Sự Hiền Hòa Của Sói

Chương 15

Vào buổi tối ngày thứ sáu, lần đầu tiên họ nhìn thấy đích đến. Donald bước lê theo sau - ngay cả Bà Ross có thể đi nhanh hơn anh vì chân anh bị phồng rộp. Không thể nào bỏ rơi đôi giày ủng gây cực hình, nhưng ngay cả với cái chân đã hoàn toàn được băng bó kín, mỗi bước là một cơn đau cực độ. Hơn nữa, vết thương bị dao đâm lại đau nhức, mà anh giữ bí mật đối với hai người kia. Ngày hôm qua, anh tin rằng vết sẹo sưng tấy trở lại, và lấy lý do dừng bước để lo chuyện riêng tư anh cởi nút áo để xem xét. Vết sẹo vẫn kín, nhưng sưng nhẹ và rỉ ra một ít chất dịch trong. Anh lo lắng sờ để xem chất dịch tiết ra từ đâu. Có lẽ cuộc hành trình đầy gian khổ đã làm cho anh mất sức; khi họ dừng lại nó sẽ phục hồi.

Vì thế, anh vui mừng tột độ khi nhận ra thương điếm từ đằng xa - mà trong những thời khắc bị đau đớn anh nghĩ nó không hiện hữu. Vào lúc này, Donald nghĩ không có gì vinh quang cho bằng được nằm trên một chiếc giường trong một thời gian dài. Anh vui mừng nhớ lại rằng bí mật của hạnh phúc là sự biến đổi giống như sau một hồi đập đầu vào tường rồi dừng lại.

Nhà Hanover nhằm trên một khu đất cao; một con sông chảy vòng bao bọc ba phía. Có cây cối túm tụm nhau phía sau, là cây cối đầu tiên mà họ nhìn thấy sau nhiều ngày - những cây cáng lò uốn cong, còi cọc và những cây thông rụng lá, tuy chỉ cao hơn đầu người một chút nhưng vẫn là cây. Con sông trải rộng và lặng lờ nhưng không bị đóng băng - nhiệt độ chưa xuống thấp lắm - và mang màu đen trên nền tuyết trắng. Khi họ tiến đến khá gần mà vẫn chưa thấy một bóng người, Donald cảm nhận mối sợ hãi dai dẳng là ở đây chẳng có người nào cả.

Thương điếm được xây dựng theo cách thức như Pháo đài Edgar nhưng rõ ràng là cũ kỹ hơn. Hàng cọc tường thành nghiêng ngả; các tòa nhà màu xám và xác xơ qua những đợt tấn công dồn dập của thời tiết. Nói chung, tất cả đều đã sờn mòn, cho dù đã có nỗ lực để phục hồi nhưng bộ mặt bên ngoài vẫn nói lên sự bỏ phế. Donald mơ hồ nhận ra lý do cho tình trạng này. Bây giờ họ đang ở sâu trong vùng Nền đá Canada phía nam Vịnh Hudson. Có một thời, vùng này là nguồn phong phú của lông thú cho Công ty, nhưng lúc ấy đã lâu lắm rồi. Nhà Hanover là phế tích của những vinh quang ngày xưa, giống như một cơ quan đã teo lại trên một thân thể. Nhưng bên ngoài tường thành và chĩa ra phía bình nguyên là một vòng những khẩu đại bác nhỏ, và sau đợt bão tuyết có người nào đó đã chịu khó đi ra bên ngoài và quét dọn lớp tuyết khỏi các khẩu súng này. Những hình thù màu đen ngồi xổm, tương phản với tuyết, là dấu hiệu duy nhất cho thấy hoạt động của con người.

Cánh cổng của tường thành khép hờ, và có những dấu vết do con người để lại đây đó. Dù ba người và chiếc xe trượt tuyết đã hiện rõ trên nền tuyết trong ít nhất một giờ, vẫn không có ai ra đón tiếp.

“Nơi này trông hoang vắng.” Donald nhận xét, mắt nhìn qua Parker để chờ xác định. Parker không trả lời, nhưng đẩy cánh cửa, và chỉ đẩy được dăm bảy phân thì cánh cửa bị kẹt do sức nặng của lớp tuyết phía sau. Khoảnh sân bên trong không được quét tuyết - là cái tội nặng ở Pháo đài Edgar.

“Ông có chắc đúng là nơi đây không?” Donald hỏi, và rồi thấy mình khó mà chống lại thân người mình ngã xuống để anh cởi đôi giày ủng ra. Anh không thể chịu nổi cơn đau thêm một thời khắc nào nữa.

Parker trả lời: “Đúng.”

Donald nhìn quanh khoảnh sân hoang vu: “Có lẽ nó đã bị bỏ hoang.”

“Không, không bị bỏ hoang.” Parker nhìn qua một cuộn khói mỏng tỏa lên từ phía sau một nhà kho thấp. Cuộn khói có cùng màu như bầu trời. Donald cố vươn mình lên trên đôi chân - một nỗ lực siêu nhiên - và lảo đảo đi vài mét.

Rồi một người đàn ông bước quanh góc một ngôi nhà và đứng sững lại: một người cao lớn, da sẫm với đôi vai mạnh mẽ và mái tóc dài, trông hoang dại. Dù cho cơn gió lạnh băng, anh chỉ mặc một chiếc áo lót bằng vải bông mềm mở ra đến thắt lưng. Anh ta đăm đăm nhìn họ, miệng há hốc, lộ vẻ khó hiểu, thân hình rộng chùng xuống và tê cóng vì lạnh. Bà Ross trân trối nhìn như thể trông thấy một hồn ma. Parker bắt đầu giải thích với anh rằng họ từ xa đến, rằng Donald là nhân viên Công ty, nhưng trước khi ông nói dứt, anh ta quay người đi trở lại theo lối anh đã đến. Parker nhìn Bà Ross và nhún vai. Donald nghe bà thì thầm: “Tôi nghĩ anh ta đã say,” và mỉm cười chán nản với chính mình. Rõ ràng là bà không có kinh nghiệm giết thời gian trong mùa đông ở một thương điếm tĩnh lặng.

Bà Ross hỏi: “Ta có nên đi theo anh ấy không?” Cũng như mọi lần, bà có ý hỏi Parker, nhưng Donald lê bước tới, chân anh tê cóng nhưng thời may không còn đau nữa.

Đây là thương điếm của Công ty, vì thế anh cảm thấy bây giờ mình nên lấy quyền dẫn dắt: “Tôi tin chắc sẽ có ai đó đi ra trong một phút. Bà Ross biết không, ở một thương điếm trong mùa đông, đặc biệt là thương điếm bị cô lập như thế này, nhân viên tìm mọi cách để được khuây khỏa mà giết thời giờ.”

Hai con chó vẫn còn ở bên ngoài cánh cổng, bây giờ đang sủa và vẫy vùng mãnh liệt. Có vẻ như chúng không thích đứng yên mà không cắn nhau. Như bây giờ, hình như chúng đang cố giết nhau. Parker quay lại la thét với chúng, cầm cây gậy quật chúng; một chiến thuật trông không hay ho gì nhưng có hiệu quả.

Sau ít phút, có tiếng bước chân trên mặt tuyết và một người đàn ông khác đi vòng quanh góc tòa nhà. Donald nhẹ nhõm thấy đó là người da trắng, có lẽ lớn hơn anh vài tuổi, với gương mặt nhợt nhạt, âu lo, và mái tóc hoe đỏ bù xù. Anh này lộ vẻ bị làm phiền hà nhưng tỉnh táo.

Anh ta cáu kỉnh cất tiếng: “Trời ơi! Như vậy đúng là...”

“Xin chào!” Donald càng vui hơn khi nghe ngữ âm Scotland.

Người đàn ông trấn tĩnh lại phần nào: “À... xin chào. Tôi xin lỗi, đã lâu lắm rồi chúng tôi mới có khách, mà lại trong mùa đông... bất thường. Tôi đã quên cách cư xử…”

Donald chìa bàn tay ra, lắc lư: “Donald Moody, kế toán Công ty ở Pháo đài Edgar.”

“À, Ông Moody. Ờ... Nesbit. Frank Nesbit, phó quản trị viên.”

Trong khoảnh khắc, Donald hoang mang vì cụm từ “phó quản trị viên”, vì đó là chức danh anh chưa từng nghe nói đến, nhưng anh vẫn nhớ mình nên tỏ ra bay bướm đối với Bà Ross: “Xin giới thiệu đây là Bà Ross, và đây là...” Parker đã quay lại, trông có vẻ đe dọa khi cầm cây gậy trên tay, “... à, Parker, người đã dẫn đường cho chúng tôi đến đây.”

Nesbit bắt tay với họ, rồi nhìn xuống chân của Donald, lấy làm kinh hãi: “Trời ơi, chân anh... anh không có giày ủng sao?”

“Có chứ, nhưng tôi bị khó chịu nên đã cởi ra, đằng kia... không có chi đâu, thật mà. Chỉ là mấy bong bóng nước, anh biết đó.”

Donald cảm thấy cảm giác như đầu nhẹ tênh dễ chịu, và tự hỏi liệu mình sắp ngã xuống hay không. Nesbit không có vẻ vội vàng đưa họ vào bên trong, tuy trời đã tối và lạnh thêm. Anh có vẻ như lo lắng và luống cuống, tự hỏi có nên cho họ ở trong nhà khách đã bị bỏ hoang, hoặc chính anh phải ra khỏi khu nhà của mình để nhường cho họ.... Cuối cùng, sau khi đã dao động trong khoảng thời gian mà đối với Donald như cả hàng giờ vì cái chân đã mất cảm giác, Nesbit dẫn họ vòng qua góc tòa nhà, đi dọc một hành lang không ánh sáng rồi mở ra cánh cửa của một gian phòng rộng, không được sưởi ấm.

“Có lẽ xin quý vị vui lòng chờ ở đây trong chốc lát. Tôi sẽ đi tìm người đốt lò sưởi và mang món nóng gì đó. Xin lỗi...”

Nesbit đi ra ngoài, đóng sầm cánh cửa lại. Donald khập khiễng đi đến lò sưởi trống không và buông người xuống chiếc ghế kế bên.

Parker nói ông đi chăm sóc hai con chó, rồi biến mất. Donald nghĩ đến Pháo đài Edgar, nơi khách viếng thăm luôn là lý do cho niềm hồ hởi, và được đối xử như hoàng gia. Có lẽ phân nửa số nhân viên đã bỏ đi; anh nhận thấy lò sưởi rất dơ bẩn, rồi anh không thể chống chọi được nữa với cơn kiệt sức đang chờ cho anh có lý do mà nhắm mắt lại.

“Anh Moody!”

Tiếng nói của bà sắc lẻm, khiến cho anh phải mở mắt ra.

“Hả? Vâng, Bà Ross?”

“Ta không nên nói gì về lý do tại sao ta đến đây, không nên nói ra tối nay. Để xem sự thể như thế nào đã. Ta không muốn họ chuẩn bị đề phòng rồi chống chế.”

“Tùy ý bà.” Anh lại nhắm mắt. Anh cần ngủ rồi mới có thể thảo luận một cách thông suốt. Quả là hạnh phúc khi được thoát ra khỏi cái lạnh cắt da.

Anh có cảm tưởng mình mới thiếp đi chỉ trong chốc lát, nhưng khi anh mở mắt, lò sưởi đã được đốt, còn Bà Ross thì không thấy đâu. Khung cửa sổ đã tối đen; anh không biết bây giờ là mấy giờ. Nhưng quả là sự xa hoa được ngồi trong không gian ấm áp mà anh không muốn cử động. Ước gì có một chiếc giường; nó sẽ trả lại sinh lực cho anh. Rồi tuy vẫn còn mệt nhọc, anh vẫn nhận ra có một người khác trong phòng. Anh quay đầu và thấy một phụ nữ mang hai dòng máu, người đã mang vào một tô nước nóng và ít bông băng. Cô gật đầu với anh rồi ngồi trên sàn, kế bên đôi chân anh, bắt đầu tháo ra lớp vải lanh dính máu khô.

“Cám ơn cô.” Donald có phần ngượng nghịu vì việc chăm sóc, và vì lớp bông băng cũ trông gớm ghiếc. Anh không thể kiềm nén ngáp một cái như muốn trẹo quai hàm: “Tôi là... Donald Moody, kế toán Công ty ở Pháo đài Edgar. Tên cô là gì?”

Cô ít nhìn anh, chỉ lo rửa vết thương trên chân anh. Donald tự cho phép mình ngả đầu tựa thành ghế, thấy mừng vì không phải nói nhiều hoặc thậm chí không phải suy nghĩ. Có thể cho đến ngày mai anh mới thi hành nhiệm vụ của mình. Từ bây giờ đến lúc ấy, theo nhịp độ bàn tay người phụ nữ da ngăm đen đang lau chùi chân anh, anh có thể ngủ và ngủ và ngủ.

༺༒༻

Khoảnh sân hoàn toàn tối đen, và tôi không thể nghe tiếng hai con chó nữa, như thế quả là điều lạ lùng. Bình thường, khi chó từ bên ngoài đi đến thì tất cả các con chó thi nhau sủa và gầm gừ. Nhưng ở đây, khi chúng tôi đến thì hoàn toàn yên ắng. Tôi lên tiếng gọi Parker. Một trận gió thổi quật quanh tôi và ít bông tuyết đâm vào mặt tôi. Không có tiếng trả lời, và tôi lại kinh sợ; có lẽ vì bây giờ chúng tôi đã đến đây, ông ta đã đi bất kỳ đâu đấy để lo công chuyện riêng của ông. Ngay khi tôi vừa cảm thấy lệ dâng lên khóe mắt, có người mở một cánh cửa bên tay trái tôi và một luồng ánh sáng hình chữ nhật tỏa xuống mặt tuyết.

Có tiếng tranh cãi nóng vội, và tôi nghe tiếng của Nesbit: “Không được nói gì về ông ấy thì tốt hơn, nếu không sẽ biết tay tôi. Đúng ra, tốt hơn mà đứng ngoài vụ này.”

Tôi không nghe rõ tiếng nói kia - nhưng đấy là tiếng của một phụ nữ đang phản ứng lại. Không kịp nghĩ ngợi cho thông suốt, tôi bước vào bóng tối của một mái hiên. Nhưng tôi không còn nghe gì nữa, cho đến khi Nesbit chốt lại cuộc tranh cãi - nếu đúng là tranh cãi - với lời càu nhàu: “Ôi, vì Chúa, cứ làm như cô muốn. Chỉ cần chờ cho đến khi ông ấy trở về.”

Cánh cửa đóng sầm và Nesbit bước ngang qua khoảnh sân, một bàn tay chải qua tóc nhưng không làm cho tóc anh bớt lù xù. Tôi mở cánh cửa rồi khép lại sau lưng mình và bước ngang qua khoảnh sân để gặp anh, làm như là lúc ấy tôi vừa mới đi ra ngoài.

“À, anh Nesbit, anh ở đây...”

“À, Bà...” anh ngưng bặt, hai bàn tay giơ lên.

“Ross.”

“Bà Ross, đúng rồi. Tôi xin lỗi. Tôi vừa...” Anh cười: “Tôi xin lỗi vì đã bỏ bê bà. Có ai đốt lò sưởi chưa? Xin bà thứ lỗi cho chúng tôi lúc này. Tôi e chúng tôi neo người, và vào mùa này trong năm...”

“Không cần thiết phải xin lỗi. Chúng tôi đến đây quá bất ngờ làm phiền anh.”

“Không làm phiền. Không làm phiền gì hết. Công ty tự hào có tính hiếu khách và đại loại như thế... Còn hơn là hân hạnh, xin bà tin đi.” Anh mỉm cười với tôi, dù có vẻ gượng gạo: “Xin mời bà dùng bữa tối với tôi... dĩ nhiên là cả Ông Moody và Ông Parker nữa.”

“Anh Moody thiếp ngủ khi tôi đi ra ngoài. Tôi e anh ấy có nhiều bong bóng nước.”

“Còn bà không có sao? Phải nói đó là đáng kể. Bà nói bà đi từ đâu?”

“Chúng ta đi vào bên trong nhé? Trời lạnh quá...”

Tôi không chắc phải mở đầu câu chuyện như thế nào. Tôi đã muốn bàn với Parker về việc này, nhưng Parker đã đi đâu mất. Tôi đi theo Nesbit dọc một hành lang khác - dường như có nhiều cửa mở ra hành lang này - rồi đi vào một gian phòng nhỏ ấm cúng, có lò sưởi đang cháy. Một chiếc bàn loại cao cấp đặt ở giữa phòng, với hai chiếc ghế. Trên tường là những ảnh màu của ngựa đua và võ sĩ đoạt giải, được cắt ra từ các tạp chí.

“Xin mời bà ngồi. Vâng. Ở đây có phần ấm hơn, phải không? Không gì bằng một lò sưởi nóng ở nơi chốn quái quỷ này.”

Rồi thình lình anh bước ra khỏi phòng mà không báo trước, khiến cho tôi tự hỏi chuyện gì vừa xảy ra. Tôi chưa mở miệng gì hết.

Trong số các võ sĩ và ngựa đua có vài ảnh đẹp, và tôi thấy rằng đồ nội thất cũng thuộc loại tốt; hàng nhập khẩu chứ không phải nội địa. Chiếc bàn làm bằng gỗ xà cừ, bóng lên qua sử dụng và thời gian; hai chiếc ghế có lưng dựa hình đàn lia, có lẽ là hàng Ý. Phía trên lò sưởi treo một tấm ảnh thể hiện cảnh đi săn được lồng khung mạ vàng, nền đậm và áo choàng đỏ sáng rực của thợ săn. Và có ly cốc bằng thủy tinh chì nặng, được chạm một cách tinh tế với hình những con chim. Một người nào đó ở đây có đầu óc thưởng ngoạn và có văn hóa, và tôi nghĩ đấy không phải là Nesbit.

Nesbit quay trở vào với thêm một chiếc ghế: “Bình thường, bà biết chứ...” anh ta nói như thể mình đã không đi khỏi chúng tôi chỉ có hai người, “… ý tôi nói là nhân viên cấp cao, vì thế chúng tôi rất thầm lặng. Tôi đã yêu cầu bữa tối, để... A ha, dĩ nhiên là vậy!” Vừa ngồi xuống anh ta đã đứng bật dậy: “Tôi nghĩ bà thích một ly cô-nhắc. Tôi có loại ngon. Tự tôi mang đến, từ Kingston[45], mùa hè hai năm trước.”

“Chỉ một ly nhỏ thôi. Tôi sợ nếu uống thêm sẽ gục tại chỗ.” Đấy là sự thật. Lần thứ nhất sau nhiều ngày, không gian ấm cúng đã ngấm vào tay chân tôi, khiến cho đôi mắt tôi nặng trĩu.

“Được, chúc sức khỏe. Chuyện gì đã khiến cho bà và hai người bạn của bà đi đến đây - để chúng tôi bất ngờ có hân hạnh đón tiếp?”

“Chúng tôi đi từ Himmelvanger - anh biết chỗ ấy không?”

Nesbit đăm đăm nhìn tôi qua đôi mắt nâu mãnh liệt: “Không, không, tôi không biết.”

“Đấy là một cộng đồng tín đồ Lutheran. Người Na Uy. Họ muốn xây dựng một cộng đồng nơi họ có thể sống tốt đẹp trong tầm nhìn của Thượng đế.”

“Thật đáng khâm phục.”

Những ngón trên bàn tay phải của anh không ngừng mân mê đuôi cây bút chì, xoay qua xoay lại, khẽ gõ trên mặt bàn; và tôi nhớ ra cái gì đấy. Laudanum, hoặc có lẽ strychnine. Có Trời mà biết được vận rủi nào đã mang anh đến đây, cách xa dược sĩ và bác sĩ.

“Chúng tôi đến đây bởi vì...” Tôi ngưng lại, thở nặng nề: “Quả là đau đớn mà kể lại... đứa con trai tôi bỏ đi khỏi nhà. Lần cuối cùng người ta thấy nó là ở Himmelvanger, và từ đó, có dấu chân dẫn đến hướng này.”

Khuôn mặt của Nesbit, đôi mắt mãnh liệt đã khiến tôi rùng mình, bây giờ có phần dịu lại. Có lẽ anh đang trông chờ điều gì khác.

“Dấu chân dẫn đến hướng này phải không? Đến tận đây hay sao?”

“Có vẻ như thế, mặc dù sau cơn bão tuyết, chúng tôi không thể dám chắc.”

Anh xác nhận với vẻ suy tư: “Đúng vậy.”

“Nhưng Ông Parker nghĩ có thể là ở đây. Không có nhiều khu định cư trong vùng này, thật ra tôi tin là có rất ít.”

“Đúng. Chúng tôi khá là biệt lập. Anh ấy... trẻ lắm không, con trai bà đó?”

Tôi nhìn xuống: “Mười bảy. Anh có thể hiểu được tôi lo lắng đến thế nào.”

“Vâng, đương nhiên. Còn Ông Moody...”

“Anh Moody đã có lòng tốt mà đi cùng tôi bởi vì chúng tôi đi đến một thương điếm Công ty. Tôi biết anh ấy rất muốn gặp quản trị viên của anh.”

“À, vâng, hẳn rồi. Này, Ông Stewart đã đi vắng trong một chuyến đi ngắn, nhưng một hay hai ngày nữa ông ấy sẽ trở về.”

“Ông ấy có láng giềng không?”

“Không. Ông ấy đi săn. Đó là sở thích của ông ấy.”

Nesbit đã uống cạn ly rượu rồi rót thêm. Tôi nhấm nháp ly của mình một cách chậm rãi: “Thế là... anh chưa trông thấy hay nghe nói đến người lạ mặt nào hay sao?”

“Tiếc là không. Không có ai hết. Nhưng có lẽ ông ấy gặp một bộ lạc Da Đỏ, hoặc người đặt bẫy... Đủ mọi loại người đến và đi. Bà sẽ ngạc nhiên khi biết người ta đi lang thang khắp cùng ngay cả trong mùa đông.”

Tôi lại thở dài và ra vẻ tuyệt vọng, mà không khó khăn phải làm thế. Anh rót thêm rượu vào ly của tôi.

Cánh cửa mở, và một phụ nữ Da Đỏ thấp, béo, mà tôi không thể đoán tuổi, bước vào với một chiếc khay. Với tia nhìn ra vẻ đe dọa về phía Nesbit, cô nói: “Anh kia, anh ấy muốn ngủ.”

“Vâng, được rồi Norah. À, để xuống... cảm ơn. Chị xem có thể đi tìm ông kia được không?”

Giọng ông có vẻ mỉa mai. Người phụ nữ đặt vội chiếc khay xuống bàn với tiếng động mạnh.

Với vẻ phô trương vụng về, Nesbit mở chiếc khay ra và tiếp cho tôi một đĩa bít tết nai sừng tấm và bắp băm. Chiếc đĩa trông đẹp, kiểu Anh, nhưng món bít tết không được tươi và có nhiều xương xẩu; không ngon hơn nhiều so với các món chúng tôi đã ăn dọc đường. Tôi phải cố gắng giữ cho đôi mắt không nhắm lại và giữ tinh thần còn lanh lợi. Nesbit ăn ít nhưng uống rượu liên tục, vì thế may mà ý tưởng của anh không được sắc bén lắm. Tôi mong anh nói ra nhiều hơn bây giờ, tối nay, trong khi anh không có lý do nào mà nghi ngại.

“Thế thì, những ai đang sống ở đây? Có nhiều người không?”

“Chúa tôi! Không! Chúng tôi là nhóm rất nhỏ. Ở đây không phải chính xác là trung tâm của xứ sở lông thú. Không còn nữa.” Anh mỉm cười một cách chua cay, nhưng tôi nghĩ không phải do tham vọng cá nhân bị ngăn trở: “Có Ông Stewart, quản trị viên, là một trong những người tốt nhất mà bà có thể mong gặp. Rồi có gia nhân khiêm tốn của bà đây, chỉ làm chuyện sai vặt...!” Anh làm động tác giả cúi đầu chào với vẻ mỉa mai: “… và rồi có vài gia đình hai dòng máu và bản địa quanh đây.”

“Người phụ nữ mới vào, Norah, là vợ của một nhân viên phải không?”

“Phải.” Nesbit lại nốc thêm whisky.

“Còn các nhân viên tải hàng làm gì trong mùa đông?” Tôi nghĩ đến người mặc quần áo phong phanh đứng trên sân. Anh ta có vẻ như không đứng vững được.

Dường như Nestbit đọc được ý nghĩ của tôi: “À, có rất ít công việc, như bây giờ, tôi e họ... dễ bị cám dỗ. Mùa đông rất dài.”

Đôi mắt anh đã mất tập trung, trông như thủy tinh, chớm đỏ màu máu, tuy tôi không rõ do rượu hay do cái gì khác.

“Nhưng dù thế người ta vẫn di chuyển đây đó…”

“Đúng, có môn săn bắn và đại loại như vậy cho đàn ông - và Ông Stewart... Tôi thì không thích.” Anh ra một điệu bộ thanh lịch để tỏ vẻ kinh tởm: “Dĩ nhiên là có đặt bẫy một ít. Chúng tôi có gì được nấy.”

Tôi cố giữ giọng nói của mình được bình thản nhưng pha chút buồn rầu: “Có ai sống ở đây đi từ hướng tây-nam lúc gần đây không? Tôi chỉ băn khoăn liệu dấu vết chúng tôi thấy có thể là một nhân viên của anh, mà không phải của con trai tôi. Nếu thế, chúng tôi sẽ biết mà... đi tìm nơi khác.”

“Một nhân viên của chúng tôi…?” Anh tỏ vẻ rất mơ hồ, lông mày nhíu lại trông buồn cười. Nhưng mà, anh đã say. “Tôi không nghĩ ra... không, theo tôi được biết, tôi có thể hỏi...”

Anh mỉm cười với tôi một cách thẳng thắn. Tôi biết anh nói dối, nhưng tôi đã quá mệt mỏi nên khó mà chắc chắn mọi điều. Ước muốn thiết tha được nằm xuống ngủ bỗng dưng trở nên bức thiết như cơn đau về thể chất. Thêm một phút nữa thì tôi không thể gượng nổi.

“Xin lỗi, anh Nestbit, tôi... phải đi nghỉ.”

Nesbit đứng dậy nắm chặt cánh tay tôi, như thể anh nghĩ tôi sắp té ngã hoặc chạy đi mất. Ngay cả gió lạnh thình lình ngoài hành lang không thể giúp cho tôi được tỉnh táo.

Có cái gì đấy đánh thức tôi. Trời đã gần tối hẳn, vắng lặng ngoại trừ tiếng gió thổi. Trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ có một người nào khác trong phòng, và tôi ngồi dậy với một tiếng kêu mà tôi không kiềm chế được. Khi mắt tôi đã quen với bóng tối, tôi nhận ra không có ai ở đây. Nhưng có cái gì đấy đánh thức tôi, và tôi cảnh giác, tim đập thình thịch, tai cố lắng nghe âm thanh nhỏ nhất. Tôi cầm lấy cây đèn nhưng không hiểu sao không muốn thắp sáng. Tôi rón rén bước ra cánh cửa. Cũng không có ai bên ngoài.

Những tiếng răng rắc và kẽo kẹt vang lên từ lớp mái gỗ, do gió thổi luồn dưới các tấm ngói. Và một tiếng răng rắc lạ kỳ, rất nhỏ. Tôi lắng nghe ở mỗi cánh cửa một hồi lâu trước khi mở chốt nhìn vào trong. Một phòng bị khóa; phần lớn các phòng khác trống không, nhưng qua khung cửa sổ của một phòng trống tôi thấy một ánh sáng lờ mờ màu lam nhạt bên ngoài, một bức màn ánh sáng nhấp nháy ở hướng bắc chiếu xuyên qua bóng tối và cho tôi thấy cảnh tượng này.

Tôi mở một cánh cửa và thấy Moody, khuôn mặt non trẻ và trông yếu đuối khi không mang kính. Tôi nhanh chóng đóng cánh cửa lại. Tôi nghĩ đến Parker. Tôi phải đi tìm Parker. Tôi cần nói chuyện với ông. Về những gì tôi đang làm, và trước khi tôi làm chuyện gì đấy ngu xuẩn không tưởng tượng nổi. Nhưng bên trong vài cánh cửa kế tiếp, tôi không thấy gì cả, rồi một cánh cửa khiến tôi rùng mình vì sốc. Nesbit đang nằm ngủ say sưa, và nằm kế bên anh là người phụ nữ Da Đỏ đã dọn bữa tối, một cánh tay béo quàng qua ngực anh, màu sẫm nổi trên màu da trắng như sữa. Hai người thở lớn tiếng. Tôi đã có cảm tưởng là cô ghét anh ta, nhưng hai người ở đây, và có một vẻ ngây thơ về giấc ngủ của họ gây xúc cảm một cách lạ kỳ. Tôi nhìn họ lâu hơn là mình muốn và rồi, không phải vì họ sẽ bất ngờ thức dậy, tôi cẩn thận đóng cánh cửa.

Cuối cùng, tôi tìm ra Parker ở nơi mà tôi ít ngờ nhất: trong chuồng gia súc, kế bên hai con chó. Ông quấn người trong một tấm chăn mà ngủ, mặt hướng về cánh cửa. Thình lình cảm thấy hoang mang, tôi thắp đèn và ngồi xuống để chờ. Mặc dù trong nhiều ngày hai chúng tôi đã từng ngủ cách nhau ít mét trong lều, nhưng dưới một mái gỗ có vẻ như không phải phép khi tôi nhìn ông ngủ, ngồi bó gối trên ổ rơm bên cạnh ông, như là tên trộm.

Sau một chốc, ánh sáng làm cho ông thức dậy.

“Ông Parker, tôi đây, Bà Ross.”

Xem dường ông tỉnh hẳn nhanh chóng, chứ không phải như tôi phải sật sừ một lúc. Gương mặt ông vẫn không biểu lộ cảm xúc như bao giờ, hiển nhiên là ông không tức giận mà cũng không ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây.

“Có chuyện gì xảy ra sao?”

Tôi lắc đầu: “Có cái gì đấy đánh thức tôi, nhưng tôi không tìm thấy gì cả. Tối qua ông đi đâu?”

“Tôi chăm sóc hai con chó.”

Tôi chờ cho ông nói thêm, nhưng không có gì.

“Tôi dùng bữa tối với Nesbit. Anh ấy hỏi chúng ta đang làm gì. Tôi nói chúng ta đang đi tìm con trai tôi đã bỏ nhà ra đi, và lần cuối cùng được trông thấy ở Himmelvanger. Tôi hỏi anh ấy gần đây có ai ở đây trở về sau một chuyến đi hay không, và anh ấy nói không biết. Nhưng tôi nghĩ anh ấy không thẳng thắn lắm.”

Parker ngồi dựa vào bức tường của chuồng gia súc và nhìn tôi với vẻ suy tư: “Tôi đã nói chuyện với một cặp vợ chồng. Họ nói gần đây không có ai ra đi, nhưng họ không vui. Khi nói chuyện họ nhìn ra xa, hoặc nhìn qua vai tôi.”

Tôi không biết ý nghĩa ra sao. Thế rồi, rất nhỏ nhưng rõ ràng, như thể từ nơi xa xôi, tôi nghe tiếng gì đấy khiến cho tôi ớn lạnh xương sống. Một tiếng tru lâng lâng, thê lương nhưng lãnh đạm. Một bản giao hưởng của những tiếng tru. Hai con chó thức giấc và một tiếng tru trầm trầm phát ra từ góc chuồng gia súc.

Tôi liếc qua Parker, nhìn đôi mắt đen của ông: “Chó sói?”

“Đằng xa.”

Tôi biết chúng tôi được bao bọc bởi tường thành vững chắc, và bức thành này được trang bị đại bác, nhưng dù sao âm thanh vẫn làm cho tôi kinh hãi. Tôi nhớ đến khu nhà cho thuê chật chội. Tôi cảm thấy an toàn ở đấy. Có lẽ tôi run bắn lên, và xích lại gần Parker hơn.

Parker nói: “Họ thiếu thốn nhiều thứ ở đây. Việc săn bắn không khá. Không có nhiều thực phẩm.”

“Làm thế nào như vậy được? Đây là thương điếm Công ty.”

Ông lắc đầu: “Có thương điếm được quản lý không tốt.”

Tôi nghĩ đến Nesbit trong cái nôi ma túy. Nếu anh ta có nhiệm vụ quản lý thương điếm và các hàng hậu cần, thì đấy không phải là điều ngạc nhiên.

“Nesbit là người nghiện. Nha phiến hay đại loại như thế. Và...” Tôi nhìn ổ rơm: “Anh ta... có quan hệ với một phụ nữ Da Đỏ.”

Tôi không thể kiềm chế nhìn vào đôi mắt ông lúc này đang mở to ra. Cả hai chúng tôi đều không nói gì, như thể là bị thôi miên. Bỗng dưng tôi nhận biết mình đang thở rất mạnh, và tôi tin chắc ông có thể nghe tim tôi đập. Ngay cả các con sói đã im lặng, lắng nghe.

Tôi quay mặt đi, cảm thấy đầu óc nhẹ tênh: “Tôi nên quay về. Tôi chỉ nghĩ nên đi tìm ông để... bàn bạc sáng mai phải làm gì. Tôi nghĩ tốt hơn nên giấu lý do thật sự ta đến đây. Tôi đã nói với Moody như thế, tuy sáng mai anh ấy muốn làm gì thì tôi không rõ.”

“Tôi nghĩ chúng ta phải đợi Stewart trở về mới biết được.”

“Ông biết gì về ông ấy?”

Sau một phút đắn đo, Parker lắc đầu: “Để đến khi gặp tôi mới biết được.”

Tôi chờ thêm một khoảnh khắc, nhưng không còn lý do nào để ngồi thêm. Khi tôi đứng lên, tay tôi chạm phải chân ông trên ổ rơm. Tôi không biết chân ông đặt ở đấy, tôi xin thề, hoặc là ông cử động để chạm đến tôi. Tôi giật bắn người như bị bỏng, rồi nhấc lấy cây đèn. Trong ánh sáng lung linh và bóng tối, tôi không nhận biết vẻ mặt ông ra sao.

“Chúc ngủ ngon.”

Tôi nhanh chóng bước ra sân, cảm thấy khó chịu vì ông đã không đáp lại. Gió lạnh lập tức làm mát làn da của tôi, nhưng không giúp gì được cho ý nghĩ đang quay cuồng trong tôi; chủ yếu là nỗi khao khát quay vào trong chuồng gia súc và nằm kế bên ông trên ổ rơm. Để thả lỏng mình trong mùi hương và sự ấm áp của ông. Cái gì thế - nỗi sợ hãi và bơ vơ đã phủ lấy tôi? Việc thân thể của ông chạm vào thân thể tôi trên ổ rơm chỉ là do sơ suất. Một sơ suất. Một người đã chết; Francis cần tôi giúp đỡ; chính vì thế mà tôi ở đây, không có lý do nào khác.

Vầng quang lờ mờ phương bắc trông như một giấc mơ đẹp, và gió đã ngừng thổi. Bầu trời cao một cách chóng mặt và quang đãng; không khí lạnh căng căng và ù ù cho biết không có gì giữa tôi và chiều sâu vô tận của không gian. Tôi ngẩng đầu cao lên bầu trời sau cảm giác chóng mặt. Tôi nhận ra rằng mình đang đi trên một con đường gian nan, bao quanh mọi phía là sự bất định và thảm họa tiềm tàng. Không có gì ở trong tầm kiểm soát của tôi cả. Bầu trời mở rộng bên trên như là vực thẳm, và không có gì chắn đỡ khi tôi rơi, không có gì ngoại trừ mê cung kỳ lạ của những vì sao.

༺༒༻

Donald thức dậy khi ánh sáng ban ngày chiếu bên ngoài cửa sổ. Trong một lúc, anh không nhớ ra mình đang ở đâu, và rồi sự việc quay về: điểm cuối của những dấu chân. Thời gian nghỉ ngơi sau chuyến đi như là trong địa ngục. Mỗi cen-ti-mét của cơ thể anh nhức nhối như thể anh đã bị dần cho một trận nên thân.

Trời đất!... có phải đêm qua anh đã thực sự ngất đi - lịm tắt như ngọn đèn trước gió? Người phụ nữ ấy đã chăm sóc chân anh... anh nhấc cái chân ra khỏi tấm chăn và thấy nó đã được băng lại mới, thế thì cô ấy là người thật chứ không phải trong giấc mộng. Cô có cởi quần áo anh không? Anh không nhớ gì nhưng cảm thấy xấu hổ. Chắc chắn là anh đã bị lột hết quần áo. Vết thương của anh đã được bôi thuốc mỡ và băng lại. Anh lần mò quanh giường cho đến khi tìm được cặp kính. Khi mang kính, anh cảm thấy bình tĩnh lại, có thể kiểm soát sự việc khá hơn. Bên trong: một căn phòng nhỏ, không nhiều đồ nội thất, tương tự như nhà khách của Pháo đài Edgar. Bên ngoài: hoang vắng, tuyết không rơi, nhưng chẳng bao lâu sẽ rơi lại. Anh cố ngồi dậy, nhặt lấy bộ quần áo đã được xếp ngay ngắn trên một chiếc ghế. Anh tròng quần áo vào, cử động xơ cứng như một ông già. Quả là kỳ lạ (và cũng là may mắn) sau khi đến đây, bây giờ anh lại cảm thấy tồi tệ hơn.

Anh lê bước ra hành lang, dò dẫm qua hai khoảnh sân mà vẫn chưa thấy một bóng người. Đây là thương điếm Công ty kỳ lạ nhất; không có cảnh rộn ràng như anh đã quen ở Pháo đài Edgar. Anh tự hỏi Stewart đang ở đâu, thứ kỷ luật nào ông đang duy trì. Chiếc đồng hồ đeo tay của anh đã ngưng chạy, nên anh không biết bây giờ là mấy giờ, sáng sớm hay gần trưa.

Cuối cùng, một cánh cửa mở ra ở cuối hành lang, và Nesbit xuất hiện, đóng sầm cánh cửa sau lưng. Anh ta không cạo râu, đôi mắt sâu, nhưng đã ăn mặc đàng hoàng.

“À, anh Moody! Tôi mong anh đã nghỉ khỏe. Anh cảm thấy, à... chân anh thế nào?”

“Khá hơn nhiều. Cô... Elizabeth băng bó cho tôi, rất tử tế. Tôi e mình vì quá mệt nên chưa cám ơn cô ấy.”

“Đi ăn sáng. Bây giờ họ hẳn đã đốt lửa và làm món gì đó. Có Trời mới biết được khó khăn lắm mới sai bảo được tụi nó làm việc trong mùa đông. Anh có những vấn đề này ở chỗ anh không?”

“Pháo đài Edgar hả?”

“Vâng. Ở đâu vậy?”

Donald ngạc nhiên vì anh ta không biết: “Bên Vịnh Georgian.”

“Thật là văn minh. Tôi mơ được điều đi chỗ nào đó gần… à, nơi người ta sinh sống. Nếu so ra anh hẳn thấy chúng tôi rất nghèo.”

Nesbit dẫn Donald đến căn phòng họ mới đến hôm qua, nhưng bây giờ lò sưởi đã được đốt, bàn ghế đã được mang đến từ đâu đó; Donald có thể thấy vết kéo lê trong lớp bụi trên sàn nhà. Việc chăm sóc nhà cửa ở đây không phải là ưu tiên. Anh không chắc việc gì là ưu tiên.

“Bà Ross và Ông Parker ở đâu đây chứ?”

Khi Nesbit bước đến cánh cửa, Bà Ross bước vào. Bà đã làm được gì đó đối với bộ trang phục để trông đàng hoàng hơn; mái tóc đã vén khéo. Dường như vẻ e dè mà anh nhận ra sau cơn bão tuyết đã không còn.

“Anh Moody.”

“Tuyệt vời! Bà ở đây... Còn Ông Parker?”

“Tôi không rõ.” Bà nhìn xuống; và Nesbit đi ra ngoài, gọi người phụ nữ Da Đỏ.

Bà Ross nhanh nhẹn bước đến Donald, nét mặt căng thẳng: “Ta cần bàn bạc trước khi Nesbit quay lại. Tối qua, tôi bảo anh ấy rằng ta đi tìm con trai tôi đã bỏ nhà ra đi, không phải đi tìm kẻ sát nhân. Ta không nên đánh động họ.”

Donald há hốc vì kinh ngạc: “Bà thân yêu, tôi ước gì bà bàn với tôi trước khi đặt điều sai sự thật...”

“Không có thời giờ. Đừng nói gì khác kẻo anh ấy nghi ngờ. Tốt nhất cho ta nếu họ không nghi gì, anh đồng ý không?” Đôi môi bà mím chặt, đôi mắt đanh lại như đá.

“Ngộ nhỡ...?” Anh dừng lại tiếng thì thầm khi Nesbit bước vào, theo sau là Norah với chiếc khay. Hai người mỉm cười với Nesbit, và Donald cảm thấy hiển nhiên là hai người đã thì thầm lén lút với nhau. Nếu may mắn, Nesbit sẽ đoán rằng bí mật của họ là vì chuyện lãng mạn... Anh đỏ bừng vì ý nghĩ này. Có lẽ anh đang bị sốt. Khi ngồi xuống, anh tự nhắc nhở mình về Susannah, với ít cố gắng có ý thức. Điều lạ lùng là thời gian gần đây anh đã không nghĩ đến cô.

Parker đi đến, và khi mọi người đều ăn bít tết nướng và bánh bắp - Donald ăn như thể đã bị bỏ đói nhiều ngày - Nesbit giải thích rằng Stewart đang đi săn với một nhân viên, và xin lỗi vì đã tiếp đãi thiếu sót. Tuy nhiên ông rất hãnh diện vì một thứ: ông nói một cách gay gắt với Norah về loại cà phê cô mang đến, cô mang cà phê đi rồi trở lại với một cái bình chứa một thứ hoàn toàn khác hẳn. Mùi hương lan tỏa vào phòng trước khi cô bước vào - mùi hương của hạt cà phê thật, không giống loại nào họ ngửi trong nhiều tuần qua. Khi Donald nếm thử, anh nhận ra có lẽ trước đây mình chưa bao giờ dùng loại cà phê này.

Nesbit ngả người dựa lưng vào thành ghế và cười: “Hạt cà phê từ Nam Mỹ. Tôi mua ở New York khi đi ngang qua đó. Tôi chỉ xay để pha cho những dịp đặc biệt.”

Bà Ross hỏi: “Anh Nesbit à, anh ở đây được bao lâu rồi?”

“Năm năm sáu tháng. Bà quê ở Edinburgh đúng không?”

“Lúc đầu.” Bà nói cụt ngủn, nghe như lời khiển trách.

“Và bà đến từ Perth[46] nếu tôi đoán không lầm?” Donald mỉm cười với anh, mong muốn dàn hòa. Rồi anh trừng mắt nhìn bà, ý nói: Nếu không muốn gây nghi ngờ thì bà nên tỏ ra hòa nhã.

“Kincardine[47].”

Một khoảnh khắc im lặng. Bà Ross nhìn lại Donald một cách lạnh lùng.

“Tôi tiếc chúng tôi không thể giúp các vị về việc đứa con trai đi lang thang của Bà Ross. Đấy hẳn là chuyện đáng lo.”

“À, vâng.” Donald gật đầu, lúng túng; anh không giỏi giả vờ. Và còn tức bực với bà vì bà đã giành phần chủ động từ anh, trong khi lẽ ra anh phải là người chủ trì trong sự việc liên quan đến Công ty. Anh cảm thấy hoang mang, không biết phải hành xử thế nào.

“Thế thì, anh nghĩ...” Donald bắt đầu, nhưng ngay lúc ấy có tiếng thình thịch ngoài hành lang, và tiếng la thét bên ngoài.

Nesbit thình lình bị đánh động, như một con thú, căng thẳng, rồi đứng bật dậy. Anh quay nhìn họ khẽ mỉm cười, dù có vẻ giống như nhăn nhó: “Thưa quý vị, tôi nghĩ có lẽ là Ông Stewart đã về.”

Anh gần như chạy ra khỏi phòng. Donald và những người khác nhìn nhau. Donald cảm thấy bị khinh thường - tại sao Nesbit không mời họ, hoặc ít nhất mời anh, cùng đi ra ngoài? Anh nhận ra có chuyện gì đó không ổn, khiến cho anh hoang mang. Sau một khoảnh khắc im lặng, Donald khẽ nói lời tạ lỗi, rồi ngập ngừng đi theo Nesbit ra ngoài sân.

Bốn hoặc năm người đàn ông lẫn phụ nữ đang vây quanh một người với xe trượt tuyết và đàn chó đang vướng víu nhau. Có thêm nhiều người xuất hiện từ nhiều hướng khác nhau; vài người đứng gần các tòa nhà, vài người đi thẳng đến người mới đến. Donald có thời giờ mà thắc mắc họ từ đâu mà đến; phần lớn bọn họ anh chưa từng gặp bao giờ, tuy anh nhận ra người phụ nữ có vóc người cao đã rửa vết thương trên chân anh tối qua. Người mới đến, trông cứng cáp trong bộ áo lông thú, khuôn mặt ẩn giấu dưới chiếc mũ trùm đầu bằng lông thú, đang nói chuyện với nhóm người, và rồi im lặng bao trùm. Chỉ có Donald còn tiếp tục bước đến phía họ; vài gương mặt quay nhìn trân trối anh như thể anh là con người kỳ quặc. Anh dừng lại, hoang mang, và rồi người phụ nữ có vóc người cao, vẫn luôn đứng trong nhóm đầu tiên, thốt lên một tiếng rền rĩ dài, thánh thót. Cô đổ gục xuống nền tuyết, tạo ra âm thanh cao vút nhưng nhỏ nhẹ như là thuộc thế giới bên kia, không phải là tiếng thét mà cũng không phải là tiếng nức nở. Không ai tỏ thái độ an ủi cô.

Một người đàn ông xuất hiện mở lời quở trách Stewart, nhưng Stewart nhún vai tỏ ý khinh thường rồi bước về phía các tòa nhà. Nesbit nói một cách gắt gỏng với người đàn ông kia rồi đi theo sếp của mình. Khi trông thấy Donald, anh trân trối nhìn rồi trấn tĩnh và ra dấu cho Donald quay vào bên trong. Gương mặt anh đổi màu giống như nền tuyết bẩn.

Khi họ đi khỏi tầm nghe của nhóm người ngoài sân, Donald thì thầm: “Chuyện gì xảy ra vậy?”

Nesbit mím chặt môi, rồi nói: “Thực là không may. Nepapanees bị tai nạn. Tử vong. Vợ anh ta ở ngoài kia.” Giọng nói của anh nghe giận dữ, như thể anh đang suy nghĩ: Bây giờ ra sao?

“Ý anh nói người đàn bà gục trên đất... Elizabeth? Chồng cô ấy chết rồi sao?”

Nesbit gật đầu, lẩm bẩm như để nói cho mình nghe: “Đôi lúc tôi nghĩ chúng tôi bị nguyền rủa.”

Rồi thình lình Nesbit quay ngoắt người, chắn lối đi của Donald dọc hành lang. Tuy nhiên, anh cố nở nụ cười: “Đây là chuyện không may nhất, nhưng... xin anh quay lại với những người kia nhé? Chúc anh dùng bữa sáng ngon miệng... Bây giờ tôi cần nói chuyện với Ông Stewart, trong hoàn cảnh này. Chúng tôi sẽ đến với quý vị sau.”

Donald thấy mình không có cách gì khác hơn là gật đầu, và nhìn Nesbit đi khuất khỏi một góc tòa nhà. Anh còn lẩn quẩn ở hành lang, khó hiểu và hoang mang. Có một vẻ gì đó bẩn thỉu trong thái độ của Nesbit và Stewart khi phớt lờ nỗi đau của người khác, như tuồng không muốn dính dáng tới chuyện ấy.

Thay vì quay vào phòng ăn sáng, anh trở ra sân, nơi tuyết đã bắt đầu rơi trong không gian âm thầm sánh đặc, như thể muốn nói rằng bây giờ là mùa đông, đây không phải là chuyện đùa. Những bông tuyết nhỏ li ti và rơi nhanh, dường như từ mọi hướng bay đến anh, làm mờ tầm nhìn ở khoảng cách chỉ ít mét. Chỉ có người khóc chồng còn ở nguyên chỗ cũ, thân người lúc lắc tới lui. Những người khác không thấy đâu. Donald tức giận với họ vì đã bỏ mặc cho người phụ nữ ngồi một mình. Thậm chí cô không mặc áo lạnh mà chỉ là trang phục trong nhà, để hai cánh tay trần. Anh bước đến cô.

Bây giờ cô đã im lặng, mắt mở trừng trừng nhưng không nhìn đến đâu cả, đang bứt tóc bứt tai. Cô không nhìn đến anh. Anh kinh hãi thấy chân cô lộ trần phía trên đôi giày da đanh lấm tấm trên nền tuyết.

“Xin lỗi... Bà Bird.” Anh thấy ngượng ngập, nhưng không biết gọi cô theo cách nào khác. “Bà sẽ bị lạnh cóng ngoài này. Cho phép tôi giúp bà.”

Anh giơ một bàn tay ra, hy vọng cô sẽ nắm lấy, nhưng không. Những bông tuyết bám vào lông mi và tóc cô, tan chảy trên hai cánh tay. Cô không màng phủi cho sạch. Khi nhìn cô, Donald có ấn tượng với khuôn mặt thanh tú, ngoại hình thanh tú, gần giống người Anh. Nhưng mà người có hai dòng máu là thế, giống người da trắng hơn là Da Đỏ.

“Xin vui lòng...” Anh đặt một bàn tay lên cánh tay cô, và thình lình tiếng than khóc lại nổi lên. Anh kinh hãi thụt lùi lại; tiếng than khóc kỳ lạ đó nghe như ma quỷ, như thú rừng. Anh mất can đảm. Dù sao chăng nữa, anh biết gì về cô hoặc người chồng quá cố của cô? Anh có thể nói gì cho cô nguôi ngoai nỗi đau?

Donald nhìn quanh quất để tìm sự hỗ trợ hoặc người chứng. Không thấy bóng người qua lại trong màn tuyết chóng mặt, cho dù qua khung cửa sổ đối diện anh thấy một bóng người lờ mờ, có vẻ như đang ngắm nhìn.

Anh đứng dậy - anh đang ngồi xổm - và quyết định đi tìm một người nào khác. Có lẽ một người bạn gái có thể thuyết phục cô đi vào bên trong. Anh phủi tuyết khỏi quần mình và đi xa khỏi khung cửa sổ kia, tuy anh vẫn quay ngoái lại nhìn người phụ nữ ở đó. Chỉ là một hình bóng màu đen bị tuyết che phủ một phần, giống như hình một người loạn trí trong một bức vẽ Nhật Bản. Anh có một ý tưởng vui: anh sẽ mang cho cô loại cà phê đó - đây là việc tối thiểu mà Nesbit có thể làm được. Anh tin chắc cô sẽ không uống, nhưng có lẽ cô sẽ vui khi anh làm thế.

༺༒༻

Line nằm thao thức, vẫn còn mặc nguyên bộ trang phục, nhìn qua khung cửa sổ không có màn. Torbin và Anna đang ngủ say bên cạnh. Cô đã không nói gì với chúng, vì không tin tưởng chúng sẽ giữ kín một bí mật như thế. Chẳng bao lâu cô sẽ đánh thức chúng rồi ăn mặc cho chúng, làm ra vẻ như đó là một cuộc phiêu lưu. Hai đứa trẻ không biết gì về kế hoạch của cô. Chỉ sau khi đã đi xa khỏi Himmelvanger, cô mới cho chúng biết. Cô ước gì mình đi đến điểm hẹn sớm hơn - mọi người đã đi ngủ hơn một tiếng đồng hồ rồi. Một tiếng đồng hồ đi đường bị uổng phí. Cô cảm thấy nóng một cách khó chịu, vì cô đã mặc những lớp áo lót dưới hai lớp váy cùng tất cả những chiếc áo sơ mi mặc chồng lên nhau, cho tới lúc hai cánh tay cô trông như hai thỏi xúc xích được nén chặt. Espen cũng làm thế. Thuận lợi trong mùa đông. Cô liếc qua chiếc đồng hồ lần nữa, quay hai cây kim theo ý mình; cô không chờ đợi được nữa.

Cô nghiêng người qua đánh thức hai đứa trẻ: “Nghe này, chúng ta đi chơi. Nhưng quan trọng là phải giữ im lặng, thật sự im lặng. Được chứ?”

Anna sật sừ chớp mắt: “Con muốn ngủ.”

“Con có thể ngủ sau. Bây giờ chúng ta có cuộc phiêu lưu. Này này, mặc cái này vào, nhanh lên.”

“Chúng ta đi đâu?” Torbin có vẻ phấn khích hơn. “Bên ngoài trời còn tối.”

“Gần sáng rồi, xem này - năm giờ. Các con đã ngủ nhiều tiếng đồng hồ rồi. Chúng ta phải đi sớm để hôm nay đến đó.”

Cô kéo chiếc áo của Anna qua đầu cô bé.

“Con muốn ở lại.”

“Không được, Anna.” Chỉ mới lên năm tuổi; do đâu mà cô bé cứng đầu đến thế? “Mặc cái áo này chồng lên cái kia. Trời sẽ lạnh. Mặc theo cách này thì không phải mang nhiều.”

“Chúng ta đi đâu?”

“Miền Nam. Ở đó ấm hơn.”

“Elke đi được không?” Elke là bạn thân nhất của Torbin và là con gái của Britta.

“Có lẽ sẽ đi sau. Có lẽ vài người khác cũng đi.”

“Con đói bụng.” Anna không vui và muốn mọi người biết điều này. Line cho mỗi đứa trẻ một chiếc bánh quy do cô ăn cắp cho dịp này, để mua sự im lặng của chúng.

Cô bắt chúng hứa sẽ giữ im lặng, nghe ngóng ở hành lang trong một phút rồi kéo chúng đi theo. Cô đóng lại cánh cửa của căn phòng mà họ đã cư ngụ trong ba năm qua. Tất cả đều vắng lặng. Chiếc túi nặng nề chứa thực phẩm và ít món vật dụng cá nhân - mà cô không đành bỏ lại - va đập vào lưng cô. Họ đi ngang qua khoảnh sân đến chuồng gia súc. Khung cảnh tối đen vì không có ánh trăng; cô vấp ngã và lầu bầu chửi rủa. Torbin há hốc miệng vì ngôn từ cô đã dùng, nhưng cô không có thời giờ để lo lắng chuyện này. Line có cảm giác hàng nghìn đôi mắt đang nhìn sau lưng mình, nỗi sợ hãi khiến cô nắm chặt lấy tay hai đứa trẻ, cho đến lúc Anna rên rỉ.

“Mẹ xin lỗi con yêu. Ta tới rồi, xem kìa.” Cô mở cánh cửa chuồng gia súc. Càng tối hơn nhưng ấm hơn, với âm thanh của các con ngựa dậm móng xuống cỏ khô. Cô dừng lại, nghe ngóng tiếng anh.

“Espen?”

Anh chưa đến, vì họ đến sớm vài phút. Cô mong anh đừng chính xác giờ giấc quá. Đáng lẽ họ đã có thể ra đi từ một tiếng đồng hồ trước, mỗi bước càng rời xa khỏi Himmelvanger hơn. Cô để cho hai đứa trẻ ngồi xuống trong một chuồng trống.

Chỉ vài phút nữa thôi, rồi Espen sẽ đến.

Cô không có đồng hồ, nhưng có thể ước tính thời gian trôi qua với việc các ngón tay và ngón chân bị tê cóng, và các ngón tay cô đã có cảm giác như nước đá. Hai đứa trẻ cựa quậy một lúc, nhưng bây giờ Anna đã co mình lại mà thiếp ngủ, còn Torbin ngồi dựa vào cô mà chập chờn. Ít nhất một tiếng đồng hồ đã trôi qua từ khi họ đến đây, và không ai đến. Rồi cô bắt đầu nghĩ, có lẽ anh nghĩ đó là hai giờ, có lẽ anh đã nhầm. Rồi thì, với thời khắc trôi qua và vẫn không có ai đến, cô tưởng tượng rằng Merete đã không ngủ được, và rằng đứa bé hoặc cơn bệnh hoặc nguyên do gì đó đã khiến cho anh không ra đi được. Có lẽ anh đang nằm trằn trọc, chửi rủa và lo lắng cho cô.

Và rồi, có lẽ chẳng bao giờ anh muốn đến.

Cô tính toán điều khả dĩ ảm đạm này. Không. Anh không thể làm cho cô thất vọng như vậy được. Cô lay cho hai đứa trẻ thức dậy, một cách mạnh bạo hơn cần thiết.

“Nghe này. Có sự chậm trễ. Hóa ra chúng ta không thể đi tối nay được. Chúng ta sẽ đi tối mai. Mẹ xin lỗi...” Cô chặn ngang những lời than phiền: “Mẹ xin lỗi, nhưng hoàn cảnh là vậy.”

Cô nhớ lại mình đã nói câu này khi bảo hai đứa trẻ là cha chúng sẽ không bao giờ trở về và chúng phải đi sống ở nơi xa xôi. “Không ích gì mà than van. Hoàn cảnh là vậy.”

Cô bắt hai đứa trẻ thề thốt phải giữ bí mật - nếu nói với bất cứ ai về việc này thì chúng sẽ không được đi chơi đâu hết, và cô đã vẽ vời một hình ảnh ở miền Nam ấm áp khiến cho cả hai mê thích. Hy vọng rằng một ngày nào đó ngay cả chúng có thể đi tới đó.

Khi cô đứng dậy và bắt đầu dẫn hai đứa trẻ quay lại phòng ngủ - ít nhất trời vẫn còn tối - có một chuyển động gần cánh cửa. Cô điếng người, và hai đứa trẻ cũng thế, vì bị ảnh hưởng lây từ nỗi sợ hãi của cô.

Rồi có một giọng nói: “Có ai ở đây không?”

Trong một thoáng - chỉ một phần tích tắc cô tin đó là Espen, và tim cô nhảy dựng lên. Rồi cô nhận ra đó không phải là giọng nói của anh. Họ đã bị phát hiện.

Người đàn ông bước đến ba mẹ con. Cô bất động vì bị sốc. Liệu cô có thể nói gì? Trong tích tắc kế tiếp, cô nhận ra là anh ta nói tiếng Anh, không phải tiếng Na Uy. Đấy là cái anh Jacob có hai dòng máu. Cô đã không bị phát hiện, chưa bị. Anh đốt đèn lên, và giơ nó lên cao giữa anh và cô.

“À, Bà...” Rồi anh nhận ra là mình không biết - hoặc không thể phát âm - tên cô. “Chào Torbin. Chào Anna.”

Line nói một cách xơ cứng: “Tôi xin lỗi nếu quấy rầy anh. Anh đang làm gì ở đây? Anh có ngủ trong chuồng gia súc không?”

“Không, không sao.”

“Được rồi. Chúc ngủ ngon.”

Cô mỉm cười rồi bước qua anh, và khi hai đứa trẻ đang đi phía trước qua khoảnh sân, cô quay lại: “Xin anh vui lòng, nhất thiết đừng nói gì về chuyện này với bất cứ ai. Ai cũng vậy. Tôi van anh... nếu không đời tôi không đáng sống, tôi không thể nào nói rõ hơn nữa. Tôi tin anh được không?”

Jacob đã tắt đi chiếc đèn bão, như thế nhận thức được cần thiết phải giữ bí mật. Anh chỉ nói đơn giản: “Được.” Thậm chí anh không tỏ vẻ hiếu kỳ: “Cô tin tôi được.”

Line giúp hai đứa trẻ thay trang phục và nhìn chúng thiếp ngủ. Cô quá dao động nên không ngủ được. Cô đẩy cái túi phía sau chiếc ghế. Cô không còn lòng dạ nào mà dỡ túi ra, làm như thế là công nhận thất bại. Đến sáng cô sẽ ném quần áo chung quanh để che giấu cái túi; hy vọng việc này sẽ đánh lừa bất cứ ai muốn nhòm ngó. Ôi chao, cần phải đi đến nơi mà cô có nhà riêng cho mình. Cô ghét khi không có sự riêng tư; nó chà xát cô như là sợi dây cương.

Lúc ăn sáng, cô tỏ ra cảnh giác, tạo bộ mặt tỉnh táo và vui vẻ đối với cộng đồng. Thậm chí đến giữa bữa cô mới nhìn qua Espen, nhưng anh đang cúi đầu. Anh không nhìn về phía cô. Cô cố dò xét liệu anh hoặc Merete có vẻ gì mệt mỏi hay không, nhưng khó mà nói được. Đứa bé của họ đang khóc; có lẽ nó bị cơn đau bụng quặn. Cô sẽ phải chờ cơ hội.

Vào buổi chiều, cô có dịp. Anh đến khi cô đang cho đàn gà ăn. Chỉ một phút anh đã ở đây, cho dù cô không thấy anh đến. Cô chờ cho anh lên tiếng.

“Line, anh tiếc. Anh rất tiếc. Anh không biết nói gì với em... Trong nhiều tiếng đồng hồ Merete không ngủ được và anh không biết phải làm gì.” Anh đang bồn chồn, áy náy, mắt anh nhìn đâu đâu nhưng không nhìn đến cô.

Line thở dài: “Được rồi. Em sẽ kiếm chuyện giải thích cho hai đứa trẻ. Chúng ta sẽ đi tối nay. Một giờ.”

Anh im lặng.

“Anh đã đổi ý phải không?”

Anh thở dài.

Cô thấy mình đang run rẩy: “Bởi vì nếu anh đổi ý, em sẽ không đi mà không có anh. Em sẽ ở lại, rồi em sẽ nói với mọi người là em đang mang trong bụng đứa con của anh. Em sẽ làm cho anh xấu hổ trước mặt mọi người. Trước mặt vợ anh và con cái anh. Nếu Per đuổi em, em không màng. Bọn em sẽ lạnh cóng mà chết. Con anh sẽ chết và em sẽ chết. Và anh sẽ chịu trách nhiệm. Anh đã chuẩn bị tinh thần chưa?”

Mặt Espen tái xanh: “Line, đừng nói mấy chuyện đó! Thật là kinh khủng... Anh không có ý nói sẽ không đi. Chỉ là khó khăn, vậy thôi. Những gì anh phải bỏ lại... em không phải bỏ lại gì cả.”

“Anh yêu nó không?”

“Ai? Merete hả? Em biết anh không yêu mà. Anh yêu em.”

“Thế thì tối nay lúc một giờ. Nếu Merete không ngủ được, anh phải tìm cách viện lý do.”

Anh lộ vẻ cam chịu. Sẽ ổn thôi. Chỉ có điều anh là người đàn ông cần được dẫn dắt, giống như nhiều người khác.

Tuy thế, Line không biết làm thế nào để thời giờ còn lại qua nhanh. Cô không thể ngồi yên. Thấy cô bồn chồn trong khi hai người đang may chăn bông, Britta nói: “Có việc gì vậy, em gái? Kiến cắn trong quần hả?” Line chỉ biết cười trừ.

Nhưng cuối cùng, dĩ nhiên, cuối cùng thì cũng tới một giờ, và ba mẹ con lại đi đến chuồng gia súc. Ngay khi đẩy cánh cửa, cô có thể cảm nhận Espen đang ở đấy. Anh thì thào tên cô trong bóng tối.

Cô đáp: “Bọn em đây.”

Anh thắp đèn và mỉm cười với hai đứa trẻ. Chúng nhìn anh với vẻ bẽn lẽn, hồ nghi.

“Hai cháu có mong đi chơi không?”

“Tại sao chúng ta đi vào giữa khuya? Chúng ta đi trốn hả?” Đó là giọng nói của Torbin với nhận thức sắc sảo.

“Không phải. Ta cần khởi hành sớm để đi được xa trước khi trời lại tối. Đó là cách người ta đi trong mùa đông.”

Line lo lắng, giọng nghe sắc lẻm: “Nhanh lên, không được nói tầm phào nữa. Hai con sẽ thấy khi tới nơi.”

Espen cột các túi phía sau hai chiếc yên ngựa - anh đã chuẩn bị sẵn sàng cho hai con ngựa. Line cảm thấy trào dâng lòng yêu thương đối với hai con vật chắc khỏe, di chuyển từ tốn; chúng làm bất kỳ việc gì được đòi hỏi, không quấy rầy hoặc cãi cọ, ngay cả lúc một giờ khuya. Họ dắt hai con ngựa đi ra ngoài, vì có nhiều bùn nên móng ngựa không gây ra tiếng động. Cả vùng Himmelvanger không có ánh sáng, nhưng họ vẫn dẫn hai con ngựa đến một trảng cây cáng lò nhỏ, tránh xa tầm mắt của các cửa sổ, rồi Espen đỡ hai đứa trẻ và Line lên lưng ngựa và nhảy lên yên phía sau Torbin.

Line nắm trong tay một chiếc địa bàn ăn cắp được: “Ta bắt đầu đi về hướng đông-nam.” Cô nhìn lên bầu trời: “Nhìn xem, có những ngôi sao. Sẽ giúp cho ta. Ta sẽ đi về hướng ngôi sao đó, thấy không?”

“Bác không định cầu nguyện Thượng đế ban phúc cho chuyến đi của chúng ta hay sao?” Torbin cựa quậy qua lại để nhìn đến mẹ. Nhiều lúc nó có thể là một đứa trẻ mô phạm, luôn muốn tỏ ra đúng đắn, và nó đã sống ở Himmelvanger qua ba năm, nơi mà người ta ít khi di chuyển mà thiếu cầu nguyện.

“Dĩ nhiên rồi. Bác sắp cầu nguyện đây.”

Espen kìm dây cương, và cúi đầu xuống. Thì thầm nhanh, như thể đôi tai mộ đạo của Per cách vài dặm có thể nghe được lời cầu nguyện: “Cầu xin Thượng đế, Vua của muôn loài trên thượng giới và trần gian, nhìn thấy và che chở tất cả, trông nom cho cuộc hành trình của chúng con, dìu dắt chúng con tránh các mối nguy hiểm, và giữ cho chúng con đi đúng đường. Amen.”

Line thúc gót chân vào hông con ngựa. Cái khối đen của Himmelvanger nhỏ dần phía sau lưng họ. Trời quang đãng nên lạnh hơn. Lạnh hơn nhiều so với đêm hôm trước. Họ đã ra đi vừa kịp lúc.

 

[45] Kingston: thành phố ở miền đông-nam tỉnh Ontario, Canada, bên bờ Hồ Ontario.

[46] Perth: thị trấn ở tỉnh Ontario, Canada, cách thủ đô Ottawa 70 km về hướng tây-nam.

[47] Kincardine: thị trấn ở tỉnh Ontario, Canada, nằm bên bờ đông của Hồ Hurort.