Khi Trịnh Ấn ăn no say và trà nước xong thì sửa soạn xuống lầu không nói gì đến việc tiền bạc. Tửu bảo thấy vậy liền nghĩ:
- Bộ người này tính ăn lường, nên cố thực quá, ăn rồi mà không nói đến việc bạc tiền, lại coi bộ muốn lên lưng ngựa mà đi!
Nghĩ rồi, bèn đón lại đòi tiền.
Trịnh Ấn nói:
Nhữ Nam Vương có ăn uống bao nhiêu thì bổn địa phải chịu, ngươi còn đòi bạc gì? Thôi bao nhiêu thì ngươi tính đi, tới ngày trừ bạc thuế, hay là muốn đến trình huyện mà lấy của công nho, hai lẽ ngươi muốn lẽ nào?
Chủ quán nghe ra mới biết là một vị vương hầu bên Tống, cừu địch với nước mình, nên tính đi báo quan mà lãnh bạc thưởng, liền nạt tửu bảo rồi làm bộ vui vẻ thưa:
- Khi nãy thằng bạn tôi con mắt mù quáng, không biết đại vương, nó thất lễ mười phần, tôi xin cam chịu lỗi.
Nói rồi liền cúi lạy, Trịnh Ấn mừng rỡ khi thấy chủ quán tôn kính mình. Còn chủ quán thì hối các tửu bảo đem trà thơm ra đãi, còn làm bộ giả lả đãi đằng chu đáo gấp đôi khi trước rồi nói:
- Tôi có mắt mà như mù, không biết đại vương, nay nhờ ơn bề trên cho tính tiền trừ thuế. Song vương gia nói miệng, sợ quan thâu thuế không tin, vì chẳng có dấu chi làm cớ, vậy xin đại vương phê cho ít chữ và đóng ấn vào, ngày sau có quan thâu thuế đến, tôi chiếu giấy mà trừ, thiệt ơn đại vương sánh tựa non biển?
Trịnh Ấn nghe nịnh êm tai thì khen rằng:
- Chủ quán thiệt là người có trí, ta khá khen cho đó!
Nói rồi biểu đem giấy mực ra.
Trịnh Ấn đề rằng:
“Phải chiếu theo giấy này trừ thuế cho thân tộc tiệm này mười năm" rồi ký tên đóng dấu kỹ lưỡng.
Chủ tiệm làm bộ mừng rỡ cúi lạy tạ ơn, rồi truyền cho tửu bảo đem rượu tốt và đồ ăn ngon no đủ mọi món, nào thịt rừng nào cá biển.
Trịnh Ấn thấy đãi những món mỹ vị thì ráng ăn uống thêm.
Chủ quán thì càng ân cần khuyên ép, rồi bước vào nhà trong sai bạn đi mách với quan Tổng binh, dặn rồi trở ra hầu rượu.
Tổng binh xứ nọ họ Tiêu tên chữ là Hóa Long, nghe gia tướng của chủ quán đến bẩm:
- Chủ tôi phục rượu cho một vị vương nước Tống, còn ngồi trong quán, coi bộ đã say, nên chủ tôi sai đến bẩm với ông, xin đem binh đến bắt.
Tiêu Hóa Long nghe báo mừng rỡ vô cùng, dẫn năm ngàn binh mã ra đi. Đến quán thì Trịnh Ấn đang uống rượu. Tiêu Hóa Long hét lớn:
- Khen cho Tống tặc cả gan còn ngồi uống rượu!
Trịnh Ấn nghe rõ mới hay mình còn ở trong địa phận đất Kiên Lăng, bị chủ quán làm mưu sai người đi báo cáo. Muốn cầm roi lên ngựa, mà cự với tướng Đường, ngặt say quá nên tay chân rã rượi, Trịnh Ấn túng thế thót lên ngựa mà chạy. Binh Nam Đường vây phủ quá đông. Trịnh Ấn ngồi không vững vàng liền nhào xuống ngựa, quân Nam Đường áp lại bắt trói Trịnh Ấn.
Tiêu Hóa Long mừng rỡ mười phần, liền thường quán nhân năm trăm lạng bạc. Chủ quán mừng rỡ tạ ơn. Tiêu Hóa Long truyền quân dẫn Tống tặc về ải.
Về đến ải, Tiêu Hóa Long truyền đem giam Tống tặc được ít ngày đêm giải mà lập công. Bởi qua bữa sau là trung thu trăng tỏ, bạn đồng liêu thăm viếng chơi bời, tại nhà quan nên việc ăn chơi trọng thể lắm!
Ngày ấy có người đồng liêu thiết nghĩa với Tiêu Hóa Long là Úc Thoại làm chức trấn quốc tướng công, có người con gái là Úc Sanh Hương, tài cao phép lạ. Hai cha con họ Úc đi giải một tên tội phạm, thuận đường ghé viếng Tiêu Hóa Long, tên phạm ấy cũng là tướng bên Tống.
Tiêu Hóa Long tiếp đãi Úc Thoại và hỏi thăm vì cớ nào mà bắt được Tống tướng. Úc Thoại nói:
- Tống tướng họ Cao tên Quân Bội, đêm hôm qua đơn thương độc mã đến bắn tên lửa vào thành quyết đốt kho lương, may trời khiến tôi hay đặng đem binh ra vây nó. Không dè nó tướng nhỏ mà sức mạnh như thần, đánh nhằm cánh tay tôi bị thương. Khi quân báo lại con gái tôi là Sanh Hương ra đánh bắt nó đem về. Tôi tính giải nó đến vua, trước là lập công sau là báo thù roi sắt, e Tống tướng đón đường cướp giựt, bởi khi trước khi có chiếu truyền rút binh các ải về thủ thành vua, nên binh tôi mười phần nay còn có một. Nay mới giải Tống tướng, có năm trăm binh mà thôi, nên ghé lại Tổng binh mượn thêm nhân mã ba ngàn đặng đi giải, chẳng hay Tổng binh có đành chăng?
Tiêu Hóa Long nghe nói:
- Không dè anh cũng như em, đồng bắt được tướng Tống.
Nói rồi thuật chuyện bắt Trịnh Ấn.
Úc Thoại nghe qua mừng vội. Tiêu Hóa Long nói:
- Tôi cũng định giải nó đi, may gặp anh đi giải cùng đường, song đêm nay là đêm Trung thu, mời anh ở lại vui chơi, rồi ngày mai anh em ta cùng đi giải, cũng không trễ nải chi? Úc Thoại là con sâu rượu, nghe bạn mời ăn tiệc liền bằng lòng.
Nói về Tiêu Dẫn Phụng là con gái Tiêu Hóa Long, lại là em bạn với Úc Sanh Hương tình chi lan như keo sơn gắn chặt.
Tiêu Dẫn Phụng cũng là con một như Úc Sanh Hương, nghe tin chị em đến thì mừng rỡ, lại nghe cha mời ở lại ăn tết Trung thu, Tiêu Dẫn Phụng lại mừng nhiều hơn nữa.
Đêm ấy chị em lên lầu, xem trăng uống rượu, nói chuyện đến khuya, lúc đó mọi người đều ngủ hết, chỉ còn hai chị em còn thưởng nguyệt. Xảy nghe có tiếng than thở, hai chị em đều lén đi rình nghe thì thấy hai người nói chuyện với nhau trong tù xa như vầy:
- Đại trượng phu chết giữa chiến trường thì rạng danh như nhật nguyệt, ngặt vì thương nỗi mẹ già cui cút, ngày sau trăm tuổi già không ai thọ chế cư tang.
Kế nghe người khác nói:
Người kia đáp lại:
- Anh Trịnh, anh nói cũng phải, song ta nghĩ lại giận Miêu Quân sư, không chịu sai tướng khác, quyết ép tôi vào chốn hang cọp miệng hùm, chắc là không còn tính mạng. Quân sư có đưa cho tôi một phong thư, dặn đêm trung thu gặp anh sẽ giở ra xem dầu bị tai nạn cũng khỏi. Song bị buộc tay chân thì làm sao mà lấy được thơ trong túi mà xem thì chắc tai qua nạn khỏi.
Hai tướng nói chuyện thì hai chị em nghe rõ ràng, hai nàng bèn trở lại Bá Hoa Đình xem hoa thưởng nguyệt.
Tiêu Dẫn Phụng nói với Úc Sanh Hương:
- Chị ôi? Lúc em ở núi về, Thánh Mẫu có dặn, sau hai chị em sẽ kết duyên cùng trai Tống. Nay nghe hai tướng Tống nói chuyện: Miêu Quân sư có đưa bức thư chi, dặn coi thì khỏi nạn, chi bằng ta sai con đòi thừa dịp này mà móc túi, lấy thư coi thử nói những chuyện gì. Chị xét lại thử coi có đáng hay là không đáng?
Úc Sanh Hương khen phải, Tiêu Dẫn Phụng sai con đầy tớ tâm phúc đến lục túi lấy thơ. Trịnh Ấn không cho, làm bộ quỉ thần nạt nộ.
Cao Quân Bội nói:
- Mình có thơ mà coi không được, cũng nên để cho người ta coi, hoặc tai qua nạn khỏi, nên đừng trở ngại!
Trịnh Ấn giận làm thinh không thèm nói lại. Con đòi lục túi Cao Quân Bội, lấy được phong thơ mừng rỡ lật đật đem về cho chủ.
Tiêu Dẫn Phụng thấy phong thơ điểm kỹ càng, khai ra thấy tám câu thơ như sau:
Nhân duyên ngàn dặm Tống hòa Đường,
Căn dặn gia nhân phải chủ trương.
Đẹp phận Trịnh vương cùng Dẫn Phụng,
Phỉ nguyền Quân Bội với Sanh Hương,
Tù xa khỏi nạn hương thêm đượm.
Vừng nguyệt làm mai lửa cháy hường,
Mới biết duyên trời đà định trước,
Phần ai nấy gặp bởi tơ vương.
Hai chị em xem thơ nghĩ giật mình. Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Bài thơ này nói rõ tên họ đôi lứa của chúng ta, như lời Thánh Mẫu đã dạy. Nay đã gặp gỡ lẽ nào dám trái lòng trời mà nỡ cãi lời thầy cho được! Chị tính thế nào bây giờ?
Úc Sanh Hương nói:
- Phải thuận sẽ trời, nghe lời thầy chớ, duyên lành dễ kiếm hay sao?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Đã biết vậy mà bây giờ vâng lời thầy lại mang tiếng là bỏ cha phản chúa, tội bất trung bất hiếu, sao mặt nào dám ngó cha già?
Úc Sanh Hương nói:
- Người phải có kinh có quyền, không phải giữ hoài một mực, nay coi Tống hưng thạnh. Nay chị em ta vâng lời thầy lén cha mà kết tóc cùng tướng Tống, cứ theo lẽ thì ta bất hiếu bất trung, song ngày sau mình phò Tống cứu cha, cũng đã đem công mà trừ lội, lại đặng hưởng vinh hoa phú quý, không uổng công ăn học thuở nay cho nên nay là bất hiếu sau đặng trọn thảo trọn ngay. Nếu phò Nam Đường mà chết cả dòng, mới gọi là hiếu hay sao?
Tiêu Dẫn Phụng nghe nói khen:
- Lời luận tùng quyền của chị hay lắm!
Hai chị em bàn luận rồi cấm a hoàn chớ nên tiết lậu. Truyền đóng cửa vườn lại hối con đòi tâm phúc ra tháo tù xa; thuật các việc cho hai tướng ấy nghe, rồi mở đây rước vào thương nghị, a hoàn vâng lệnh, y theo lời dạy mà làm, mở tù xa và mở trói cho hai tướng rồi mời đi theo mình đến ra mắt nhị tiểu thơ.
Hai nàng thấy mặt tướng Tống thì hổ thẹn, song gượng nói:
- Xin nhị vị công từ hãy xem thơ của Quân sư rồi sẽ tính lẽ nào cho chị em tôi biết với!
Nói rồi sai con đòi đưa thơ cho nhị vị công tử.
Cao Quân Bội liền xem thơ. Còn Trịnh Ấn chưa kịp coi nên làm dữ, mắng người sao vô lễ xem thơ của mình. Cao Quân Bội lắc đầu rồi trao thơ cho Trịnh Ấn. Trịnh Ấn xem rồi khen thầm Quân sư tuyên thánh, nhân duyên trước mặt, họ tên ngày tháng rành rành.
Lúc ấy, hai nàng cúi mặt xuống và nói:
- Tuy bài thơ ấy của Quân sư, nhị vị công tử đọc xong rất hiệp với lời dặn của thầy tôi là Kim Hoa Thánh Mẫu nên không cãi lẽ trời cho đặng, vậy chẳng hay hai vị công tử chước lượng làm sao?
Cao Quân Bội thấy hai nàng hữu tình, cứu mình trong cơn hoạn nạn, nếu nghịch mà không chịu, chắc là bị giải đến vua Nam Đường, thì tánh mạng mười phần còn một, mình chết không tiếc, riêng thương nỗi mẹ không kẻ phụng thờ. Huống chi Quân sư đề tên họ rõ ràng, không phải tội nơi mình làm mà sợ? Nghĩ rồi nói hơn thiệt cho Trịnh Ấn nghe, anh em cùng bằng lòng như một.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Bây giờ đã thuận cả, mới nhất định đôi lứa làm sao?
Úc Sanh Hương sợ Tiêu Dẫn Phụng dành người trắng trẻo của mình, liền đáp:
- Lời xưa có nói: "Vợ chồng là căn nợ" và sách có câu: “Vô ân trái bất thành phu phụ, hễ tướng nào của ai bắt đặng là duyên nấy, còn nghị luận làm chi!
Ban đầu Tiêu Dẫn Phụng chê Trịnh Ấn mặt mày như quỷ, sao bằng Cao Quân Bội tốt trai, nay nghe Úc Sanh Hương cắt nghĩa cũng phải, vả lại trong thơ có đề vợ nào chồng nấy, nếu đổi chọn đặng sao? Tuy Trịnh Ấn xấu tướng mặc lòng, mà quyền cao chức lớn, vợ cũng là một vị vương phi, bù đi chế lại cũng vừa, nên thuận theo thơ ấy.
Bốn người cứ theo thơ mà làm chồng vợ, đồng thề thốt và giao của tin. Rồi hai nàng than:
- Đêm nay thề thốt giao ước như vậy mà không biết nhị công tử ngày sau giữ lời quân tử hay không?
Cao Quân Bội và Trịnh Ấn đồng nói:
- Đại trượng phu chẳng hề thất tín, hẹn việc nhỏ cũng không sai, huống chi việc vợ chồng là việc trăm năm, lại cũng đứng vào hàng tam cang nữa, lẽ nào xuất hồ nhĩ phản hồ nhĩ sao? Xin tiểu thơ chớ nghi ngại!
Hai nàng nghe nói đều tin bằng lời, liền truyền cho a hoàn dọn rượu cơm thết đãi. Hai người ăn uống xong. Trịnh Ấn nói:
- Hai nàng gá nghĩa với hai ta, thì phải bỏ Đường đầu Tống, đặng ta về tâu lại với chúa và thưa với cha mẹ. Ngặt lịnh tôn công đã nhất định giải hai ta tới vua Đường, vậy biết tính làm sao cho đặng?
Hai nàng ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp:
- Ngày mai chúng ta làm như vầy, như vầy... thì lo chi công tử thoát thân không đặng?
Cao công tử nghe kế mừng rỡ, rồi cùng nhau uống rượu tới canh tư. Lúc ấy hai nàng nói với hai công tử, xin chịu phiền vế chốn tù xa và cũng phải chịu trói kẻo lộ. Hai người y như lời dặn còn chị em vào phòng nghỉ ngơi.
Nói về Tiêu Hoá Long với Úc Thoại mắc say mèm ngủ ngáy pho pho, nên chuyện của nhị tiểu thơ không ai hay biết, ấy cũng là trời đất khiến xui, nên mới gặp cơ hội may như vầy.
Sáng sớm ai nấy đều thức dậy, có một mình Úc Thoại còn ngủ mê man vì bị Cao Quân Bội đánh một roi, đau nhức chỗ vết rên siết nằm hoài. Úc Sanh Hương vào thăm cha mà Úc Thoại dậy không nổi. Tiêu Hóa Long cũng lại xem trong mình nguyên tại chứng chi? Úc Thoại nằm mà đáp:
- Tôi sẵn bị thương, nay lại uống rượu nhiều nên phát bệnh, giờ phải uống thuốc một bữa thì mạnh, nhắm chẳng hề chi, ngặt một điều, đi giải Tống tướng không đặng...
Tiêu Dẫn Phụng thừa dịp thưa:
- Xin bác đừng lo việc ấy, chị em tôi sức chẳng thua ai, xin lãnh phần giải tội cho, còn bác ở đây mà dưỡng bệnh, cha tôi ở nhà mà lo thuốc rước thầy, chắc chị em tôi đi lo kham mọi việc.
Tiêu Hoá Long cũng khen phải và nói:
Anh hãy ở đây dưỡng bệnh chừng thuốc thang lành bệnh sẽ về.
Úc Thoại bằng lòng và dặn:
- Đi giải giặc chứ không phải tù thường phải cẩn thận cho lắm!
Úc Sanh Hương thưa:
- Xin cha an lòng dưỡng bệnh, việc này con biết đề phòng không sao.
Tiểu Dẫn Phụng thưa:
- Con gái lộn với con trai lấy làm khó lắm, tôi có hai trăm nữ binh, tập luyện nhuần nhã. Chị Sanh Hương cũng có hai trăm nữ binh, võ nghệ tinh thông, sức một đứa cự nổi một trăm, ôi giải bấy nhiêu cũng đủ. Bởi vì mình ở trong địa phận đất mình nhắm không đến nỗi nào.
Tiêu Hoá Long và Úc Thoại đều bằng lòng.
Hai nàng mừng rỡ đồng thay quần áo con trai, đội kim khôi, mang thiếp giáp, kéo nữ binh đi giải Tống tướng.
Đi một hồi ra khỏi ải, cả bọn nhắm Thọ Châu thẳng tới. Khi đã đỏ đèn đã ghé vào quán, xảy thấy sau lưng có một đội nhơn mã rượt theo, hai nàng kinh hãi:
- Có khi đã lộ việc rồi nên có binh gia theo bắt!
A Hoàn trở lại thám thính, giây phút về báo:
- Xin tiểu thơ đừng lo sợ, ấy là đạo binh của Ngại Ngân Bình.
Cao Quân Bội nghe báo hỏi thăm:
- Nữ tướng ấy là người ở đâu vậy?
Úc Sanh Hương nói:
- Nàng ấy là con gái Ngại Vạn Thanh, cũng là người bổn quốc, là học trò Kim Quan Thánh Mẫu, nàng ấy tên Ngại Ngân Bình, tuy vẫn khác họ tình quá ruột rà, nay không biết đi chuyện chi mà cũng kéo binh vào quán. Xin hai vị công tử ẩn mặt đằng sau, đặng tôi mời nàng ấy đến đây hỏi thăm cho biết.
Hai anh em nghe nói, liền ẩn mặt phía sau. Úc Sanh Hương sai a hoàn mời Ngại tiểu thơ, Ngại Ngân Bình nghe mời liền đi qua. Hai nàng chào mừng đàm đạo tỏ nỗi hàn huyên song giấu một điều là đầu Tống, cứ nói đi giải tội mà thôi còn Ngại Ngân Bình cũng nói đi giải Phùng Mậu. Nói chuyện giây lâu, Ngại Ngân Bình liền kiếu về phòng cơm nước.
Còn Cao Quân Bội và Trịnh Ấn lóng tai nghe rõ mọi điều, liền năn nỉ với hai nàng, cậy nói với Ngại Ngân Bình xin tha phùng Mậu, vì người ấy là anh em với mình, sau thấy hai công tử cầu khẩn hết lòng, vị tình phải chịu, song không dám kể chắc, chừng nào nói đặng sẽ hay.
Hai người ra sau ẩn mặt, Tiêu Dẫn Phụng sai thế nữ mời Ngại tiểu thơ trở qua nói chuyện.
Ngại Ngân Bình vừa mới ăn cơm tối, thấy a hoàn qua nói tiểu thơ mời thì Ngại Ngân Bình qua và hỏi:
- Chẳng hay chị mời tôi qua đây có chuyện chi?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Lâu nay gặp hiền muội, không ngờ tình cờ hội ngộ giữa đàng, nên mời qua nói chuyện cho phỉ tình, kẻo chị Sanh Hương cũng ao ước, chớ thiệt tình không có chuyện chi.
Ngại Ngân Bình đáp:
- Tôi đội ơn hai chị có tình thương tưởng.
Rồi cùng nhau ngồi nói chuyện, uống rượu tới canh ba.
Tiêu Dẫn Phụng bưng chén rượu đầy, hai tay đưa cho Ngại Ngân Bình và nói:
Hiền muội hãy uống rượu mừng này cho cạn.
Ngại Ngân Bình cười chúm chím rồi hỏi:
- Tôi có chuyện chi mà mừng?
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Hiền muội bắt đặng Tống tướng, ngày mai dẫn đến trào Đường mà lãnh công thì chắc là lệnh tôn công và hiền muội đặng trọng thưởng, cho nên tôi phải dâng chén rượu mừng.
Ngại Ngân Bình nói:
- Tôi nghe nói hai chị cũng bắt được hai Tống tướng, cũng đi giải như nhau, vậy thì ba chị em đều có một công hết mà mừng một mình tôi sao phải?
Nói rồi cùng rót rượu dâng lại, cùng nhau chén tạc chén thù và đàm đạo cho tới canh tư.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Mai ba chị em ta đi một lượt với nhau cho có bạn.
Ngại Ngân Bình sợ lậu tiếng, liền đáp lại:
- Tôi còn đợi cha tôi đi cùng, hai chị đi trước, nếu đợi tôi thì trễ ngày giờ, lúc về thì tôi sẽ ghé thăm hai chị.
Tiêu Dẫn Phụng nghe nói nghĩ thầm:
- Ngại Ngân Bình bắt được tướng Tống, sao còn do dự đợi cha làm cho chắc là có ý gì đây.
Nghĩ rồi hỏi thử.
- Tôi muốn bày tỏ đôi lời, chỉ sợ hiền muội tiết lộ thì khó lòng.
Ngại Ngân bình nói:
- Ba chị em mình, đồng lòng kết nghĩa, lẽ nào dám tiết lộ những chuyện riêng, dù quan trọng đến đâu chị cứ nói chẳng hề gì.
Tiêu Dẫn Phụng lấn cấn mãi không chịu nói. Ngại Ngân Bình hỏi:
- Chị nghi bụng tôi như vậy mà bấy lâu nay tôi lại tin lòng chị. Như vậy uổng biết chừng nào?
Úc Sanh Hương khuyên giải:
- Ngại hiền muội là người trung tín, chẳng phải như kẻ khác mà hồ nghi.
Tiêu Dẫn Phụng sai con đòi thân tín ra ngoài xem có ai nghe lén không, rồi mới dám nói:
- Tôi mời hiền muội qua đây, mục đích là bày tỏ việc này: Tôi nghe đồn Phùng Mậu là học trò giỏi của Huỳnh Thạch Công, phò Tống được phong vương, nay lại về tay hiền muội, ấy là trời định lương duyên, sao hiền muội chẳng giao kết làm vợ chồng, lại đi nạp làm chi vậy. Nhà Tống đang thịnh trị, còn Nam Đường thì khí số mỏng manh, mình lánh nạn cứu cha là tốt, biết cơ trời thì mới hiển vinh, chỉ sợ hiền muội được ngọc mà bỏ đi, đến sau ăn năn không kịp. Hiền muội hãy suy đi nghĩ lại cho kỹ.
Ngại Ngân Bình nghe nói trúng ý, nên thẹn đỏ mặt, ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:
- Chị khuyên em cũng phải.Vậy hai chị bắt được hai tướng Tống sao lại không kết duyên?
Tiêu Dẫn Phụng không biết nói sao, ngồi cười chúm chím bị Ngại Ngân Bình hỏi thét, túng quá phải nói:
- Ba chị em ta như thể ruột rà, lẽ nào dám giấu. Hai chị em tôi cũng tính việc đó mà tìm mưu đặng theo về Tống.
Ngại Ngân Bình nghe Tiêu Dẫn Phụng nói thì biết ý, đáp:
- Tôi cũng có ý đó, song không dám cãi lệnh mẹ cha.
Úc Sanh Hương nói:
- Gặp biến phải tùng quyền, hễ là quân bất minh, thần đầu tha quốc.
Ngại Ngân Bình nói:
- Hai chị thật là người thấy xa hiểu rộng.
Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Thật tình hai chị em tôi đã biển hẹn non thề, thuận lòng trút bỏ chỗ tối theo về chỗ sáng, cùng nhau đầu Tống lập công, sau vinh hiển một nhà.
Ngại Ngân Bình nghe Tiêu Dẫn Phụng tỏ hết tâm tình, liền đáp:
- Cảm ơn hai chị, phần em cũng đã thề nguyền hôm trước rồi.
Mọi điều tâm sự đã được bày tỏ, song Ngại Ngân Bình chỉ giấu có một điều là Phùng Mậu đã làm hỗn mà thôi. Úc Sanh Hương vỗ tay cười nói:
- Ý chúng ta đã một lòng, hễ là người trí thì sớm gặp nhau.
Nói rồi hai nàng lật đật vào thuật chuyện lại cho hai tướng hay:
- Hai chị em tôi nói với Ngại Ngân Bình và mọi việc đã xếp đặt xong, vậy xin hai chàng cùng ra ngoài đặng thỉnh Phùng Mậu qua cho gặp mặt.
Hai anh em nghe nói công việc đã tính xong, cùng nhau mừng rỡ bước ra. Tiêu Dẫn Phụng nhờ Ngại Ngân Bình về mời Phùng Mậu đến để gặp mặt nhau, kẻo hai chàng còn nghi ngại. ngại Ngân Bình về thuật chuyện với Phùng Mậu rồi cùng Phùng Mậu đến gặp mặt.
Ba anh em gặp nhau mừng rỡ, thuật chuyện cho nhau nghe:
- Chẳng qua việc này là thiên số, lời Quân sư đã đoán trước chẳng sai.
Sau đó ba anh em mở tiệc chuyện trò, còn ba chị em cũng đàm đạo với nhau suốt đêm không ngủ.
Lời Bàn
Trong mọi sinh vật, cái gì bị tiêu diệt thì cũng có mầm sống vươn lên.
Chiến trận xảy ra liên miên, người chết ngã gục không kể hết, đó là một thảm họa. Nhưng trong mầm họa ấy sẽ nảy ra những chồi xanh, những cặp hôn nhân cũng luôn luôn được nảy nở như các chàng trai nước Tống, lại kết duyên với các cô gái nước Đường. Như vậy, trong hủy diệt có phát sinh. Đó là lẽ tuần hoàn của tạo hóa cấu tạo quy luật sanh diệt trong con người. Ở đây tác giả đã đưa quan niệm ấy để diễn tả luật sanh tồn của vũ trụ một cách tự nhiên, theo quan niệm triết học Đông phương, phải giới thiệu cho người đời thấy luôn luôn trong cái buồn có cái vui, trong nước mắt có nụ cười, trong hủy diệt có sự sống.
Cuộc sống con người sở dĩ tồn tại là do luật sanh tồn của thiên nhiên, mà quy luật ấy vẫn là muôn thuở.