- Việc này lại làm mệt đến anh rồi!
Đến nơi, lập tức thăng đường, ba ban nha thuộc đứng vào, rõ oai nơi xử án. Chỉ thấy một bà già, quỳ xuống đất miệng kêu to: “Xin lão gia cứu mệnh".
Lưu Dung thấy bà cụ khoảng ngoài sáu mươi, mặt đầy bối rối, nước mắt ròng ròng, mặc chiếc áo vải, đầu tóc rồi tung. Lưu Dung nhẹ nhàng bảo:
- Bà già kia, tên họ là gì? Bao nhiêu tuổi? Nhà ở đâu? Có oan uổng gì?
Bà già nói:
- Tiểu nhân họ Trương, lấy chồng là Chu Tùng, sinh được một con trai là Chu Thạch Đầu, thường làm thuê để sống, ngụ ở Tam Hương. Chồng tôi chết đã vài năm nay, chỉ một mình Thạch Đầu làm nuôi cả nhà. Thạch Đầu vốn hiếu thuận, đối xử với tôi rất chu đáo, mỗi lần làm thuê về, không quên mua thức gì đó cho tôi ăn. Hôm qua tận đêm không thấy về nhà, tôi không yên lòng, canh năm hôm nay, tôi đã mò dậy, đến chợ để tìm, bạn của nó bảo, nó đánh chết người, bị quan địa phương bắt về phủ rồi. Tôi tìm đến chỗ giam thì họ không cho vào thăm, do đó tôi mới đánh trống kêu oan. Tôi chỉ có một đứa con trai, cứ cung cách của nó, là người hiền lành ngay thẳng, quyết không có chuyện giết người, xin đại gia tin ở tôi, tha cho nó!
Lưu Dung hỏi nha thuộc:
- Chuyện này ra sao?
Nha thuộc thưa:
- Thưa đại nhân, chuyện như thế này, hai đứa con áp giải Chu Thạch Đầu về phòng giam, lúc cửa thành vừa mở, trời còn sớm, nên chưa kịp bẩm báo.
Lưu Dung vội nói:
- Thăng đường ngay.
Hai viên thuộc lại dẫn Chu Thạch Đầu vào, Chu Thạch Đầu bị trói bằng dây thừng to. Họ đến trước thềm liền quỳ cả xuống. Lưu Dung bảo hai viên thuộc lại:
- Cởi trói cho anh ta. Anh ta giết người như thế nào? Các ngươi nói cho tường tận.
Chu Thạch Đầu nhìn thấy mẹ, khóc to lên một tiếng, nói:
- Mẹ ơi, con oan quá!
Nha thuộc quát:
- Im ngay, không được làm ầm ĩ!
Chu Thạch Đầu cúi đầu.
Chỉ thấy tiếng viên thuộc lại nói:
- Tối qua, bọn con đi tuần đến cửa sau miếu Quan Đế ngoài cửa Tây, thấy Chu Thạch Đầu tất tả chạy vào trong miếu, có vẻ khả nghi, liền gọi lại, hỏi anh ta làm gì? Anh ta ú ớ đáp lại rồi chạy về nhà. Con thấy trên người anh ta có vết máu, giơ đèn lên soi thấy tay đầy máu, chúng con liền trói lại, tiến vào miểu tra soát, chỉ thấy ở gian sau Vương Tiểu Ca chết trên mặt đất, mặt đầy máu. Lại thấy chỗ ngủ của cô ấy rối tung cả lên, con cho là việc lấy của giết người nhưng khám trên người Chu Thạch Đầu không thấy có tiền, con chợt nhớ lại, Vuông Tiểu Ca hôm trước có đến chỗ con, vui vẻ khoe với con, cô ta dã tìm được việc làm. Có một người con gái của gia tướng rất tốt đã nhận cô ta làm người ở, vài hôm nữa thì đến nhận việc. Con nghĩ rằng bọn họ ăn uống say sưa, rồi ẩu đả làm chết người”.
Câu nói của viên thuộc hạ chưa dứt thì bà già họ Chu kêu rên:
- Nói gì thì cũng giữ lấy chút phúc đức chứ, con trai tôi xưa nay chưa bao giờ ngồi với con gái, các người...
Viên thuộc hạ cao giọng quát:
- Im mồm.
Lưu Dung nhìn Chu Thạch Đầu hỏi:
- Chu Thạch Đầu, ngươi bao nhiêu tuổi? Người có giết người hay không?
Chu Thạch Đầu đáp:
- Tiểu nhân hai mươi ba tuổi, lấy nghề làm thuê để sống, nuôi mẹ già, xưa nay chưa hề ẩu đả, đánh nhau với ai!
Lưu Dung lại hỏi:
- Thế thì người vào trong miếu làm gì.
Chu Thạch Đầu đáp:
- Trong miếu có đám đánh bạc, mỗi lần gặp ngày không ai thuê mướn, con cũng vào đánh, được một vài tiền, để mua cho mẹ con vài thứ có thể ăn được.
Lưu Dung bảo:
- Ngươi có lòng hiếu cũng thật tốt, nhưng nếu cuộc bạc không chiều lòng hiếu, không thắng thì sao?
Chu Thạch Đầu nói:
- Trong bàn có một cửa, tuy không thắng liền liền, nhưng đánh thì 10 lần cũng được tám.
- Nói ta nghe xem nào?
Chu Thạch Đầu thưa:
- Chỉ cần đừng tham, và đừng có đánh to, khi con vào, xem cửa nào may, liền theo đó mà đánh, nếu chưa nắm được nước bạc thì cứ xem nó đổ cửa đen, cửa đỏ ra sao rồi mới đặt tiền. Con cũng chẳng được nhiều, mỗi lần chỉ được một vài trăm tiền, được lưng lửng thì không đánh nữa, do đó nếu có thua cũng chẳng thua bao nhiêu...
Lưu Dung nói:
- Hôm qua người không kiếm được việc, đi đánh bạc phải không? ~
Chu Thạch Đầu thưa:
- Đúng như lão gia nói, hôm qua con chờ ở chợ đến tận tối, chẳng kiếm được việc gì, đành dắt lừa vào điếm đánh bạc định được gần tám trăm thì về nhà. Vào đến trong miếu, chẳng thấy ai, đến nhà Vuông Tiểu Ca gọi lên một tiếng, cũng chẳng thấy ai trả lời, tiểu nhân liền vào nhà tìm. Vào đến trong nhà có vật gì vướng vào chân, quay lưng dùng tay mà sờ, thì hóa ra một người. Tiểu nhân vội vã đánh lửa xem thì là Vương Tiểu Ca, mình đầy máu. Tiểu nhân cùng Vương Tiểu Ca, xa không oán, gần không thù, đánh cô ta làm gì! Xin đại nhân xem xét.
Lưu Dung hỏi:
- Không được khai gian nửa lời đấy nhé!
Chu Thạch Đầu thưa:
- Tiểu nhân đâu dám khai gian.
Lưu Dung gọi viên thư lại bảo Chu Thạch Đầu điểm chỉ vào tờ khẩu cung, rồi bảo nha thuộc:
- Đem Chu Thạch Đầu giam tạm ở phòng dưới, không cần hạ ngục.
Nha thuộc đem Chu Thạch Đầu đi. Lưu Dung bảo Chu Trương Thị:
- Bà bất tất phải lo lắng, bản quan sẽ xét rõ ai ngay ai gian. Khi nào ngay, gian chưa xét ra, bà hãy đừng về nhà, bà không có tiền cũng đừng lo, bản quan cấp cho năm lạng bạc, bà lánh tạm ra ngoài mà chờ tin tức.
Nói rồi bảo nha thuộc:
- Đem cho bà ta năm lạng bạc rồi đưa ra ngoài.
Lưu Dung bảo thuộc hạ lên đường, đến hiện trường khám tử thi, lại nghe thấy tiếng trống kêu oan đánh vang lên, Lưu Dung bèn bảo:
- Xem ai đánh trống đem lên trên nhà này!
Chỉ thấy một bà già tất tất tưởi tưởi tiến đến, quỳ trước nhà, miệng kêu cứu mệnh.
Lưu Dung nói:
- Bà già kia chớ sợ, họ tên là gì? Bao nhiêu tuổi? ở đâu? Có việc gì bẩm báo, từ từ mà nói, ta sẽ cứu xét.
Chỉ thấy bà già thưa:
- Tôi tên là Lưu Thục Mẫn, hiện năm mươi sáu tuổi, dưới gối chỉ có một đứa con sinh muộn, năm nay mười lăm tuổi, vẫn còn đang đi học nhà ở tại ngõ Dương Gia, cửa Đông. Nhà láng giềng của tôi có người đàn bà hạ lưu, suốt ngày chỉ ngắm vuốt, cùng một đám thanh niên hư hỏng, bất kể đẹp xấu đều là khách làng chơi của ả. Sau này có một người mới dọn đến, tên là Lý Cương, làm nghề đồ tể, trong nhà lúc nào cũng có một phản thịt lợn, lại giỏi đánh đấm, đánh bạt cả lũ thanh niên, độc chiếm Lưu Đường Thị. Lưu Đường Thị tuy sợ hắn, nhưng tính nết vốn dâm đãng, ả thấy con trai tôi trên đường đi học, liền tóm lại liếc mắt đưa tình. Con trai tôi sợ như sợ cọp, về nhà nói rõ cùng tôi, liền không dám đến trường, suốt ngày không ra khỏi nhà, tránh mặt Lưu Đường Thị. Chẳng dè, Lưu Đường Thị mò đến tận nhà, nhờ con trai tôi viết thư mắt cứ lia liếc hoài. Tôi nhịn không nổi, bảo cho ả mấy câu, tưởng là ả sẽ buồn mà thôi, dè đâu ả lại kích động gã gian phu Lý Cương đến tận nhà tôi, buông những lời tục tằn chửi bới, không sao lọt tai. Nó dọa rằng nếu như con trai tôi mà dan díu với con gian phụ thì nó sẽ đánh chết, đại nhân nghĩ mà xem, thế là kẻ làm giặc lại hò hét định hại người ta, đem chuyện con đàn bà xấu xa kia quyến rũ con tôi thành chuyện con trai tôi rủ rê. Nếu như con trai tôi cứ chịu nằm im thít tránh xa, con đàn bà kia không thỏa nguyện, ắt là lại xui thằng gian phu đến làm ầm ĩ đòi mạng. Tôi là đàn bà góa, cố giữ lấy một mụn con trai cho chồng cũng không nổi, còn mặt mũi nào ông thấy chồng tôi ở dưới đất. Cầu xin đại nhân chiếu phép nước mà cứu cho.
Nói đoạn cứ đập đầu hoài xuống đất.
Lưu Dung nói:
- Lưu Thục Mẫn, đứng dậy mà nói, không phải quỳ.
Bà hãy đem những lời khai rõ tình hình vừa rồi, viết thành một bản, bản quan sẽ có cách. Bà hãy về nhà, giữ con trai mình cho thật tốt. Bên ngoài bất luận có chuyện gì cũng không được hỏi han, cứ bưng tai bịt mắt, ta sẽ sai người đến bảo vệ mẹ con bà. Bây giờ hãy về nhà đã!
Lúc bấy giờ đã gần trưa, Lưu Dung mời Cao Tri phủ đến thưa lại mọi việc, hối thúc nha thuộc, quân lính ăn cơm gấp, xuất pháp đến miếu Quan Đế xem hiện trường, khám tử thi, chờ đám liêu thuộc ăn cơm, Lưu Dung cũng đi dùng bữa.
Trong nháy mắt, Lưu Dung và nha thuộc đến thẳng cửa Tây.
Cách cửa Tây không xa, là miếu Quan Đế, dựng ở hướng bắc, quay mặt về phía nam. Lưu Dung ngắm kỹ, xem ra có chỗ không ổn. Cửa trước có bốn gốc thông cao ngất, bóng che cả cửa rừng, ở bên cửa chính, có hai cửa ngách bên phải và bên trái. Khung cửa đều xây vòm đá, cánh cửa đều sơn thứ sơn dầu màu đỏ, trên mặt có gắn những thanh đồng óng ánh. Giữa thượng phương trên cao, treo một biển viết bốn chữ đại tự. Hộ quốc thiền lâm. Nhìn nhũng dòng lạc khoản in trên biển, Lưu Dung mới biết đây là chữ Vua viết. Đến trước cửa, có người báo cho lão hòa thượng, ông bèn đem theo hàng chục sư tăng ra nghênh đón, Lưu Dung vội đáp lễ.
Lão Hòa thượng mời Lưu Dung đến nhà phương trượng dùng trà. Lưu Dung nói:
- Xin trước cho xem xét hiện trường, khám nghiệm thi thể, sau đó sẽ xin đến để nghe sư chỉ giáo.
Lão hòa thượng đi trước dẫn đường, qua ba tầng thiền viện, qua chiếc sân thông đến cửa sau. Viện này chỉ có mấy phòng. Ba gian phòng phía tây là nơi thờ, phía đông có một phòng nhỏ, Vương Tiểu Ca ngụ ở đó. Đám tùy tùng theo Lưu Dung vào trong phòng, đám liêu thuộc đứng đợi ở sân chờ hầu hạ. Lưu Dung thấy Vương Tiểu Ca mắt ngửa lên trời nằm trên đất ở gian ngoài, mồm mũi toàn là máu, mắt có chút lồi ra, da mặt xanh mét, Lưu Dung bảo nha thuộc khám nghiệm, mình theo vào bên trong.
Trong nhà có một cái giường kê dựa vào tường, trên giường, chăn bị hất sang một bên, gối bị đẩy xuống đất, đểu bị người khác lật lên. Lưu Dung bỗng chú ý, trên chăn có in một vết tay máu. Lưu Dung vội dặn tùy tùng: “Đem cái chăn này về phủ”. Người tùy tùng vội cuốn lại đem đi. Lưu Dung nhìn lại bốn phía, không thấy điều gì khả nghi nữa mới từ trong đi ra.
Lúc ấy, nha thuộc khám nghiệm cũng vừa xong, ghi hết hình tích thi thể lại. Lưu Dung nhìn qua, đại lược ghi rằng người chết khi sống có giằng co, bị một kẻ có sức mạnh đấm vỡ óc, hộc máu mũi, máu mồm ra mà chết. Lưu Dung đưa mắt nhìn lão hòa thượng, mỉm cười bảo:
- Lão phương trượng, sao người lại cho bọn nhà bên vào miếu tụ họp đánh bạc? Người há chẳng biết "gian gần với giết người, cờ bạc gần với trộm cắp ư?".
Lão hòa thượng vội cúi mình đáp:
- A di đà Phật! Tội đấy ạ! Tội đấy ạ! Đại nhân cho tiểu tăng này nói cho rõ. Người chết là Vương Tiểu Ca tuy ở gian nhà nhỏ ấy, nhưng chúng tăng chùa chúng tôi không đến đó làm công việc nhà chùa, không dùng gian nhà kho ấy, chỉ để cho Vương Tiểu Ca mua đông bán tây đem về các thứ ăn uống hàng ngày. Cái chàng trai trẻ kia rất thực thà, dù đến không báo qua cho nhà chùa, người trong chùa đều tin anh ta. Vả lại tiểu tăng hàng ngày lo nhiều việc như chăm phật điện, các thí chủ đến đều lo tiếp đón chu đáo. Lại có nhũng thời gian qui định để làm công đức, từ sáng đến chiều, không rỗi rãi lúc nào. Lo việc chùa có vài ba nơi, làm xong các việc đèn nhang, đều về nhà cả, cửa sau chỉ có một mình Vương Tiểu Ca lo giữ, việc xấu đều xảy ra từ đó.
Vài đêm trước đây, tiểu tăng vừa tọa thiền xong, cảm thấy, mắt vẫn chưa chợp nổi, các đồ đệ đã đi ngủ cả, tiểu tăng đến sau sân chùa tìm mấy hạt muối, mới biết trong nhà Vương Tiểu Ca có người đánh bạc ăn tiền.
Lúc ấy tiểu tăng không dám làm họ kinh động, lấy muối đem về. Hôm sau, tiểu tăng không để ai biết, lại đến nhà Vương Tiểu Ca hỏi gã sự việc hôm trước, liền bảo:
- Phòng sư ở, tụ họp đánh bạc, tin mà truyền ra, thì uy tín nhà chùa mất hết, còn ai đến dâng hương nữa!
Vuông Tiểu Ca lúc ấy nói: “Xin đại hòa thượng cho con được giãi bầy, vì con trẻ người non dạ, nghĩ không được chu đáo, từ sau không để xảy ra việc này nữa, cuộc đánh bạc chiều qua là canh cuối cùng thôi. Con có thích gì thú cờ bạc ấy đâu, chẳng qua là bị người ép thôi. Nhân vì có một người quen biết lâu năm, giới thiệu cho con một người con gái nhà gia thế. Cô ấy rất ưng con, ngắm thử xong, bằng lòng cho con đến ở. Con lấy đâu ra tiền? Bèn nghĩ tìm một số người bạn thân xin giúp đỡ, mỗi người vài lạng bạc, để sắm vòng tay, mua vài bộ quần áo, bàn qua tính lại, vẫn không vay nổi tiền. Có đứa bạn mách kế: "Ở đây mỗi tháng thường có kẻ tụ tập, chi bằng mở canh bạc to, mọi người kéo đến đánh, sân sau chùa lại vắng, không ai biết đâu!”. Con muốn có tiền, liền nghe lời, nếu ai nghe lời cô ta mời, đều kéo đến đánh bạc, thì cũng kiếm được vài lạng bạc. Có người giục thêm, con lại càng liều làm. Chiều qua họ kéo đến, canh bạc ấy cũng có nhiều người dư tiền. Sau đêm ấy, thầy cho người đến xét hỏi, con đành giấu nói quanh nói quẩn.
Bần tăng hỏi cô ấy: vòng và quần áo con đã sắm chưa. Cô ấy nói: "Vòng con đã đánh rồi, còn năm lạng bạc để sắm quần áo". Cô ấy quay vào còn lấy cho bần tăng xem, thấy chiếc vòng là một thứ vàng pha, trên mặt có nhũng vân hoa sen, bần tăng hơi bận tâm, liền bảo: Hoa sen vốn là vật thanh tịnh chốn cửa Phật, sao lại khắc vào vòng tay con gái?
Vương Tiểu Ca phân trần: "Theo con nghĩ thì đây không phải là hoa sen mà chỉ là hoa súng thôi. Nhân vì con gái nhà gia tương kia tên là Hà Hoa, con sắm chiếc vòng này để biếu, bầy tỏ chút lòng thành".
Bởi cô ấy là người phàm trần, bần tăng cũng chẳng lưu ý nữa. Đó là tất cả sự việc đã xảy ra, bần tăng thuật lại để đại nhân lượng xét.
Lưu Dung đưa mắt cho một viên thư lại, bảo: -"Lão phương trượng nói gì, người ghi hết cả đấy chứ?”
Viên thư lại nói:
- Dạ, đã ghi rõ.
- Đưa cho lão phương trượng xem.
Lão hòa thượng xem từ đầu chí cuối một lượt, gật đầu bảo:
- Ghi rất đúng! Ghi rất đúng.
Viên thư lại theo thói quen bảo:
- Xin lão phương trượng áp chỉ.
Lão hòa thượng liền áp dấu tay vào. Lưu Dung đứng dậy cáo từ, nói với hòa thượng:
- Báo cho người nhà Vương Tiểu Ca biết, đem xác về chôn. Bản quan nhận định từ cô ấy, sẽ tìm ra hung thủ!
Liền đem nha lại rời miếu về phủ đường.
Lưu Dung về phủ, ngồi bên vườn hoa nhỏ, bảo nha thuộc đem vân tay của chu Thạch Đầu ra đối chiếu với vết tay in trên chiếc chăn đem về từ trong miếu, thì so với nhau to, nhỏ rất khác xa. Thế là đã rõ. Ông biết rõ là Chu Thạch Đầu không phải là hung thủ, mà là do nghi hoặc mà bắt giữ lại. Ông gọi Văn Thừa và Tưởng Kỳ đến đem vân tay của Chu Thạch Đầu và vết máu cho họ xem rồi bảo:
- Rất rõ ràng Chu Thạch Đầu không phải là hung thủ, hai người nên cải trang ra ngoài dò xét tìm được cho đúng kẻ giết nguời. Hạn cho các người ba ngày, phải hoàn thành sứ mệnh.
Hai người nghe dứt, vội vàng cải trang mà đi. Văn Thừa bảo Tưởng Kỳ:
- Này chú em, ta đi đằng nào nhỉ?
Tưởng Kỳ nói:
- Theo như bản án, ta hãy theo dõi bọn đánh bạc.
Bây giờ chúng ta hãy tìm Chu Thạch Đầu, hỏi anh ta xem đánh canh bạc ấy là nhũng đứa nào. Văn Thừa nghe có lý, liền đến chỗ Chu Thạch Đầu đang ở, Chu Thạch Đầu nói nhớ được vài đứa. Hai người cố ghi lòng, rời nha môn, lặng lẽ điều tra một lượt, chẳng thấy gì khả nghi, thế là ngày đầu đã trôi qua.
Đến ngày thứ hai, họ lại theo những kẻ đánh bạc nói đến hôm trước, đến dò xét, cũng không thu được kết quả.
Đến ngày thứ ba, hai người cau có, lại ra khỏi nha môn.
Tưởng Kỳ nói:
- Anh này, hôm nay là hết hạn đấy, không tìm thấy gì thì ăn nói làm sao đây?
Văn Thừa nói:
- Ta đi vào quán rượu, sống chết ra sao, thì hãy uống một trận đã đời cái đã!
Hai người vào trong quán, thấy quán có bốn bàn rượu. Vì chỗ hẹp nên rất gần nhau. Ở một bàn có hai người, một bàn khác cũng có hai người, một người mặc đồ màu lam, một người màu xanh ăn nói lỗ mỗ, không phải là người đúng mực.
Người mặc áo xanh nói:
- Anh đã nghe nói đến vòng đai hoa chưa! Cái đám con gái nói không biết thế nào mà tin. Nghe nói có đứa nào đấy vớ đi một thứ đồ ngọc, chẳng biết là đứa nào.
Người mặc áo lam nói:
- Cái cành hoa ngọc ấy là loại ngọc quý đấy. Suốt đêm hôm qua chúng nó thì thào bán bán, mua mua. Một miếng thịt cũng chẳng có. Thằng cha ấy cũng chẳng thiết mở lò mổ, trời sáng vẫn vùi đầu vào ngủ, ngủ đi ngủ lại cho đến mặt trời ngả về tây mới dậy ăn cơm, lại ra cửa đi luôn, có được vòng hà hoa, chỉ có một người thôi!
Hai người kia đến chủ hàng bưng ra hai vò rượu, mua một đĩa đồ nhắm, ôm đến bàn ngồi. Lúc ấy, nghe đứa mặc áo xanh nói:
- Đứa ấy là đứa nào đấy? Nói với cậu bao giờ thế?
- Cách đây vài ngày - Đứa mặc áo lam nói.
Đứa mặc áo lam còn khà khà, túm lấy vai đứa mặc áo xanh bảo:
- Thằng ngốc, tôi nói con bé hư đốn ấy mà các cậu không tin ư? Sáng sớm hôm qua tôi còn thấy cái thằng Lý Cương béo như con lợn ấy đến, con bé đón ở cửa, trên tay đeo cái vòng vàng, đẹp đến mê hồn. Đi, cậu không tin đi mà xem.
Nói đoạn hai đứa vội đi luôn.
Lại thấy hai đứa quay đầu, một đứa chĩa mồm vào nói với đứa kia:
- Cứ đợi đấy, sớm muộn rồi sẽ rõ thôi!
Văn Thừa đưa mắt cho Tưởng Kỳ, hai người ra khỏi quán rượu, thấy hai đứa kia đang đi đến một ngôi nhà trống. Hai người nấp ở phía sau theo dõi
Đến ngôi nhà trống, cách cửa hàng thịt lợn không xa, hai người kia dừng lại, huơ chân múa tay, không biết nói gì, dừng lại một lát lại đi. Văn Thừa và Tưởng Kỳ liền tiến vào cửa hàng thịt, chỉ thấy ngồi trên ghế có một người đàn bà, khá xinh đẹp, đang cùng với một gã to lớn trò chuyện.
Người kia thấy Văn Thừa, Tưởng Kỳ tiến đến, cười nói:
- Hai bác đến mua thịt lợn phải không?
Hai người thấy một gã to lớn, thân cao hơn tám thủ vai lớn, lưng tròn, tay to bè, mắt vằn đỏ rất dữ dằn. Văn Thừa cười nói:
- Tôi đến không phải để mua thịt, mà nhờ ông tìm cho mươi chiếc mật lợn để ngâm thuốc, tiền bao nhiêu cũng được, ông trưởng lò mổ có giúp được không?
Gã to béo nghe qua hình như có chút ngài ngại. Người đàn bà đang ngồi, tiến đến, cười bảo Văn Thừa:
- Bác cần ngay ư?
Văn Thừa đáp:
Nếu có ngay thì càng tốt, nhược bằng kiếm cho được, đợi vài ngày cũng được.
Người phụ nữ đưa tay ra bảo:
- Hiện chỉ có ba cái, có dùng hay không?
Ả chìa ba ngón tay ra chỉ số mật lợn.
Văn Thừa đưa mắt nhìn Tưởng Kỳ, Tưởng Kỳ nhìn, chỉ thấy người đàn bà tay đeo vòng, trên vòng có khắc hình hoa súng.
Văn Thừa nói:
- Thầy thuốc bảo mười cái, thiếu một cũng không được Vài ngày nữa chúng tôi lại đến xem.
Nói xong lui ra, về nha môn bẩm lại. Sớm hôm sau lên công đường, Lưu Dung xin Cao Tri phủ đem sai nhân đem lính đến cửa đông bắt Lý Cương và Lưu Đường Thị. Binh lính đi không lâu, giải can phạm đến. Lý Cương và Lưu Đường Thị quỳ dưới thẩm. Lưu Dung hỏi Lý Cương người ở đâu, bao nhiêu tuổi.
Lý Cương đáp:
- Tiểu nhân là Lý Cương, hiện ba mươi tuổi, người huyện Hoàng, Tỉnh Sơn Đông, lấy nghề mổ lợn để sinh nhai. Năm ngoái dời lại Thấp Châu ở cửa đông mở một cửa hàng thịt lợn. Lấy vợ là Lưu Đường Thị, tiểu nhân yên phận làm ăn, không biết đại nhân gọi có việc gì?
Lưu Dung lại hỏi Lưu Đường Thị người ở đâu? Lấy Lý Cương thì ai làm mối?
Lưu Đường Thị bẩm:
- Tiểu phụ nhân hiện nay hai mươi sáu tuổi, là người địa phương. Lấy chồng là Lưu Phủ Nghĩa. Chẳng may chồng mất sớm, năm ngoái có người láng giềng làm mối lấy Lý Cương.
Lưu Dung hỏi Lý Cương:
- Nhà người đâu có chịu sống đúng mực, tìm người này người kia gây sự, lừa dối vợ góa con côi, sao dám nói là yên phận làm ăn!
Lý Cương phân trần:
- Tiểu nhân đâu dám. Xin đại nhân đừng nghe kẻ khác nói quấy.
Lưu Dung đem tờ tố cáo của Lưu Thục Mẫn đọc cho hắn nghe. Người thư lại lấy ra đọc một lượt. Lưu Dung hỏi Lý Cương có những việc như thế không? Lý Cương đáp:
- Sự việc ấy có, không phải là tiểu nhân đến gây sự, mà con trai bà ta bỡn cợt vợ con, nên đến chỉ mặt thôi.
Lưu Dung nói:
- Bỡn coi như thế nào?
Lý Cương đáp:
- Vợ con nhờ anh chàng kia viết thư, hắn nhận giấy, sinh lòng kia nọ, cầm lấy tay vợ con.
Lưu Dung hỏi:
- Lý Cương nói thế có đúng hay không?
Lưu Đương Thị nói:
- Sự việc ấy có, không biết anh chàng ấy hửu tâm hay vô tâm, nhưng không dám nói. Con nói chuyện ấy với Lý Cương, cũng là nói chơi thôi, không ngờ cậu ấy lại tưởng là thật.
Lưu Dung hỏi:
- Anh chàng kia cầm tay nào của ngươi?
Lưu Đương Thị giơ luôn tay phải ra nói:
- Tay này ạ!
Lưu Dung thấy trên tay Lưu Đường Thị có cái gì lấp lánh lại hỏi:
- Trên tay ngươi là cái gì vậy?
Lưu Đường Thị nói:
- Đây là chiếc vòng mà Lý Cương vừa mới đánh cho con.
Lưu Dung nói.
- Tháo ra cho ta xem.
Lưu Đương Thị tháo ra đưa cho viên nha thuộc đặt lên trên án. Lưu Dung hỏi:
- Chỉ có một cái thôi ư?
Lưu Đương Thị lại đưa tay trái tháo ra một chiếc nữa nói:
- Còn một cái nữa đây ạ!
Lưu Dung liền cầm hai chiếc vòng ngắm kỹ thấy phía trong có khắc hai chữ "Thiên Xương". Lưu Dung khẽ hỏi viên thư lại:
- Ở đây có cửa hàng vàng bạc nào là Thiên Xương không?
Thư lại nói:
- Ở cửa tây có cửa hàng Thiên Xương, bán đồ trang sức.
Lưu Dung gật đầu, quay mặt lại hỏi Lý Cương:
- Ngươi lấy hai chiếc vòng này từ đâu thế?
Lý Cương nói:
- Đánh ở tỉnh ngoài ạ.
Lưu Dung lại nói:
- Vòng đánh đã ba năm, lấy Lưu Đường Thị sao người không đem tặng mà gần đây mới đưa cho?
Lý Cương nói:
- Để ở trong hành lý nên con quên mất.
Lưu Dung cười bảo:
- Có thật thế không? Ta hỏi thì người bảo đánh từ ngoài tỉnh mà.
- Dạ nhớ không rõ!
- Đánh mất bao nhiêu tiền?
- Dạ, nhớ không rõ.
Lần Dung cười ầm lên:
- Hay thật! Tục ngữ có câu: "Hỏi ba lần không biết, thần tiên cũng chẳng ra gì! Ngươí không biết thì có người khác biết”
Liền quay lại bảo Văn Thừa:
- Cho mời chủ cửa hàng trang sức Thiên Xương ở cửa tây đến, để đối chất xem sao?
Nha thuộc nghe lệnh vội đi ngay.
Không bao lâu, chủ cửa hàng Thiên Xương quỳ trước công đường. Lưu Dung vội hỏi:
Mời đúng dậy, đứng mà nói. Hiện nay có hai vật trang sức, nhà ngươi xem có nhận ra không?
Liền truyền đem hai chiếc vòng đưa cho người chủ cửa hàng. Anh ta xem một lát, cố nhớ, rồi đưa lại vòng và nói:
- Bẩm đại nhân, chiếc vòng này đúng là cửa hiệu con làm, nét khắc hoa súng này con rất nhớ, người đánh chiếc vòng này là người đàn bà ở căn nhà nhỏ ở cửa tây, rất quen thuộc với chúng con, cô ta bảo đánh kiểu vòng hoa súng này, mỗi cái là một đồng cân rưỡi, là vàng pha, cộng cả hai chiếc giá hai lạng hai bạc, không biết đại nhân có hỏi gì thêm không?
Lưu Dung cười nói:
- Người đã nhớ nó ra, hẳn nhận ngay ra nó, chẳng còn việc gì hỏi nữa, mời lui về.
Lưu Dung hỏi Lý Cương:
- Người nghe hết rồi chứ!
Lý Cương trả lời:
- Trong khoảng trời đất này thiếu gì thứ giống nhau.
Lưu Dung không thèm bắt bẻ, chỉ bảo nha thuộc:
- Hãy lấy vân tay của hắn!
Lý Cương in vân tay lên, Lưu Dung lại sai đem chiếc chăn lấy ở trong miếu ra, đem vân tay của Lý Cương so với vết vân tay trên chăn, không sai một ly. Lý Cương mặt biến sắc, mồ hôi trên trán nhỏ giọt.
Lưu Dung nói:
- Đây mới phải là trong trời đất thiếu gì cái giống như đấy chứ!
Lưu Dung liền vỗ bàn, quát lớn:
- Lý Cương, người đánh chết Vương Tiểu Ca ra sao, khai ra!
Lý Cương vẫn bướng nói:
- Con không biết Vương Tiểu Ca.
Lưu Dung nói:
- Mang Chu Thạch Đầu ra đây.
Nha lại vâng một tiếng, triệu Chu Thạch Đầu tới quỳ dưới thềm:
- Chu Thạch Đầu, ngươi có nhận ra, đây là ai không?
Chu Thạch Đầu, theo tay chỉ, nhận ra Lý Cương, bèn nói:
- Dạ, nhận được. Người này là Lý Cương, làm nghề bán thịt lợn ở cửa đông, con đã từng đánh bạc với anh ấy ở trong miếu.
Lưu Dung hỏi Lý Cương:
- Người đến miếu đánh bạc mà bảo không quen Vương Tiểu Ca phải không? Nay chứng cứ đã rõ ràng, nói nhận hay không nhận cũng thế thôi, khai ra thì khỏi bị thịt nát, thân đau!
Lý cương biết không thú nhận không xong liền bảo:
- Tiểu nhân bị kẻ xấu lôi kéo, cũng có đánh bạc. Con cũng không biết trong miếu đánh bạc to thế, mấy lần đánh không thắng, lại thiếu tiền, sau có lúc thua, có lúc được, đâm lao theo lao, tiền bán hàng đều nướng sạch cả.
Con định đi vay tiền để gỡ, Vương Tiểu Ca lại bảo mọi người, không đến chơi nữa, nhà chùa cũng biết, sợ quan đến bắt bạc. Đám người chơi rục rịch đi, thế là tất cả tản mát hết. Con càng nghĩ càng cay, kể chuyện với bè bạn. Có người nói, anh lâu nay ở chốn giang hồ, sao lại không hiểu ra! Cuộc chơi bạc ấy, anh chịu mất ư, sao không đi cướp lại, lại còn kêu ca gì!
Con càng ngẫm càng tức, lại dám báo bắt ta ư? Mờ đất hôm sau, con đóng cửa hàng đi tìm Vương Tiểu Ca, bảo cô ta trả lại tiền cho con, chúng con càng nói càng lú lẫn, liền động thủ, đấm đá một hồi, đánh cô ta ngã xuống đất, không dậy nổi. Con liền vào trong nhà lấy cái chăn của cô ấy lôi ra năm lạng bạc. Trong bụng nghĩ: Thế là được. Nào ngờ, Vương Tiểu Ca phận mỏng, chịu không nổi vài quả đấm đã chết. Xin quan lớn khai ân, tiểu nhân chỉ đi hỏi tội kẻ lừa dối lấy tiền, chứ không có ý lấy của, giết người.
Lưu Dung bảo hắn điểm chỉ vào tờ khai, sau sẽ liệu, bắt giam vào ngục, bảo nha thuộc khoan hãy thu lại vòng của Lưu Đường Thị, lại bảo Chu Thạch Đầu rằng:
- Ngươi có hiếu với mẹ được mọi người mến phục, nhưng không yên tâm làm lụng, lại đi xoay tiền, như thế là không giữ nổi mình, đáng phạt đánh năm mươi gậy, nhưng nghĩ người là con có hiếu, lại mấy ngày nay bị mắc cửa quan, nhà cửa rỗng không, ta thưởng cho mười lạng bạc, mang về nhà mà tiêu dùng, lên gặp nha dịch mà lĩnh, chóng chóng về nhà kẻo mẹ ngươi mong.
Chu Thạch Đầu chỉ biết gật đầu, trong lòng muôn vàn đội ơn, nha thuộc đưa Chu Thạch Đầu ra. Lưu Dung bảo:
- Thoái đường!
Ông lui về phòng riêng nghỉ, uống vài chén trà ngon, đang nghĩ đến việc định tội Lý Cương, chợt thấy đám tùy tùng, gấp gáp chạy tới, miệng hô:
- Đại nhân, ra ngay công đường tiếp chỉ.
Lưu Dung nghe thấy vội mời Cao tri phủ đến công đường, chỉ thấy một nội giám già, tay cầm thánh chỉ đứng ở chính giữa, trông thật uy nghiêm, Cao Tri phủ vội vàng quỳ xuống, xụp lạy xong, chỉ thấy viên nội giám già cao giọng đọc:
“Lắng nghe ý chỉ: đem việc nhà phủ ở Đồ Thấp Châu giao cho Lưu Dung, ngay lập tức tiến kinh, gia phong làm quyền Phủ Doãn Phủ Khai Phong, Long đồ các đại học sĩ, chiếu theo luật nước, hợp với lòng người, rất hợp ý trẫm. Chiếu thư đến, lập tức lên đường, chớ trái lệnh.
Khâm thử “
Quan nội giám tuyên đọc xong, thánh chỉ đặt lên án, Cao Tri phủ cúi đầu tạ ơn và mời viên nội giám về thư phòng dùng trà. Nội giám cảm ơn, từ chối, cùng bốn Cẩm y vệ sĩ xin về ngay. Cao Tri phủ không dám giữ, đành tiễn ra khỏi phủ. Ngoài phủ đã sẵn năm con ngựa, mọi người đều lên yên. Viên nội giám ngồi trên lưng ngựa vẫy tay chào. "Hẹn gặp ở kinh thành!", năm con ngựa phóng đi như bay.
Cao Tri phủ lui vào trong trường, mời Lưu Dung tới. Lưu Dung cười nói:
- Xỉn chúc mừng quan lớn!
Cao Tri phủ cười bảo:
- Được huynh giúp đỡ, tôi mới được như ngày hôm nay!
Nói xong cả hai đều cười vang.
Từ đó Lưu Dung nổi tiếng xa gần.