Theo ý tôi thì thời điểm thuận tiện để thi hành nhiệm vụ của mình. Quả thật là tôi không hiểu được chính xác ý nghĩa, nhưng tôi tự hào rằng câu trả lời của Laurence, sau đó tôi đã khéo léo gặng hỏi anh ta, đã cho phép tôi nhanh chóng nhìn thấy rõ sự việc.
- Tôi đang tìm anh đây - tôi hờ hững nói.
- Thật ư?
- Vâng. Tôi chuyển lời của Poirot cho anh đây.
- À!
- Ông ta có dặn tôi đợi gặp riêng anh - tôi nói, vừa hạ thấp giọng, vừa nhìn anh ta dò xét.
- Sao?
Gương mặt u buồn của Laurence không thay đổi. Anh có nghi ngờ gì những điều tôi sắp nói với anh không chứ?
- Này nhé…
Tôi lại hạ thấp giọng hơn nữa.
- Hãy tìm ra chiếc tách cà-phê bị mất và anh có thể yên tâm.
- Ông ta muốn nói gì mới được chứ?
Laurence nhìn tôi với sự kinh ngạc không có gì là giả tạo cả.
- Anh không biết ư?
- Không hề. Còn anh?
Tôi buộc phải thừa nhận rằng mình cũng không biết nữa.
- Chiếc tách cà-phê nào bị mất vậy?
- Tôi không biết.
- Có lẽ ông ta nên hỏi Dorcas hay một trong những người giúp việc, nếu như ông ta muốn biết điều gì về những chiếc tách. Tôi không hề biết gì về vấn đề đó cả, ngoại trừ việc chúng tôi có những chiếc tách không bao giờ được dùng đến, và đó là những của báu tuyệt vời. Loại sứ Worcester xưa ấy mà. Anh có biết rành về những thứ đó không, Hastings?
- Không.
- Thế thì anh đã bỏ lở mất một cơ hội bằng vàng đấy. Một món thật hoàn hảo bằng sứ cổ, thật thú vị khi cầm trong tay, hoặc chỉ nhìn thôi.
- Thế nào, tôi phải trả lời với Poirot sao đây?
- Rằng tôi rất muốn hiểu ông ta nói gì. Tôi hoàn toàn mù tịt.
- Được lắm.
Tôi định quay vào nhà thì anh bỗng gọi giật tôi lại.
- Này, những lời cuối như thế nào vậy? Anh có thể lập lại cho tôi nghe không?
- “Hãy tìm ra chiếc tách cà-phê bị mất và anh có thể yên tâm”. Anh có chắc không hiểu anh ta muốn nói gì không? - Tôi trịnh trọng hỏi.
- Vâng - anh hỏi- Tôi rất tiếc nhưng tôi không biết.
Tiếng kẻng vang lên, báo hiệu bữa ăn, và chúng tôi cùng quay vào nhà. John đã mời Poirot ở lại ăn trưa và chúng tôi gặp ông bên bàn ăn.
Do đã mặc nhiên đồng ý với nhau, chúng tôi tránh không nói đến bi kịch vừa rồi. Chúng tôi bàn luận về chiến tranh và những đề tài tương tự. Nhưng khi bánh quy và phó mát được dọn ra và Dorcas đã ra khỏi phòng, Poirot bỗng quay sang bà Cavendish.
- Xin lỗi vì đã gợi lại cho bà những kỷ niệm đau buồn, thưa bà, nhưng tôi có một ý nghĩ nhỏ (những ý nghĩ nhỏ của Poirot đã trở nên những châm ngôn) và tôi muốn hỏi bà một đôi điều.
- Hỏi tôi ư? Nhưng được thôi.
- Bà tử tế quá, thưa bà. Tôi muốn hỏi bà điều này đây: bà đã nói rằng cánh cửa ăn thông từ phòng bà Inglethorp sang phòng cô Cynthia được cài then, phải không?
- Vâng.
Trông bà ta có vẻ khó xử. Poirot tiếp:
- Tôi muốn nói bà có chắc chắn rằng cánh cửa đó được cài then chứ không phải chỉ được khóa lại thôi không?
- Ồ! Tôi hiểu ông muốn nói gì rồi. Điều đó thì tôi không thể khẳng định được. Tôi nói nó được cài then là muốn nói nó bị khóa, tôi không thể mở ra được, nhưng tôi cho rằng người ta đã nhận thấy tất cả các cánh cửa đều đóng từ bên trong.
- Tuy nhiên, đối với bà thì cánh cửa có thể được khóa bằng chìa khóa chứ?
-Ồ! Vâng!...
- Thưa bà, bà không nhận thấy cánh cửa đó có bị khóa hay không, khi bà bước vào phòng bà Inglethorp sao?
- Tôi cho rằng cửa khóa.
- Nhưng bà không thử xem lại sao ư?
- Không. Tôi… tôi không để ý.
Laurence bỗng xen vào:
- Nhưng tôi thì tôi vô tình nhận thấy nó được cài then.
- À! Thế thì quá rõ rồi - Poirot tiu nghỉu nói.
Tôi không thể không lấy làm mừng là một trong những “ý nghĩ nhỏ” của Poirot lần này đã không đưa đến đâu cả.
- Anh bực mình, phải không? - Ông lo lắng hỏi tôi trong lúc chúng tôi băng qua khuôn viên.
- Không đâu! - Tôi bướng bỉnh nói.
- Càng tốt. Tôi nhẹ bớt được một gánh nặng.
Điều đó không hẳn đúng như tôi mong muốn. Tôi hy vọng ông sẽ nhận thấy thái độ lạnh nhạt của tôi. Tuy vậy, sự cuồng nhiệt trong lời nói của ông làm dịu bớt cơn giận của tôi. Tôi hết lạnh nhạt ngay.
- Tôi đã chuyển lời của ông cho Laurence.
- Và anh ta nói sao? Anh ta có lấy làm ngạc nhiên không?
- Có. Tôi tin rằng anh ta chẳng hiểu ông muốn nói gì cả.
Tôi mong đợi thấy Poirot thất vọng. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông bảo rằng điều đó đúng như ông đã nghĩ và ông rất lấy làm hài lòng. Tự ái không cho phép tôi hỏi thêm.
Suy nghĩ của Poirot chuyển hướng đi.
- Tại sao cô Cynthia lại không ăn trưa với chúng ta nhỉ?
- Cô ta đã quay lại bệnh viện. Hôm nay cô ta trở lại với công việc của mình.
- À! Đó là một cô bé rất năng động. Lại còn xinh đẹp nữa. Trông cô ta giống y như những bức tranh tôi đã được thấy bên Ý. Tôi rất muốn đến thăm bịnh xá của cô ấy. Anh có tin rằng cô ta sẽ dẫn tôi đi xem không?
- Tôi tin chắc là cô ta sẽ lấy làm vui sướng. Thật là lý thú.
- Cô ấy đi làm mỗi ngày chứ?
- Cô ta được nghỉ ngày thứ tư, còn thứ bảy thì cô ta về nhà ăn trưa. Đó là những ngày nghỉ duy nhất của cô ấy.
- Tôi sẽ nhớ lấy. Phụ nữ ngày nay có thể làm những chuyện lớn, và cô Cynthia là một người thông minh. À! Phải rồi! Cô ta còn có óc phán đoán tốt nữa.
- Phải, tôi cho rằng cô ta đã trải qua một kỳ thi khá khó đấy.
- Chắc vậy. Dù sao thì cô ta cũng có tinh thần trách nhiệm cao. Bởi vì tôi đoán ở đó người ta cất giữ những loại độc dược mạnh.
- Phải. Cô ta đã chỉ cho chúng tôi xem nữa. Chúng được cất kỹ trong một chiếc tủ nhỏ. Tôi cho rằng người ta đòi hỏi những cô y tá sự thận trọng hết mức. Họ luôn luôn khóa trái cửa trước khi rời phòng.
- Thật sao? Thế chiếc tủ có để gần cửa sổ không?
- Không. Ở đối diện. Tại sao?
Poirot nhún vai:
- Chả sao cả! Tôi tự hỏi vậy thôi. Anh có vào nhà không?
Chúng tôi đã về đến nhà ông.
- Không. Tôi cho rằng tôi sẽ đi vòng qua rừng để về.
Những khu rừng bao quanh Styles rất đẹp. Sau cuộc đi dạo trong khuôn viên trống trải, thì thật là thú vị khi được la cà trong những khoảng rừng thưa tươi mát. Gần như là chẳng có một chút gió nào cả và tiếng chim ríu rít dường như yếu dịu hẳn đi. Tôi bước đi chậm rãi và đến ngồi dưới một gốc cây dẻ tuyệt đẹp. Tôi nghĩ đến nhân loại bằng sự ân cần và lòng vị tha. Tôi còn tha thứ cho Poirot về cách ăn nói quanh co và lố bịch của ông. Quả thật là tôi cảm thấy thanh thản đối với cả thế giới. Rồi tôi ngáp dài.
Tôi nghĩ đến vụ giết người, dường như thật là xa xôi…
Tôi lại ngáp nữa…
Có lẽ vụ giết người không hề xảy ra. Đó chỉ là cơn ác mộng thôi, còn sự thật là Laurence đã đánh gục Alfred Inglethorp với chiếc gậy dùng để chơi đáng gôn. Nhưng John thật là vô lý khi làm to chuyện lên và vừa chạy lung tung vừa hét lên: “Tôi đã nói rằng tôi không chịu đâu”.
Tôi bật tỉnh dậy.
Và tôi ý thức được mình ở trong một tình thế khá bối rối. Bởi vì, cách tôi chừng mười bước, John và Mary Cavendish đang đứng đối diện với nhau, họ đang cãi nhau.
Và cũng rõ ràng là họ không biết đến sự có mặt của tôi, bởi vì, trước khi tôi kịp nhúc nhích thì John đã lặp lại những lời nói vừa theo đuổi tôi trong giấc mơ:
- Tôi đã nói, Mary ạ, tôi sẽ không chịu đâu.
Giọng của Mary vang lên, bình tĩnh và trong trẻo:
- Anh có quyền gì mà phê bình hạnh kiểm của tôi chứ?
- Em sẽ làm trò cười cho cả làng. Mẹ chỉ vừa mới được chôn cất hôm thứ bảy thôi, thế mà em đã xuất hiện cùng với tên đàn ông đó.
- Ồ! (bà nhún vai). Nếu như anh chỉ lo ngại vì những chuyện ngồi lê đôi mách trong làng thôi.
- Nhưng không phải chỉ có thế thôi đâu. Anh chán ngấy khi thấy tên đàn ông đó quanh quẩn bên em. Hơn nữa, đó là một tên Do Thái lai Ba Lan.
- Một giọt máu Do Thái cũng chẳng phải là điều xấu. Nó sẽ làm nhẹ bớt sự ngu ngốc của người Anh bình thường - bà nhìn thẳng vào mắt anh và cãi lại.
Đôi mắt bà bừng bừng nhưng giọng bà lại lạnh như băng. Tôi không lấy làm ngạc nhiên khi thấy máu nóng bốc lên mặt John.
- Mary!
- Sao cơ?
Giọng bà vẫn không đổi.
Lời van xin tắt ngắm trong cổ họng của John.
- Tôi có phải hiểu rằng cô sẽ tiếp tục gặp Bauerstein, ngược lại với ý muốn cấp thiết của tôi không?
- Nếu như tôi thích.
- Cô thách thức tôi ư?
- Không, nhưng tôi cấm anh không được chê trách hành động của tôi. Anh cũng chẳng có bạn gái mà tôi có thể lấy thế làm bực bội đấy sao?
John lùi lại một bước và gương mặt anh lần lần bớt đỏ.
- Em muốn nói gì vậy? - Anh hỏi bằng giọng thiếu tự tin.
- Anh cũng thấy rằng anh không có quyền chỉ bảo tôi trong việc chọn bạn, phải không nào?
John ném cho bà một cái nhìn van lơn và gương mặt anh lộ vẻ buồn rầu.
- Không có quyền ư? Anh không có quyền thật sao, Mary? - Anh hỏi.
Anh đưa tay ra.
- Mary?...
Một lúc, tôi ngỡ bà sẽ vui lòng. Gương mặt bà dịu hẳng lại nhưng bà bỗng quay phắt đi.
- Không có quyền gì cả!
Bà đã bước đi khi John nhào đến và nắm lấy cánh tay bà.
- Mary! - Giọng anh bây giờ rất điềm tĩnh - Em có phải lòng Bauerstein không?
Bà do dự, và bất ngờ, một vẻ lạ lùng thoáng qua mặt bà, không thể định nghĩa được nhưng lại đượm đầy nét trẻ trung muôn thuở. Một con nhân sư bên Ai Cập cũng sẽ mỉm cười như vậy.
Bà nhẹ nhàng thoát ra khỏi vòng tay của chồng và nói với lại.
- Có thể.
Rồi bà điềm nhiên bước ra khỏi khu rừng thưa, để John lại đó, sững sờ.
Tôi bước đến và cẩn thận làm kêu những cành cây khô dưới chân mình. John quay lại và rất may, anh cho là tôi chỉ vừa mới xuất hiện thôi.
- Xin chào! Hastings! Cậu đưa người đàn ông nhỏ bé đến tận nhà ư? Trông ông ta thật là buồn cười. Nhưng anh có cho rằng ông ta giỏi lắm không?
- Ông ta được xem như một trong những thám tử xuất sắc nhất của thời đại chúng ta đấy.
- Ồ! Thế thì tôi cho rằng ông ta phải ít nhiều có lý đấy. Nhưng ở đây có biết bao nhiêu thứ tồi tệ.
- Anh thấy thế ư?
- Vâng! Trước hết là câu chuyện khủng khiếp ấy. Những người của Scotland Yard đi ra đi vào như những con rối. Không làm sao biết được sẽ đụng đầu họ vào lúc nào. Rồi đến những dòng tít giật gân trên các báo nữa. Quỷ tha ma bắt những tên nhà báo đi. Cậu có biết là cả một đám đông dày đặc sáng nay đã đứng nhìn qua hàng rào khuôn viên không đấy? Styles đã trở thành một thứ chi nhánh của Viện Bảo Tàng Khủng khiếp (nơi trưng bày tượng bằng sáp của những tên giết người lừng danh thế giới). Dù sao thì cũng hơi quá đáng đấy.
- Hãy bình tĩnh, John ạ - tôi nhẹ nhàng bảo - Điều đó sẽ không thể kéo dài lâu được đâu.
- Nó có thể kéo dài đủ lâu để không một ai trong chúng ta còn có thể ngẩng đầu lên được nữa.
- Không! Không! Chuyện này đã khiến anh phát điên lên.
- Quả là có thể điên đầu khi mà người ta cảm thấy suốt ngày bị săn lùng bởi những tên phóng viên khả ố và mỗi bước đều bị điểm mặt bởi những tên ngu ngốc, miệng cứ há hốc ra. Nhưng còn tệ hại hơn thế nữa kìa.
- Tệ hại hơn ư?
John hạ thấp giọng xuống:
- Ai đã giết người hả? Hastings? Quả là một cơn ác mộng đối với tôi. Nhiều lúc, tôi không thể không nghĩ rằng cái chết của mẹ tôi có thể là một tai nạn. Bởi vì, bởi vì… ai có thể giết bà ấy mới được chứ? Bây giờ, khi Inglethorp đã vô can thì không còn ai khác nữa… Không ai, ngoại trừ một người trong số chúng tôi…
Phải, đó quả là một cơn ác mộng đủ để làm khiếp vía bất cứ ai. Một người trong số chúng ta… Phải, có lẽ đúng như thế, trừ khi…
Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi. Tôi nhanh chóng xem xét. Dường như nó khiến cho mọi việc sáng tỏ hẳn ra: những thái độ bí mật của Poirot, những lời ám chỉ của ông ta, tất cả những cái đó hoàn toàn phù hợp. Tôi thật ngu ngốc vì đã không nghĩ đến khả năng đó sớm hơn, khả năng đã đem lại cho tất cả sự nhẹ nhõm biết mấy.
- John - tôi nói - không thể là một người trong số chúng ta được. Làm sao có thể như thế được chứ?
- Tôi biết… nhưng còn ai vào đây nữa?
- Anh không đoán được sao?
- Không.
Tôi thận trọng liếc nhìn quanh mình và hạ thấp giọng:
- Bác sĩ Bauerstein! - Tôi khẽ nói.
- Không thể được.
- Được chứ.
- Nhưng hắn có lợi lộc gì trong cái chết của mẹ tôi chứ?
- Điều đó thì tôi không thấy - tôi thú nhận - Nhưng tôi có thể nói với anh điều này: Poirot cũng đồng ý kiến với tôi.
- Poirot ư? Thật không? Làm sao cậu biết được?
Tôi kể cho anh nghe sự nóng nảy của Poirot khi biết rằng Bauerstein đã có mặt ở Styles vào tối hôm mẹ anh mất, và tiếp:
- Ông ta đã lập đi lập lại hai lần: “Điều đó đã làm thay đổi tất cả”. Và tôi đã suy nghĩ. Anh có biết rằng Inglethorp khai đã đặt tách cà-phê trong tiền sảnh không? Đó, chính vào lúc đó Bauerstein đã đến. Trong khi Inglethorp đưa ông ta đi ngang tiền sảnh, có thể nào ông bác sĩ đã bỏ cái gì đó vào cà-phê không?
- Việc đó thật liều lĩnh - John phản đối.
- Phải, nhưng nó có thể xảy ra.
- Và hơn nữa, làm sao hắn biết được đó là cà-phê của mẹ tôi. Không, anh bạn thân mến ạ, giả thiết của cậu có vẻ như không đứng vững rồi.
Nhưng tôi lại nhớ đến một sự kiện khác.
- Anh hoàn toàn có lý. Vụ án đó không được thực hiện như vậy đâu. Hãy nghe đây.
Tôi bèn kể cho anh nghe rằng Poirot đã cho phân tích lại chất ca-cao ở Tadminster.
- Nhưng Bauerstein đã làm việc ấy rồi kia mà.
- Phải, phải, đấy là điểm chính yếu. Tôi chỉ vừa nhận thấy như thế thôi. Anh không thấy sao? Bauerstein đã cho phân tích, đúng vậy. Nhưng nếu như hắn ta là tên giết người thì không có gì đơn giản cho hắn bằng cách đánh tráo mẩu ca-cao đã lấy được bằng ca-cao thường dùng và đem đi phân tích. Tất nhiên là các nhà hóa học đã không tìm thấy Strychnin trong đó. Và không ai nghĩ đến việc nghi ngờ Bauerstein hoặc lấy một mẩu khác, ngoại trừ Poirot ra - Tôi nói thêm, thừa nhận tài năng ông ta hơi muộn màng.
- Nhưng còn cái vị đắng mà ca-cao không thể che giấu được?...
- Về chuyện đó thì chúng ta chỉ có lời nói của Bauerstein thôi. Và còn có những khả năng khác nữa. Hắn thường được xem là một trong những bác sĩ chuyên khoa giỏi nhất về độc dược học trên thế giới…
- Một trong những gì trên thế giới? Xin cậu nhắc lại.
- Hắn ta giỏi về độc dược hơn bất lỳ người nào trên thế giới - tôi giải thích - Thế này nhé, tôi cho có lẽ hắn đã tìm được cách để làm mất vị của Strychnin đi. Hoặc giả đó không phải là Strychnin, mà là một thứ thuốc độc bí mật nào đó chưa ai nghe nói đến, và nó cũng gây ra những triệu chứng gần như tương tự.
- Phải, có lẽ là như vậy - John nhìn nhận - Nhưng này, làm sao mà hắn có thể đụng đến ca-cao được chứ? Hắn không ở dưới nhà sao?
- Có chứ, quả vậy - tôi tiếc rẻ nói.
Và rồi, bất ngờ, một khả năng ghế gớm thoáng qua óc tôi. Tôi mong rằng John sẽ không nghĩ đến. Tôi ném cho anh một cái liếc xéo. Anh đang nhíu mày, như áy náy ghê gớm lắm và tôi thở phào nhẹ nhõm. Bởi vì cái ý nghĩ khủng khiếp rằng bác sĩ Bauerstein có thể đã có một người đồng lõa bỗng hiện lên trong đầu tôi.
Tuy nhiên, điều đó không thể xảy ra được. Một phụ nữ đẹp như Mary Cavendish chắc chắn không thể là một tội phạm được. Thế nhưng, đã có những phụ nữ rất đẹp trở thành những kẻ đầu độc.
Và bất thình lình, tôi nhớ đến buổi nói chuyện đầu tiên, lúc dùng trà, hôm tôi mới đến, và nhớ đến ánh chớp đã lóe lên trong mắt Mary Cavendish khi bà tuyên bố rằng thuốc độc chính là vũ khí của phụ nữ. Vào buổi tối hôm xảy ra án mạng, trông bà nóng nảy làm sao. Bà Inglethorp có vô tình khám phá ra sự thân thiện giữa bà ấy và Bauerstein và có đe dọa sẽ báo cho chồng bà ấy không? Có phải vì muốn ngăn cản lời tố cáo ấy mà vụ giết người đã xảy ra không?
Sau đó tôi nhớ đến cuộc nói chuyện đầy ẩn ý giữa Poirot và cô Horward. Đó có phải là những gì họ muốn nói không? Đó có phải là khả năng “kinh khủng” mà Evelyn đã cố gắng để đừng tin vào không?
Tất cả đều mạch lạc.
Sẽ không có gì là đáng ngạc nhiên khi cô Howard đưa ra đề nghị giữ im lặng về chuyện đó cả. Bây giờ thì tôi đã hiểu câu nói của cô ta rồi: “Chính Emily…” Và trong thâm tâm tôi cũng đồng ý với cô ta. Bà Inglethorp chắc chắn sẽ rùng mình khi nghĩ rằng sự nhục nhã đó sẽ làm ô uế tiếng tăm của dòng họ Cavendish.
- Còn một điều nữa - John bỗng nói (và giọng nói của anh làm tôi gật nẩy mình) - Một điều khiến tôi nghi ngờ sự chính xác của những giả thiết của cậu.
- Đó là điều gì? - Tôi hỏi, quá sung sướng vì anh không quay lại vấn đề bằng cách nào thuốc độc đã được bỏ vào ca-cao nữa.
- Sự kiện Bauerstein đã đòi cho khám nghiệm tử thi. Chả có gì bắt buộc hắn phải làm như thế cả. Cái ông Wilkins nhỏ bé ấy đã sẵn sáng xác nhận rằng cái chết là do một cơn đau tim kia mà.
- Phải - tôi do dự đáp - Nhưng chúng ta không biết. Có thể rốt cuộc hắn cho rằng làm như thế là thận trọng hơn. Ai đó sau này có thể sẽ nói ra nói vào và viện công tố sẽ ra lệnh khai quật tử thi. Trong trường hợp đó, hắn sẽ ở trong tình thế rất rắc rối, bởi vì không ai có thể chấp nhận một người lẫy lừng như hắn lại có thể sai lầm đến mức kết luận cái chết là do bệnh tim.
- Vâng, điều đó thì hợp lý đấy - John thừa nhận - Tuy nhiên, tôi chẳng thể nào thấy được hắn ta đã hành động vì động cơ nào cả.
Tôi lại lo ngại:
- Nhưng - tôi nói - có thể là tôi sai lầm hoàn toàn, và đừng quên là tôi chỉ nói riêng với anh thôi đấy.
- Ồ! Khỏi phải nói!
Vừa bàn luận, chúng tôi vừa bước đi và bây giờ thì chúng tôi đang vượt qua cửa rào dẫn đến khu vườn. Những giọng nói vang lên thật gần, bởi vì bữa trà đã được dọn ra dưới gốc cây sung, như hôm tôi mới đến.
Cynthia từ bệnh viện đã về. Tôi kéo ghế ngồi bên cô ta và nói đến ý muốn đến thăm bệnh xá của Poirot.
- Được thôi. Tôi sẽ vui thích mà chỉ cho ông ta xem. Hãy bảo ông ấy đến dùng trà vào một hôm nào đấy. Tôi sẽ thu xếp với ông ta. Đó là một người đàn ông khả ái. Nhưng trông ông ta ngộ nghĩnh thật đấy. Ông xem, hôm trước ông ta đã bắt tôi tháo chiếc kim cài cà vạt của tôi ra và gắn lại, với lý do nó không được ngay ngắn.
Tôi bật cười:
- Quả là một căn bệnh của ông ta.
- Vâng, đúng không nào?
Chúng tôi im lặng một lúc, rồi, sau khi liếc nhìn về phía Mary Cavendish, Cynthia hạ thấp giọng nói với tôi:
- Ông Hastings này.
- Vâng.
- Sau bữa trà tôi muốn nói chuyện với ông.
Cái liếc nhìn của cô dành cho Mary khiến tôi phải suy nghĩ. Tôi hiểu ra giữa hai người phụ nữ này không mấy có cảm tình và, lần đầu tiên, tôi nghĩ đến tương lai của cô thiếu nữ. Bà Inglethorp đã không thu xếp gì về phần của cô ta cả, nhưng tôi nghĩ rằng John và Mary sẽ nài ép cô ở lại với họ, ít ra là đến cuối cuộc chiến. Bởi vì tôi biết John có nhiều cảm tình đối với cô ta và sẽ tiếc nuối nếu như cô ta bỏ đi.
Đến đây thì John đã vào nhà, bỗng quay trở ra. Gương mặt phúc hậu của anh méo xệch vì giận dữ.
- Quỷ tha ma bắt tất cả những viên thám tử đi! Tôi không hiểu họ tìm gì nữa. Họ lục lọi tất cả các phòng trong nhà và xáo tung lên hết. Hơi quá đáng đấy. Có lẽ họ đã lợi dụng lúc chúng ta ra ngoài hết. Tôi sẽ nói cho cái tên Japp ấy biết tôi nghĩ gì, lần sau mà tôi gặp hắn ta.
- Đồ tọc mạch - Cô Howard làu bàu.
Laurence phản đối rằng họ buộc lòng phải làm bộ như đang xúc tiến công việc.
Mary Cavendish không nói gì cả.
- Sao? - Tôi hỏi cô ta ngay khi bức màn cây lá đã che khuất chúng tôi khỏi những cặp mắt tò mò.
Cynthia vừa thở dài vừa ngồi xuống đất. Cô tháo mũ ra, và mặt trời, xuyên qua cành lá, biến mái tóc hung của cô thành một mảng vàng óng ánh.
- Ông Hastings ạ, ông luôn luôn rất tốt bụng và hiểu biết biết bao.
Lúc đó, trông Cynthia quả là đáng yêu. Đáng yêu hơn Mary, người không bao giờ nói những câu đại loại như thế.
- Nào! - Tôi ân cần nói khi thấy cô ta do dự.
- Tôi muốn hỏi ý kiến ông. Tôi sẽ ra sao đây?
- Ra sao ư?
- Vâng. Ông hiểu không, dì Emily luôn luôn bảo rằng tương lai của tôi sẽ được đảm bảo. Tôi đoán bà ấy đã quên, hoặc có thể bà ta không bao giờ nghĩ rằng mình sắp chết… Dù sao thì bà ấy cũng đã không chuẩn bị gì cho tôi cả. Và tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Ông có nghĩ rằng tôi nên rời bỏ Styles ngay không?
- Trời ơi! Không! Tôi tin chắc họ không muốn rời xa cô đâu.
Cynthia do dự một lát, đưa tay ngắt những cọng cỏ, rồi cô bảo:
- Bà Cavendish muốn như vậy. Bà ta ghét tôi.
- Bà ấy mà ghét cô sao? - Tôi kêu lên ngạc nhiên.
- Vâng. Tôi không biết tại sao, nhưng bà ta không thể chịu nổi tôi. Vả lại, cả anh ấy nữa cũng vậy.
- Về điểm này thì cô lầm rồi - tôi sốt sắng nói - Trái lại, John rất mến cô.
- Ồ! John thì đã đành rồi. Tôi muốn nói đến Laurence cơ. Không phải là tôi màng đến chuyện Laurence có ghét tôi hay không đâu. Nhưng dù sao thì cũng khá buồn khi cảm thấy không ai ưa mình cả.
- Có chứ, có người thương cô đấy chứ, Cynthia đáng yêu ạ - tôi thành thật nói - Tôi tin chắc rằng cô lầm đấy. Này nhé, có John và cô Howard.
Cynthia gật đầu một cách rầu rĩ.
- Vâng, tôi cho rằng John thương tôi lắm, và cả Evie nữa, bất chấp sự cộc cằn của cô ta, cô ta sẽ không làm hại đến cả con ruồi. Nhưng Laurence thì chả bao giờ nói chuyện với tôi, nếu như anh ta có thể tránh được việc đó, còn Mary thì chả mấy lịch sự đối với tôi. Bà ấy muốn cho Evie ở lại đây, bà ta lại còn nài nỉ cô ấy ở lại nữa, nhưng bà ấy không muốn thấy mặt tôi, mà tôi không biết phải đi đâu.
Cô bé đáng thương bỗng òa khóc.
Tôi không biết cái gì đã xui khiến tôi nữa. Có lẽ tôi đã nghe theo vẻ đẹp duyên dáng dưới vầng hào quang của ánh mặt trời, nghe theo sự nhẹ nhõm được gặp một người rõ ràng là không thể nào dính líu đến vụ án, hoặc nghe theo sự thương hại mơ hồ gây nên bởi nét trẻ trung và nỗi cô đơn của cô ấy. Biết đâu được. Song, tôi đã chồm về phía trước và, nắm lấy tay cô, tôi nói:
- Hãy kết hôn với tôi, Cynthia ạ.
Vô tình tôi đã tìm được cách tốt nhất để lam cho cô ta ngưng khóc. Cô nhổm dậy ngay, rút tay ra khỏi tay tôi và nói hơi sẵng:
- Này, đừng dại dột đến như thế.
Rất bực bội, tôi đáp:
- Tôi không dại đâu. Tôi chỉ xin cô cho tôi được vinh dự kết hôn với cô thôi.
Trước sự ngạc nhiên sâu sắc của tôi, cô phá ra cười và gọi tôi là “một người ngộ nghĩnh”.
- Đó là những gì dễ thương nhất ở ông. Nhưng ông thừa biết là ông chả muốn lấy tôi làm vợ chút nào.
- Có chứ… tôi…
- Không đâu! Thật ra thì ông chẳng muốn, và cả tôi cũng thế.
- Ồ! Thế thì ổn cả thôi - tôi trả lời cứng ngắc - Nhưng tôi không hiểu tại sao cô lại cười được. Chả có gì là khôi hài trong một lời cầu hôn cả.
- Chắc chắn là không rồi - Cynthia bảo - Lầu sau người ta có thể cho rằng ông nói thật đấy. Tạm biệt. Ông đã an ủi tôi được nhiều lắm.
Một bà lão ra tiếp tôi:
- Thưa bà - tôi lễ phép nói - Bác sĩ Bauerstein có nhà không?
Bà ta nhìn tôi chăm chăm.
- Ông không biết sao?
- Sao cơ?
- Về ông ta ấy mà?
- Thì sao nào?
- Ông ta ra đi rồi.
- Đi ư? Chết ư?
- Không. Cảnh sát đã đem ông ta đi.
- Cảnh sát đem đi! - Tôi kêu lên kinh ngạc - Bà muốn nói rằng ông ta bị bắt ư?
- Vâng, đúng vậy, và…
Tôi không đợi bà ta nói dứt câu, chạy ngay trở lên làng tìm Poirot.