Tào Xuân Hoa sau khi nhận được Lâm Uyên mộc điểu không dám trì hoãn, lập tức bàn giao công việc trong tay, nhanh chóng lên đường đến trú địa Lưỡng Giang.
Vừa tới gần nơi đóng quân, Tào Xuân Hoa liền cảm thấy sự túc sát từ không trung ẩm ướt âm lãnh hất thẳng vào mặt, ẩn ẩn lộ ra mùi khói thuốc súng, hắn không tự chủ được thẳng lưng lên, hát hò cũng chẳng màng, cũng không nháy mắt đưa tình nữa, cố ra vẻ đàng hoàng. Chỉ thấy nơi đây trạm gác nghiêm ngặt, tất cả quan binh trong ca trực ngay cả một lần châu đầu ghé tai cũng không có, bốn bề yên ắng không một tiếng động, chỉ có chỗ luyện binh theo lệ ở không xa hò hét rung trời.
Tào Xuân Hoa dụi mắt, nhất thời còn tưởng mình lại nhìn thấy một Huyền Thiết doanh.
Vừa tới gần nơi đóng quân, liền có vệ binh trong ca trực chặn hắn lại, Tào Xuân Hoa không dám đùa giỡn dưới quân uy của Cố Quân, vội theo quy củ lấy ra lệnh kiện thông hành của Sở quân cơ. Tốp vệ binh kia trung bình chẳng qua mười tám mười chín tuổi, sau khi kiểm tra lệnh kiện không có vấn đề, vừa không nịnh nọt cũng không thất lễ, một người bước ra khỏi hàng, dẫn hắn đến soái trướng, Tào Xuân Hoa ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy đội vệ binh vừa nãy chớp mắt đã bù vào vị trí trống, chẳng hề nhìn ra chỗ hổng.
Vệ binh dẫn đường trước hơi ngại ngùng, sau nghe nói Tào Xuân Hoa từng đi theo Cố Quân trị Bắc man, bấy giờ mới mở máy hát: “Người Tây Dương không kiếm chác được gì từ tay Đại soái, chiến trường chính diện đánh không thắng, mấy ngày nay vẫn đi quanh mấy cảng khẩu Lưỡng Giang, không ngừng đến gây rối, ta nghe bách phu trưởng nói, khả năng là muốn so vốn liếng với chúng ta. Đại nhân, chẳng phải đều nói Đại Lương triều ta đất rộng của nhiều à, vì sao người Tây Dương cũng lắm tiền như vậy?”
“Đừng kêu đại nhân, ta cũng chỉ là một chân sai vặt thôi,” Tào Xuân Hoa xua tay, lại tiếp tục, “Những việc này ta cũng không hiểu, có điều từng nghe Đỗ công nói vài câu, ngươi xem chiến thuyền của họ, đều là chuyên môn thiết kế để ra viễn hải và đánh hải chiến, năm đó cảng Giang Nam và cảng Đại Cô không phải bị một phát pháo nổ tung sao? Quân ta còn như vậy, nói chi tới các tiểu quốc chật hẹp trên biển, họ san bằng một chỗ liền triệt để ‘xơi’ chỗ ấy, đoạt lấy vật tư bản xứ, mở nhà xưởng trong nước không mở được, bắt tù binh làm việc cho họ, vắt cạn xương máu – lâu dần, tự nhiên có tiền thôi.”
Vệ binh im lặng chốc lát, dẫn Tào Xuân Hoa một mạch đến trước lều của Cố Quân, thân vệ ở cửa đi vào báo, vệ binh trẻ tuổi nọ liền lợi dụng giây lát này, nói với Tào Xuân Hoa: “Đại nhân, trước kia ta từng nghe lão binh nói đến trú quân thủy quân Lưỡng Giang quá khứ, nói khi họ ở dưới tay Triệu tướng quân, bạc nhiều việc ít, luyện binh hằng ngày cũng thoải mái hơn trú quân nơi khác, lúc không trực còn có thể lên bờ dạo bước dưới hạnh hoa yên vũ, liền cảm thấy mình sinh không gặp thời, nếu là thời thái bình, không chừng cũng có thể thành một ‘quân gia’ cơ.”
Tào Xuân Hoa quay đầu lại nhìn gã, tiểu vệ binh kia hơi xấu hổ cười nói: “Hôm nay nghe ngài nói như vậy, mới cảm thấy mình kiến thức hạn hẹp, người cầm được đao kiếm, thiết nghĩ luôn may mắn hơn heo chó bị lùa đi.”
Chính lúc này, thân binh soái trướng đi ra nói: “Tào công tử, Đại soái mời ngài vào.”
Tào Xuân Hoa định thần lại, cất bước đi vào soái trướng, vừa nhìn liền thấy trên mũi Cố Quân đeo một mảnh kính lưu ly đặc biệt cợt nhả, điêu hoa đủ các kiểu sau tấm kính lấn lướt hơn hẳn, từ mũi chạy thẳng vào tóc mai, cơ hồ che khuất non nửa khuôn mặt y, không giống kính lưu ly, trái lại giống mặt nạ hơn.
Tào Xuân Hoa ngẩn người, phản ứng đầu tiên trong lòng là “mắt Đại soái sao vậy”.
Nhưng trong soái trướng đang bàn chính sự, Tào Xuân Hoa nhất thời không dám tiến lên quấy rầy.
Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều có mặt, Diêu Trấn đang đọc một phong thư của người Tây Dương: “Đám Tây đó nói chúng là dựa trên mong muốn hữu bang hài hòa, hết sức chân thành đến hỏi ý, liệu có thể vạch bốn quận Giang Nam vào khu qua lại, cho phép trú quân tự trị, bảo vệ lợi ích của Dương thương, ngày sau nên trở thành ràng buộc trong thông thương hải vận của song phương… A, chúng còn nói mình yêu mảnh đất này, không muốn để đất đai màu mỡ phải chịu chiến tranh tàn hại nữa.”
Thẩm Dịch: “Ngày hôm qua còn ba quận, sao hôm nay lại thêm một nơi rồi?”
Diêu Trấn nhìn y vẻ bất đắc dĩ: “Có thể là vì ‘rất yêu’ chăng?”
“Yêu con mẹ nó.” Cố Quân trên mặt đeo kính lưu ly vừa nhã nhặn vừa cợt nhả, lời nói lại không giống người lương thiện, “Yêu cái đếch gì? Đến lượt bọn chúng yêu chắc?”
Thẩm Dịch: “…”
Quả thực không cách nào tiếp lời.
Tào Xuân Hoa nhất thời không nhịn nổi, bật cười thành tiếng.
Thẩm Dịch vội vẫy tay gọi hắn: “Tiểu Tào đến rồi! Chờ ngươi đã lâu, mau tới đây nói với tiên sinh, ‘rắn sắt’ của chúng ta khi nào có thể dựng xong?”
“Ôi trời, Thẩm tiên sinh ngài kêu thật khó nghe… sắp rồi,” Tào Xuân Hoa nhẹ nhàng trả lời, “Chúng ta không thiếu nhất chính là nhân thủ làm việc, phía Bắc mấy đoạn cơ bản đã xong, đoạn phía Nam này thì tốt hơn, vào đông cũng không cần nghỉ, đến lúc đó mấy bộ phận vừa nối vào, là xe hơi nước có thể chạy từ kinh kỳ đến bờ sông. Ta nghe Đỗ công nói, nếu thuận lợi, nhanh nhất là trước cuối năm có thể hoàn thành – Đúng rồi, sao Đại soái lại đeo kính lưu ly thế?”
“Đẹp chứ?” Cố Quân cười với hắn, khóe mắt như hoa đào kia quả thực muốn bay lên, mặt dày vô sỉ nói, “Hôm trước rơi vỡ một cái, lần này tìm người thay khung khác, chuyên môn mời danh thủ phủ Dương Châu tự mình điêu, thật sự không nỡ giấu cái đẹp, đành phải đeo mỗi ngày cho mọi người ngắm.”
Thẩm Dịch đau dạ dày nói: “Đại soái à, ngài cứ cất đi thì tốt hơn, mắt đám nhục thể phàm thai chúng ta thật sự không hợp với cái đẹp như vậy đâu.”
Cố Quân phớt lờ y, xoay mặt sang để Tào Xuân Hoa nhìn rõ các hướng, ăn nói lung tung: “Nếu thật sự không xong thì ta sẽ đích thân ra trận dùng mỹ nhân kế, trăm vạn hùng binh e là không đối phó được, nhưng hai ba vạn chung quy không thành vấn đề, phải chứ Tiểu Tào?”
Tào Xuân Hoa thoắt cái đỏ bừng mặt.
Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều quay mặt đi, quả thực không thể nhìn thẳng.
“Ngươi tới đúng lúc lắm,” Cố Quân nhảy lên, quàng vai Tào Xuân Hoa mặt đỏ tới mang tai, đẩy hắn đến trước sa bàn, “Ta vừa vặn có chút việc không phải ngươi thì không thể, muốn nhờ người đi một chuyến, giúp ta nhé.”
“Mỹ nhân kế” khác người của Cố đại soái đối với người Tây Dương hữu dụng hay không thì chưa biết, chỉ biết với Tào Xuân Hoa là rất dùng được, mặt hắn tức khắc đỏ hơn, gáy mướt mồ hôi, cảm thấy bất kể Cố Quân nói gì hắn đều có thể đáp “được được được”.
Chờ tới khi choáng váng ra khỏi soái trướng, Tào Xuân Hoa mới giật nảy mình – khoan đã, không phải Nhạn vương phái mình tới trông nom Đại soái à?
Sao hắn vừa mới dừng chân, dăm ba câu đã bị Đại soái lừa đến biên cảnh Tây Nam rồi?
Ban nãy Cố Quân còn đặc ý bảo hắn là việc này cơ mật, đi ra soái trướng là nát trong bụng, ngay cả Sở quân cơ cũng không được báo lên…
Bảo hắn trở về phải ăn nói làm sao!
Thẩm Dịch tự mình sắp xếp cho Tào Xuân Hoa thất hồn lạc phách, bấy giờ mới quay lại tìm Cố Quân. Diêu Trấn đã về, trong soái trướng đèn đuốc tối om, Cố Quân gác chân lên ghế đẩu, hai tay khoanh trước ngực, chẳng biết đang nghĩ gì – từ sau khi bắt đầu không nghe thấy, y thiếu rất nhiều phiền nhiễu khi mắt nhìn tứ lộ tai nghe bát phương, rất dễ tập trung vào mạch suy nghĩ của mình.
Gió lạnh lùa vào khi Thẩm Dịch đẩy cửa tiến vào kinh động y, Cố Quân lúc này mới ngẩng đầu lên: “Sắp xếp xong chưa?”
Thẩm Dịch gật đầu, hỏi: “Rốt cuộc là ngươi thật sự muốn dùng Tiểu Tào, hay sợ hắn báo tin cho Nhạn vương điện hạ?”
“Ta là người công tư bất phân như vậy?” Cố Quân nhướng mày, song không đợi Thẩm Dịch áy náy xin lỗi, y lại nói, “Đều có.”
Thẩm Dịch: “…”
Thật là chưa thấy ai phân công tư như vậy.
“Chúng ta vừa khai chiến, trong triều tất nhiên sinh biến, với tình hình của y vốn không nên quá nhọc lòng, tình huống hiện giờ cũng là bất đắc dĩ, đừng để y phân tâm thêm vì chút sai lầm nhỏ ở chỗ ta. Ngoài ra, chuyện của Tiểu Tào quả thật cũng phải tìm một người cơ biến và đáng tin đi xử lý,” Cố Quân nói, “Không phải lão đầu đối diện cảm thấy mình men biển đánh tới rất trâu sao? Ta sẽ cho lão xem khác biệt của tướng và soái.”
Thẩm Dịch bị những lời này chia làm đôi: Bên trái là cựu bộ Huyền Thiết doanh, hận không thể đi theo chủ soái máu chảy đầu rơi, bên phải lại bị Cố Quân chân tâm thành ý khoác lác không ngượng làm buồn nôn đến nổi da gà – một lần nữa không thể đáp được, đành phải cầu xin: “Tử Hi, cho dù ngươi mù, có thể thay một mảnh kính lưu ly bình thường không?”
Cố Quân mặc giáp chỉnh trang chuẩn bị ra ngoài tuần doanh – chủ soái mỗi ngày đích thân tuần doanh như điểm danh, cũng là nét đặc sắc của đại doanh Lưỡng Giang, cho dù y mù.
“Không,” Y nghiêm trang đáp, “Ta phải noi theo Lan Lăng vương.”
Thẩm Dịch cảm thấy tên khốn nạn này điều mình đến e không phải để phân ưu, mà hoàn toàn là để trêu ghẹo!
Từ sau khi đến Giang Nam, Tào Xuân Hoa chỉ kịp viết một phong thư cho Trường Canh, nói Cố soái mỗi ngày bận bịu quân vụ và bắt nạt Thẩm tiên sinh, không có gì là không tốt, sau đó chẳng còn tin tức gì nữa, cũng không biết là bị Cố Quân sai đi làm việc, hay “vui đến quên cả nước Thục” rồi. Trường Canh nhớ tới bệnh dại trai của tên này, trong lòng hoàn toàn không ghen là không thể, song vừa ghen vừa yên tâm – không có tin tức chính là tin tức tốt, có thể khiến Tào Xuân Hoa từ sáng đến tối bận dại trai, có lẽ bên phía Cố Quân quả thực thong dong như lời Liễu Nhiên hòa thượng nói.
Mà cùng lúc đó, Trần Khinh Nhứ trước Trùng dương đã đến kinh thành.
Trường Canh ở Sở quân cơ làm liên tục hơn một tháng, hiếm khi xin phép nửa ngày trở về tiếp đãi nàng.
Khi lần đầu nghe Cố Quân gửi thư nói tìm được bản dập “thần nữ bí thuật” ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc, trong lòng Trường Canh thực sự thấp thỏm không yên một thời gian, có cảm giác như khi lão yêu tinh trong trần thế liên tục trốn trốn tránh tránh nghe nói mình có thể biến thành phàm nhân vậy. Nhưng sau khi về kinh, y vừa như mưa rào gió giật chuẩn bị bày mưu, vừa như đi dây thép mà ứng phó các loại chính địch, thật sự có phần không lo được việc khác, cho đến lúc này gặp Trần Khinh Nhứ, mới nhặt tâm tư cũ lên.
Trần Khinh Nhứ chưa bao giờ thích kéo dài, vừa thấy Trường Canh, chưa kịp chào hỏi đã nói ngay một câu: “Chữa được.”
Chỉ hai chữ, đóng đinh Trường Canh tại chỗ một lúc lâu, cho đến khi một hơi nén trong ngực dùng hết rồi, y mới chậm rãi thở ra, bình tĩnh xoi mói: “Ngoan tật ra khỏi bụng mẹ không lâu đã ăn sâu bén rễ cũng có thể chữa à?”
Trần Khinh Nhứ gật đầu: “Có thể.”
Tay Trường Canh giấu trong ống tay rộng của triều phục co giật mạnh một phát, giọng điệu vẫn bình tĩnh bức người: “Người ta nói tà thần là đem máu thịt hai người hợp làm một, ta đây từ nhỏ chính là hai người, làm sao… Trần cô nương cũng có thể tách ra à?”
Trần Khinh Nhứ hiếm thấy mỉm cười: “Thời gian phải hơi dài, chỉ sợ điện hạ phải chịu khổ một chút.”
Trường Canh thấp thỏm hỏi: “Thế Tử Hi…”
Trần Khinh Nhứ: “Trong bí thuật thần nữ có ghi chép liên quan, nhưng cách dùng thuốc không giống với chúng ta, ở chỗ ta còn rất nhiều thứ cần khảo chứng, phải chờ ta chỉnh lý rõ ràng đã.”
Trường Canh hít sâu một hơi, tim đập sắp làm vỡ ngực, nhất thời quên cả trời trăng, quay đầu muốn đi ra ngoài, hận không thể lập tức cho Cố Quân biết, đi hai bước lại đột ngột dừng chân, đập đầu mình một phát, nghĩ: “Hồ đồ, không thể cho y biết, chiến trường đao kiếm không có mắt, trong lòng y vừa buông lỏng, vạn nhất xảy ra chuyện gì thì làm thế nào?”
Nhưng không nơi chia sẻ, Nhạn vương điện hạ liền lén làm một việc khiến người ta khá đỏ mặt, y thu xếp cho Trần cô nương, buổi tối quay về hầu phủ, rúc vào phòng Cố Quân mà viết một phong thư, sau đó không gửi đi, hong khô dè dưới gối của Cố Quân.
Như vậy vẫn chưa đã nghiền, y lại lôi ra hết thư từ Cố Quân từng viết mà mình âm thầm cất kỹ, nằm trên giường nhớ lại một lần tất cả những lời người nọ từng nói, tự tìm vui mà tự mình viết một phong “hồi âm” của Cố Quân, đóng kịch một vai vui vẻ hết sức.
Liên tiếp vài ngày sau đó, Trường Canh ban ngày gặp Phương Khâm, cũng thấy thuận mắt hơn không ít.
Đáng tiếc cuộc sống của Phương Khâm lại không dễ chịu lắm.
Mấy ngày nay, tấu sớ buộc tội Nhạn vương trên bàn Lý Phong chất dày cả hai thước, nếu cẩn thận lật xem, sẽ cảm thấy Nhạn vương quả thực động một tí là phạm lỗi, dù đi trên đường ho một tiếng cũng có kẻ tố tư thế y ho khi quân phạm thượng. Song hình thành đối lập rõ ràng là, từ Sở quân cơ trở xuống một đám tân quý trong triều không biết là bị sự vụ liên lụy, hay dứt khoát ngủ đông, sửa lại thái độ đối chọi gay gắt trước đó, bắt đầu đơn phương thoái nhượng.
Thái độ của Lý Phong chính là không có thái độ, đặc biệt là gặp phải mấy kẻ cậy già lên mặt nhắc tiên đế thậm chí nhắc Vũ đế.
Đối với tình huống kiểu này, sốt ruột nhất không phải Sở quân cơ như đi trên băng mỏng, mà là Phương Khâm.
Phương Khâm kỳ thực vạn phần phản đối hành vi ùa lên này: “Trong lòng Hoàng thượng rõ như gương, chư vị, thời điểm thế này hùng hổ dọa người, không sợ mất thánh tâm à?”
Lập tức có kẻ trả lời: “Phương đại nhân mở miệng ra là thánh tâm, tầm nhìn không khỏi hạn hẹp, nhớ năm ấy tiên đế chẳng qua cũng chỉ là con của một Quận vương không nổi bật trong tông thân bàng chi Lý gia, dựa vào đâu mà thuận lợi nhập chủ cung cấm? Năm đó ủng hộ tiên đế, tổ ta lực bài chúng nghị, một ngựa làm đầu, công lao cao cỡ nào? Đan thư thiết khoán còn cúng trong nhà ta, hiện giờ con cháu họ muôn đời ngồi vững giang sơn rồi, liền muốn điểu tận cung tàng à?”
Lại một kẻ nói: “Thực sự bức chúng ta đến đường cùng, thì cứ mời linh vị tiên đế ra, chẳng lẽ thiên tử dám gánh tội lỗi tày trời, coi nhẹ tổ tông lập pháp sao?”
Phương Khâm hít sâu một hơi, quát khẽ: “Xin chư công nói năng cẩn thận!”
Mọi người nể mặt hắn, nhất thời không lên tiếng, song thần sắc lại là không hề thoải mái tiếp thu.
Thế tộc công khanh Đại Lương, không liên quan gia chủ chức quan lớn nhỏ, chỉ xuất thân cũng có thể đem gia phổ đập vỡ mặt người ta, tổ tiên phần nhiều có quan hệ thông gia, cường cường liên thủ, đời đời phân tranh chặt chẽ với quyền lực hoàng thất, gia tộc có thể phồn vinh đến nay, ít nhất mỗi một đời đều đứng đúng chỗ, dần dà, liền có chút ảo giác “nhớ năm xưa Hoàng thượng đều do nhà ta một tay nâng đỡ”.
Bình nhật họ cảm thấy Phương gia có thể diện, bằng lòng nghe hắn một lời, nhưng khi thật sự cãi nhau, Phương gia tuy ẩn ẩn đứng đầu thế gia, lại rất khó chân chính hữu hiệu áp chế ai – mọi người đều là thân thích, chẳng ai cao quý hơn ai, dựa vào đâu mà thứ liên quan đến cái đầu trên cổ mình và lợi ích bản thân phải do Phương gia làm chủ?
Phương Khâm đành phải hiểu chi dĩ tình, động chi dĩ lý nói: “Hoàng thượng thích đao to búa lớn, không chấp nhận được nhất là người khác khiêu chiến thiên uy, lần này quân Tây Dương xâm chiếm quy mô lớn, không khỏi khiến ngài nhớ tới chuyện năm đó kinh thành bị bao vây, nếu nói lúc trước ngài còn hơi do dự, hiện tại khẳng định là quyết tâm phải đánh tiếp trận này, chúng ta tội gì đi gây chuyện vào lúc này để mang tiếng hại nước hại dân? Ta cũng mong chư công đặt mình vào đó mà suy nghĩ một chút!”
Hắn thở dài, giọng lại dịu đi: “Nếu có thể nhịn qua đợt này, chờ đánh giặc xong, đến khi ấy quốc vô chiến sự, Sở quân cơ tất nhiên đứng trước nguy cơ cải tổ hoặc xóa bỏ, những người đó vị tất cam tâm, nhất định có động tác, đến lúc đó chẳng lẽ Hoàng thượng không nhìn ra tay họ đã thò quá dài? Mọi người ngẫm lại lệnh kích trống, lệnh dung kim năm ấy, sẽ biết trong lòng Thánh thượng chân chính là tính thế nào, lúc này bắt đầu dùng đám tiện dân thương hộ này, chẳng qua là kế tạm thời, chờ chúng vô dụng rồi, Thánh thượng sẽ còn che chở sao? Chỉ sợ đến lúc đó ngay cả Cố Quân cũng phải ngoan ngoãn nộp lại Huyền Thiết hổ phù, Sở quân cơ con con không thể một tay che trời mãi được.”
Phương Khâm tự cho là mình đã nói hết nước hết cái, phân tích cặn kẽ.
Song vương công quý tộc ở đây, không phải ai cũng biết nhìn phía trước – vị ban nãy phát ngôn bừa bãi nói nhà mình có đan thư thiết khoán mở miệng hỏi: “Phương đại nhân nói có lý, nhưng quá lý tưởng, ngài nói đánh giặc xong? Xin hỏi khi nào có thể đánh giặc xong? Một hai năm là hắn, một hai mươi năm cũng là hắn, chẳng lẽ chúng ta đều bấm bụng chịu đến khi đất vàng lấp qua đầu?”
Kỳ thực Phương Khâm chẳng ưa gì đám ô hợp này, trong đám người này có một đống chuột cống quốc gia không hề có kiến thụ, luôn tự cho là siêu phàm, bị bắt thóp cũng thật sự đáng kiếp, nhưng lại không thể biểu đạt ra – bởi vì thứ giúp hắn tụ những người này lại căn bản là lợi ích, mỗi ngày hô hào lý tưởng lớn “vì nước vì dân” đến vang dội cũng không ai đếm xỉa.
“Chúng ta đừng nói dỗi, đánh một hai mươi năm thật thì quốc lực gì cũng hao hết, khỏi cần người khác, Hoàng thượng sẽ không đáp ứng, tuyệt đối không thể lâu như thế.” Phương Khâm đành phải thay cách nói khác, “Ta nói với chư vị một câu từ tận đáy lòng, với thân phận của Nhạn vương, quả thật chỉ cần y không mưu phản, không ai có thể trí y vào chỗ chết, nhưng với uyên nguyên gia thế của chư vị, chỉ cần Hoàng thượng tại vị một ngày, chỉ cần chúng ta không tự loạn trận cước – ai có thể lay được gốc rễ của chúng ta?”
Lời này còn dễ nghe hơn “Ngươi không tìm chết không ai có thể giết chết ngươi” – tuy rằng là một ý – cũng gãi trúng chỗ ngứa của đám công khanh này, Phương Khâm không hổ là thế gia đệ nhất nhân của Đại Lương, chu toàn với đám này vài thập niên, đã dạn dày kinh nghiệm.
Quả nhiên, nhờ hắn chạy qua chạy lại, triều đình thái bình hơn rất nhiều, nhân mã hai phái dường như tạm thời chấm dứt chiến tranh, tất cả mâu thuẫn đều chuyển dời xuống dưới gầm bàn, nội bộ Đại Lương đón chào sự yên bình ngắn ngủi vài tháng.
Suốt hơn ba tháng-
Sau đó một sự cố khiến Phương Khâm kiếm củi ba năm thiêu một giờ đã xảy ra.