: "Hốt-tất-liệt sẽ phát năm chục vạn binh, đích thân thái tử Thoát-hoan thống lĩnh để đi đánh Đại Việt".

Thánh tôn trầm mặc, Nhân tôn liền nói:

- Bẩm quốc phụ, vậy theo ý quốc phụ, ta còn cần bao nhiêu binh nữa thì mới tạm đủ dùng?

Quốc Tuấn ve vuốt chòm râu bạc, ông chậm chạp, dường như ông còn cân nhắc từng ý ở trong đầu:

- Xin quan gia cho huy động gấp đôi số hiện có. Tức là phải thêm hai chục vạn binh nữa. Điều này thần đã suy đến cạn nhẽ. Việc binh tốn kém lắm. Thêm binh, tức là thêm lương thảo, khí giới, lại mất đi người cày, cuốc nơi ruộng đồng. Ngay người nông phu, khi bứt khỏi gia đình thôn ấp, bỏ lại nào vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu, héo hon cả ruột gan chứ họ vui thú gì.

- Vẫn biết rằng thế - Thánh tôn nói.- Lòng vương huynh thương dân như con. Nhưng nếu không bắt dân làm việc binh thì anh em ta biết tính sao?

- Cái chính là ở chỗ "biết tính sao" như thượng hoàng nói đó. Theo ý thần, triều đình phải có chính sách vỗ về trăm họ, khiến cho các vương hầu, các chủ điền trang, thái ấp tự mình tăng thêm số gia binh. Còn đám nông nô, nông phu cũng phải được ân huệ gì đối với cha mẹ, vợ con họ. Điều quan yếu hơn nữa là binh sĩ phải ra công luyện rèn tinh thông võ nghệ. Lại phải có lòng kiêu dũng nữa, thì lâm trận mới thủ thắng được. Cho nên việc dụng binh, cần tinh chứ không cần nhiều.

Với vẻ băn khoăn, Nhân tôn nói:

- Quả như lời Quốc phụ, việc binh tốn kém lắm. Con chỉ ngại nhọc sức dân. Xin thượng hoàng cho ý chỉ, rồi con sẽ quyết.

Nhân tôn vừa nói tới đó thì có người ào vào. Với gương mặt tươi cười, đôi mắt sáng như sao. Người ấy quỳ trước thềm điện, giọng nói oang oang:

- Kính lạy thượng hoàng! Kính lạy quan gia! Kính chào Vương gia. Thần xin được diện kiến.

Nghe tiếng nói, mọi người đã biết là ai rồi. Nhân tôn vội chạy ra thềm, nâng người đó dậy và nói:

- Sư phụ, đây là gia đường. Sao sư phụ quá thủ lễ với cha con cháu làm vậy.

Thánh tôn lật đật tới nắm tay Trần Quốc Trung nói:

- Sư huynh về triều lâu chưa?

Hưng Đạo vương cũng đứng dậy vái:

- Vương huynh vẫn bình an chứ?

- Đa tạ, Trung này có bao giờ đau yếu gì đâu. Trần Quốc Trung vừa nói vừa cười tíu tít.

( Trần Quốc Trung, tức Trần Tung, tức Tuệ Trung thượng sĩ Hưng Ninh vương. Ông là con Trần Liễu, là anh ruột Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thành Thiên Cẩm hoàng thái hậu - vợ thượng hoàng Trần Thánh tôn và là bác Trần Nhân tôn. Vì ông am hiểu sâu sắc đạo Thiền, nên cha con Thánh tôn tôn ông là sư huynh và sư phụ. Còn thượng sĩ là pháp hiệu của Trần Tung. Theo Du già luận chú rằng: Không lợi mình, lợi người là Hạ sĩ. Có lợi mình mà không lợi người là Trung sĩ. Được cả hai thứ là Thượng sĩ.)

Hưng Đạo lại hỏi:

- Chẳng hay vương huynh ở Hồng Lộ hay ở Tịnh ấp về triều?

( Lộ Hồng, phần đất thuộc Hải Dương sau này. Nơi đây Quốc Trung được cử làm tướng trấn giữ. Tịnh ấp: tức ấp Tịnh Bang, nơi Tuệ Trung Thượng sĩ lui về vui cảnh điền viên và tu Thiền.)

Tuệ Trung cười phá lên:

- Giời ơi! Hốt-tất-liệt đánh đến đít rồi mà vương gia còn hỏi ta ở ấp Tịnh Bang mà tu Phật chăng? Ta ở Hồng Lộ về. Nhưng Trung này xin với hai vua và vương gia, "cứu khổ cứu nạn" xong, lại về Tịnh Bang ấp vui với đạo Thiền.

Cả bọn anh em bác cháu đều cười xòa.

Nhân tôn dâng Tuệ Trung một chén trà. Nhà vua hỏi:

- Thưa sư phụ, khi Thiền khi tục thế này bao giờ sư phụ mới thành Phật?

Tuệ Trung đỡ lấy chén nước, đáp:

- Sao lại không. Xuất nhập thế đều tại tâm cả. Ta dứt việc kinh sách để đi cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh - đồng bào của ta. Ta tham gia diệt trừ cái ác, tức thị tâm ta là tâm Phật rồi, lo gì thành hay không thành Phật? Vả lại ta tu để đạt tới cõi thiện, chứ ta có cầu làm Phật đâu.

Chuyện đang vui thì Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu ra vấn an hai anh. Bà hết nhìn Quốc Trung lại nhìn Quốc Tuấn. Thấy Quốc Tuấn ít tuổi hơn, nhưng râu tóc lại bạc hơn Quốc Trung, bà biết là ông đang quan hoài đến thế nước. Bà thương anh đến xót xa. Một lát, đám quan nội hầu dâng ngự thiện.

Vừa vào tiệc, Thánh tôn liền nói:

- Bữa tiệc nay vui quá. Chẳng mấy khi được tiếp hai vương huynh. Nhân có Thiên Cảm hoàng thái hậu đây, xin mời hai huynh và quan gia bỏ lễ vua tôi mà theo tình anh em thuần phác, cho vui vẻ thân mật.

- Vương thượng nói chí phải. Hoàng thái hậu đế theo.

- Vậy thì ta cứ cắt một người làm tửu lệnh. Bữa nay xin cứ vui cho thỏa thuê. Thánh tôn cởi mở hết lòng.

Quốc Tuấn nghiêm mặt nói:

- Tạm bỏ lễ vua tôi trong bữa tiệc vui vầy tình anh em tôn tộc, thần cho đó là một đặc ân của hoàng thượng. Nếu lại còn cử tửu lệnh nữa, thời thần không dám vâng theo.

( Tửu lệnh: Trong tiệc rượu vui chơi, thường cử một người cầm hiệu ra lệnh. Mọi người theo lệnh của người đó mà uống. Ai trái, phải phạt uống thêm rượu. Trong những cuộc vui chơi như thế này thường sa đà quá trớn, nên Quốc Tuấn không chấp nhận.)

Ai cũng biết Quốc Tuấn là người nghiêm chính, ông đã nói là làm, nên không ai bàn đến việc cử tửu lệnh nữa.

Bữa tiệc thật là vui. Bởi Thiên Cảm biết tính chồng, con và hai anh thích ăn những món gì, nên bà đích thân coi sóc việc nấu nướng, bà lại ngồi xế ra một góc nhìn mọi người ăn, và sai đám quan nội hầu, bưng bê những món nào mà các vương ưa dùng. Thấy chồng con và hai anh ăn uống ngon lành, trò chuyện vui vẻ, lòng bà như mở hội. Chợt nghĩ Tuệ Trung ăn  các thức ăn thịt cá chẳng kém gì Quốc Tuấn và Thánh tôn, Nhân tôn, bà liền hỏi:

- Anh Quốc Trung tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?

Tuệ Trung cười đáp:

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô có nghe các bậc cổ xưa nói: "Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?". Vả lại, nếu bằng sự ăn chay mà thành Phật, hóa ra loài thú ăn cỏ sớm thành Phật hơn loài người chăng?

( Văn Thù: là một trong 8 vị đại Bồ Tát, đệ tử của Phật Thích Ca: 1/ Văn Thù Sư lỵ. 2/ Quan Thế âm. 3/ Đắc Đại thế. 4/ Vô Tận y. 5/ Bảo Đàn hoa. 6/ Dược Vương. 7/ Dược Thượng. 8/ Di Lặc.

Giải thoát: Chữ nhà Phật có nghĩa là dứt bỏ được sự trói buộc của mọi sai lầm, phiền não, nhờ vậy sẽ được tự tại mà đạt tới cõi Niết Bàn.)

Thiên Cảm không nói thêm gì nữa. Nhưng Nhân tôn rất trọng thị lời đáp của Quốc Trung. Nhà vua cho rằng Thượng sĩ vừa phá một công án, quả thực đó mới là người tu đạo chân chính. Bởi việc tu đạo là cốt ở tu tâm, chứ đâu phải vì chỗ kiêng khem ấy mà thành đạo. Có nhẽ từ việc làm, nay lại nghe thêm lời nói của Quốc Trung mà Nhân tôn ngộ đạo chăng? Chắc vậy. Bởi trong suốt cuộc đời mình, nhà vua vẫn thường tôn Tuệ Trung là bậc sư phụ. Kíp đến khi lập Thiền phái Trúc Lâm, thời Nhân tôn cũng lấy việc tu tâm làm tôn chỉ.

Bữa ăn đang vui vẻ, đang từ chuyện đạo, Quốc Trung lại hỏi sang chuyện đời:

- Tôi nghe đại vương- Quốc Trung vừa nói vừa liếc nhìn Quốc Tuấn - đã bắt được lũ Trần Di Ái, và Quan gia đã lưu đầy y đi viễn châu?

- Dạ, đó là nhờ uy đức của quốc phụ. Nhân tôn khiêm ái đáp lời.

- Thế còn bọn Sài Thung thì sao? Chúng có bắt bẻ gì việc đại vương ta đánh tan đoàn quân hộ vệ lũ Di Ái?

- Bẩm bá phụ, chắc chắn là sẽ rầy rà với hắn đây. Hiện thời y còn bị chú Chiêu Minh kiềm chế trên đường đi bộ từ biên ải về. Nhưng mới sớm nay, chú Chiêu Minh cho chạy ngựa trạm về báo: "Sài Thung nhất quyết đòi đi ngựa từ bến đò sông Thiên Đức về kinh".

- Sao quan gia không nói cho ta hay từ sớm? Thượng hoàng nói.

- Trình phụ vương, tiếp sứ là việc nhỏ, con không muốn kinh động đến phụ vương, cùng quốc phụ và bá phụ. Dạ, tâu phụ vương, y đòi phải tiếp rước y với nghi lễ quốc vương. Và đích thân con phải ra bến Bồ Đề nghênh đón.

- Quân càn dỡ! - Hưng Đạo buông mấy tiếng, vừa hàm chứa sự khinh ghét lẫn bực tức - Vậy chớ quan gia đã làm gì để đáp lời y?

- Dạ con cho đón y đúng với nghi lễ bang giao của một nước có chủ quyền. Việc con cử chú Chiêu Minh đi đón y, là đã có sự nhún một bước. Vì rằng, chú Chiêu Minh là trong hàng tam công, còn y mới chỉ là tước hầu.

( Tam công: Thái sư, Thái phó, Thái bảo, đó là ba chức quan đầu triều.)

- Con xử thế là phải, Thánh tôn nói. Nhưng ta chắc Sài Thung không để chúng ta yên. Vì rằng, việc vương huynh bắt bọn Di Ái, lại đánh tan đạo quân của nó, tức thị là phá tan mưu chước của nó. Làm cho nó bẽ mặt với Hốt-tất-liệt. Lại bởi y là người Hán mà tước trật cao, thế nào cũng bị bọn người Mông Cổ khích bác kiềm chế.

Bỗng Tuệ Trung cười phá lên. Thánh tông nói:

- Sư huynh cười gì vậy?

- Quốc Trung này buồn cười vì cái bọn Hán gian, đứa nào cũng giống nhau. Từ cái thằng Tần Cối đến Trương Đình Trân, nay lại Sài Thung. Nó hạch sách ta để nịnh chủ nó hơn cả lũ chó săn. Liệu xem quan gia có nên tiếp rước nó, như tiên đế tiếp rước Trương Đình Trân năm Nhâm thân( 1272)?

( Tần Cối: Đại thần nhà Tống. Khi quân Kim xâm lược, y thuộc phái chủ hòa. Nên lập mưu giả mạo chiếu vua bắt Nhạc Phi đang kịch chiến với quân Kim sắp đến hồi chiến thắng phải bỏ mặt trận quay về rồi kết án xử tử.)

Mọi người cười ồ lên.

Số là năm ấy Trương Đình Trân đem chiếu của Hốt-tất-liệt đến Thăng Long. Thái tôn đã đứng nhận chiếu của vua Nguyên, chứ không chịu quỳ lạy. Tên Hán gian này buông lời hỗn xược:

- Nếu tâu việc này lên thiên tử. Mười vạn quân Vân Nam lập tức kéo sang, sẽ biến vương miếu thành gò hoang, vương đình thành cỏ mọc. Rồi y đòi Thái tôn phải tiếp y theo lễ của tước vương. Thái tôn cứng cỏi vặn lại:

- Chúng tôi tuy là nước bề tôi, nhưng thiên tử vẫn tôn trọng. Lạ thay, sứ giả của thiên tử phái đến đây lại thường là bọn vô lễ. Ông là quan Triều liệt, còn tôi là quốc vương, mà ông đòi lễ ngang tôi. Chẳng hay ông học sách nào? Phải chăng văn hiến lễ luật bên quí quốc là như vậy?

( Chức quan của Trương Đình Trân là Triều liệt đại phu).

Trương Đình Trân giận run người. Y đặt tay lên đốc kiếm. Trần Thái tôn đập án quát:

- Quân bay?

Lập tức đám võ sĩ trong đội quân hổ bôn đã phục sẵn sau bình phong liền ào ra, kiếm tuốt trần đứng vây chặt lấy Trương Đình Trân. Y bị lột khí giới rồi dẫn về nhà công quán giam lỏng. Y bị bỏ đói, bỏ khát. Mỗi khi Trương Đình Trân đòi uống nước, quân chỉ đem cho nước bẩn đục ngầu. Thấy vậy y không uống. Đòi uống nước giếng.

Đám quân hổ bôn canh phòng hắn trả lời:

- Tục nước chúng tôi, nếu đã không ưa nhau, thường bỏ thuốc độc vào giếng để giết người.

Khát quá không chịu được, Trương Đình Trân đành phải hạ mình khẩn khoản:

- Ta khát lắm rồi. Cứ cho ta uống nước giếng, chết cũng cam, chứ uống nước bẩn ta không chịu nổi.

Đám lính cười khúc khích, thủng thẳng đáp:

- Tại lời nói của ông xú uế quá, làm nhiễm bẩn nước chúng tôi đấy. Bây giờ tìm đâu ra nước sạch cho ông uống.

Cuộc trò chuyện đang vui, bỗng có tiếng vó ngựa dẫm lộp cộp phía ngoài, rồi Chiêu Minh vương Trần Quang Khải bước vào sụp lạy.

Nhân tôn vội chạy ra đỡ lấy Chiêu Minh vương mà rằng:

- Sao thúc phụ phải giữ lễ với cháu. Chẳng hay thúc phụ có được mạnh giỏi không?

Mọi người xúm quanh Quang Khải. Anh em chú cháu chưa kịp đôi hồi, Quang Khải ngửa mặt lên trời cười sằng sặc:

- Sài Thung giở chứng rồi!

- Y giở trò gì, em nói ta nghe. Thượng hoàng Thánh tông nắm lấy tay Quang Khải hỏi.

- Tâu vương huynh. Từ biên ải về đến bến đò Thiên Đức, em vẫn dẫn Sài Thung đi cáng. Bỗng hắn trở mặt đòi đi ngựa. Em cho kỵ sĩ mang biểu về triều như vương huynh đã rõ. Khi tới Thăng Long, em dẫn y vào nhà công quán, nhất định y không chịu vào, mà tế ngựa thẳng vào cửa Dương Minh, đòi vào đại điện gặp quan gia ngay. Quân thánh dực ngăn lại. Y lấy roi ngựa quất tóe máu đầu mấy tên lính. Nếu không có em ở đấy, thì đám quân thánh dực đã bắt trói y lại rồi. Em bèn dàn xếp để y đi kiệu qua cửa tò vò. Y nhất định không chịu. Y bảo: "Bây giờ có mở toang cửa, rước ta đi ngựa vào ta cũng không thèm nữa, mà phải bắc cầu vồng qua cửa Dương Minh lấy lối cho ta vào đại điện". Y còn hỗn xược đòi quan gia phải tiếp y với lễ của tước vương.

Trần Quang Khải nén giấu một hơi thở dài. Rồi tiếp:

- Nếu không nhún nhường vì thế nước, chắc là Quang Khải này dã cắt đầu Sài Thung về dâng các vương huynh và vương điệt rồi.

Thấy sự việc căng thẳng, Quốc Tuấn liền hỏi:

- Vậy thời Sài Thung hiện đang ở đâu, xin Chiêu Minh tướng quân cho biết.

- Ô trời? - Quang Khải kêu lên rồi lắc đầu - Thấy sứ trời càn dỡ quá, không chịu nổi, tiểu tướng liền bỏ đấy, nhưng đã ngầm sai đám gia tướng áp sát y về nhà công quán. Để đến chiều tối, y thật đói, xem y có dịu bớt hung hăng, rồi Quang Khải lại xin thù tiếp sứ trời.

Quốc Tuấn trầm mặc:

- Quan hệ hai nước lúc này mỏng manh như một sợi dây Tơ. Xin thượng hoàng cùng quan gia và thái sư liệu bề khu xử cho tế vi. Phải nén lòng. Dù có phải dùng tới mạt kế như Hàn Tín, Câu Tiễn để tránh cho quốc gia khỏi rơi vào nạn binh hỏa vẫn còn hơn. Can qua lúc này là thất lợi cho ta nhiều lắm.

( Hàn Tín, đại tướng nhà Hán. Trong cuộc Hán – Sở tranh hùng, ông đã đánh tan Hạng Vũ thâu tóm toàn thiên hạ cho Lưu Bang. Khi chưa thành đạt, ở kẻ chợ có tên hàng thịt coi thường kẻ sĩ gây sự, bắt Hàn Tín phải chui qua háng. Hàn Tín nhẫn nhục luồn háng y cho qua chuyện. Nhưng khi hiển đạt, ông không tìm cách trả thù tên hàng thịt, mà tìm bà Phiếu Mẫu khi ông cơ nhỡ đã cho lưng bát cơm nguội. Thấy nói ông đã biếu bà cả ngàn nén vàng. Nên mới có câu: "Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn ngàn vàng".

Câu Tiễn làm vua nước Việt bị Phù Sai là vua Ngô đánh chiếm cả thành trì và bắt Câu Tiễn về Ngô hầu hạ. Câu Tiễn tỏ ra qui phục trung thành tới nước Phù Sai ốm, Câu Tiễn nếm phân Phù Sai, để đoán bệnh. Quả nhiên, Phù Sai tin mà tha Câu Tiễn. Sau Câu Tiễn đánh phục thù làm cỏ kinh thành nước Ngô và giết Phù Sai.)

Thấy một đại trượng phu, một hổ tướng kiêm thông văn võ như Quốc Tuấn, mà phải khuyên mọi người nhường nhún như vậy, đủ biết Quốc Tuấn phải nén lòng đến mức nào. Và cũng cho thấy, bên ta chưa đủ lực, chưa sẵn sàng nghênh chiến được.

- Dù sao vẫn phải giữ gìn quốc thể, cháu là quốc chủ, không thể đến công quán vỗ về Sài Thung được. Lại phải phiền chú Chiêu Minh đi cho chuyến nữa. Nhân tôn nói với tất cả sự dằn lòng. Thật quá sức chịu đựng đối với một đấng quân vương mới ngoài hai chục tuổi.