Đàm Hồng Phi theo Cố Quân ra khỏi soái trướng nghe thế sững người, dù nằm mơ cũng không ngờ một ngày kia mình có thể mặc lại huyền giáp; đột nhiên, một bụng ưu sầu không còn sót lại chút gì, chỉ cảm thấy qua trận này, dẫu máu chảy đầu rơi cũng đáng.
Đàm Hồng Phi tiến lên một bước, cao giọng nói: “Thuộc hạ nguyện tiên phong cho Đại soái!”
“Không thể thiếu ngươi, bạch hồng chiến xa mở đường, khinh kỵ và huyền ưng đi theo ta, trọng giáp áp trận,” Cố Quân, “Lấy cho ta một thanh cát phong nhận, yêu ma quỷ quái gì, gặp thử mới biết.”
Trường Canh tháo trường cung sau lưng, thanh này còn là xin Cố Quân lúc tiễu phỉ ở Tây Nam, nó dường như là tác phẩm ngon nghẻ cuối cùng của Linh Xu viện từ sau khi Hoàng đế Long An bắt đầu cắt giảm binh quyền, bởi vì thiết cung không hề màu mè kia thật sự cực nặng, không phải cao thủ chân chính thì căn bản không dùng được, nên trong cả quân đội chỉ có một thanh dùng thử.
Mà nó vốn có thể phổ biến trong quân sau khi qua cải tiến…
Trường Canh vuốt ve thiết cung lạnh ngắt, hỏi: “Nghĩa phụ, con có thể đi theo không?”
Cố Quân khựng lại, không muốn dẫn Trường Canh theo lắm – không phải vì điều gì khác, mà là qua trận này, trong lòng y sinh ra nhiều mong đợi hơn với tiểu hoàng tử mới ra đời này, bản thân y có lẽ có thể thủ vững đến bước cuối cùng, vậy về sau thì sao?
Ai đi chỉnh đốn non sông tan hoang này, ai có thể tìm một lối thoát cho lê dân chúng sinh trong loạn cục này?
Trường Canh đối nhân xử thế khôn khéo chu toàn hơn y lúc trẻ nhiều, có lẽ sẽ không gây với Hoàng thượng đến tình trạng không thể vãn hồi như y bây giờ…
Trường Canh hình như biết trong lòng y đang nghĩ gì: “Dưới ổ lật nào có trứng lành, hiện giờ kinh thành thế này, chờ đợi trong cung và theo lên tiền tuyến chẳng khác gì nhau, vạn nhất thành phá, không phải khác biệt là chết sớm và chết muộn sao?”
Cố Quân chưa kịp nói gì, Đàm Hồng Phi đã cười to nói: “Điện hạ nói đúng lắm! Đâu đâu cũng toàn hủ nho, chỉ có điện hạ là chân nam nhi!”
Cố Quân vô kế khả thi, đành phải khoát tay: “Chuyện cũng để ngươi nói rồi, muốn thì đi đi.”
Sau đó y trừng Đàm Hồng Phi một cái, nhìn vết roi chưa lành trên mặt Đàm tướng quân, muốn quất nốt mặt bên kia cho sưng lên, biến ai đó thành một cái đầu heo đối xứng.
Bên ngoài kinh thành, huyền thiết đông nghìn nghịt nối liền thành dải, đảo mắt nhìn qua, thoáng như về bên suối Nguyệt Nha.
Từ trên ngựa quay đầu lại, Khởi Diên lâu giữa mưa to tầm tã đèn đóm vẫn chưa yếu đi, chỉ phảng phất trùm lên một tầng ánh sáng êm dịu mỏng manh như đồi mồi, cùng hoàng thành nguy nga xa xa nhìn nhau, hai mươi cỗ hồng đầu diên chỉ đêm Trừ tịch mới bay lên ngoại lệ treo cao giữa trời, tựa những ánh mắt buồn bã tiễn đưa.
Cố Quân dùng tay ra hiệu, quân tiên phong của Bắc đại doanh đã uy nghiêm lên đường, không bi ca cũng không khẳng khái từ, họ đi trong mưa, dưới mặt nạ bảo hộ và mũ giáp không đường dòm ngó, hệt như một đám thiết khôi lỗi vô cảm vậy.
Mưa to làm kinh thành nổi trên mặt nước, đá tảng bạn cũ làm vật chứng giám.
Đêm này, hải quân Tây Dương tiến về phương Bắc tập kích cảng Đại Cô, Liên Nguy Đề đốc thủy lục Bắc Hải suất lĩnh ba trăm trường giao và một ngàn đoản hạm thủ vững, trước lấy xích sắt nối liền trường giao, song song ngoài cảng thành lưới sắt, thủ tới giờ Tý canh ba ngày kế, toàn bộ trường giao táng thân dưới lửa đạn của hải quái Tây Dương, không một cỗ may mắn thoát khỏi.
Trong thủy quân Bắc Hải dự trữ tổng cộng ba vạn sáu ngàn mũi xuy hỏa tiễn, trường hồng thiết tiễn mười vạn phát, mà một mũi cũng chẳng còn sót, tất cả đều chìm dưới sóng dữ và biển sâu.
Sau đó đạn tận lương tuyệt, Đề đốc Liên Nguy lệnh cho tất cả đoản hạm chạy đủ tốc độ, lấy hạm làm xuy hỏa, lấy thân làm bạch hồng, lao vào trận địa địch.
Liệt hỏa trôi nổi trên biển, trung hồn tan xương nát thịt.
Thủy quân Bắc Hải tổng cộng đâm chìm, đánh nát, nổ hủy gần ba ngàn chiến hạm hải giao như hổ sa của kẻ xâm lược, cuối cùng ép hải quái Tây Dương không thể không bất chấp mưa bão mở thiết xúc tu, thả ưng giáp che giấu ra, hốt hoảng chật vật lên bờ từ đường không trung, bấy giờ mới phát hiện, trên cảng Đại Cô cơ hồ đã không còn ai.
Giờ Dần một khắc, người Tây Dương lên bờ chán nản vô cùng, nóng lòng bù lại tổn thất trong trận chiến này, chưa chịu dừng lại, tiến thẳng về kinh sư, trên đường cùng Huyền Thiết doanh – Huyền Thiết doanh hôm ấy một đêm tổ kiến lên – gặp nhau ở ngoài thành Đông An.
Hải quân Tây Dương còn chưa định thần lại từ cuộc đổ bộ tổn thất nặng nề, không kịp đề phòng, vừa đối mặt liền bị tám mươi chiến xa mở đường chặn đầu, sau đó Huyền Thiết khinh kỵ hoành hành biển cát ra khỏi trùng vây, ưng hành cửu thiên, lệ thanh như kiếm.
Cận vệ của Giáo hoàng thình lình gặp cát phong nhận, suýt nữa đương trường bị khinh kỵ tách ra, hốt hoảng lui thủ ngoài cảng Đại Cô-
Đại Lương đã nhiều năm chưa có đêm nào kinh tâm động phách như vậy, chiến báo và sứ giả ra vào cung cấm như họp chợ, so với điểm canh còn chăm hơn.
Cả kinh thành không ai ngủ yên, cho đến sáng sớm hôm sau, tin chiến thắng và ánh ban mai cùng đến.
Lý Phong đột nhiên được nghe tin tức tốt đầu tiên sau nhiều ngày, cơ hồ không đứng dậy nổi, nhất thời cũng không biết là nên khóc hay nên cười.
Mưa tạnh trời quang, hải hà một đêm dâng cao, không trung nồng nặc một thứ mùi khó tả, pha lẫn mùi thuốc súng và máu tanh, dưới đất đã ấm lại, ẩm ướt lảng vảng chưa đi, một đêm chiến đấu ác liệt, Cố Quân không có hải quân, người Tây Dương thảm hại vô cùng, đành phải tự lui thủ.
Cố Quân ngồi cạnh nòng pháo chưa kịp nguội, mũ giáp huyền thiết ném qua một bên, tóc tai rũ rượi buông xuống một lọn, nhận bát thuốc Trường Canh đưa dốc một hơi cạn sạch.
Trường Canh nói: “Con không mang châm, mà có mang cũng chẳng dám châm cho người.”
Y kéo thiết cung suốt đêm, hai tay hằn một dấu thật sâu, lúc này vẫn còn run nhè nhẹ.
Cố Quân nắm cổ tay y kéo đến trước mặt, thấy y chỉ thoát lực chứ chưa hề bị thương, mới yên tâm khoát tay: “Cứ kệ ta, đi thống kê thương vong đi, Lão Đàm tính không nổi đâu.”
Nói xong dựa luôn lên hỏa pháo, tận dụng chốc lát này để nhắm mắt nghỉ ngơi.
Giây lát sau, Cố Quân bị sứ giả đến từ hoàng thành đánh thức.
Chạy tới truyền lệnh là một Ngự lâm quân còn trẻ, vốn với cấp bậc của gã không hay được nhìn thấy Cố Quân, hiện giờ cuối cùng đã gặp được An Định hầu sống, quả thực kích động đến khó lòng kiếm chế, phi ngựa lao đến, lúc nhảy xuống không biết vấp thứ gì mà ngã sấp mặt, lăn thẳng đến dưới chân Cố Quân: “Hầu gia!”
Cố Quân vội co chân lại: “Ôi trời, làm gì mà hành đại lễ vậy?”
Quan truyền lệnh kia hưng phấn nói: “Hầu gia, bệ hạ lệnh cho ta đến khao thưởng Bắc đại doanh, mang đến… mang đến…”
Giỏi, vừa hưng phấn thì quên luôn phải nói gì.
Khó trách bị Bắc đại doanh đánh tan tác, Cố Quân bất đắc dĩ, đành phải dậy vỗ vỗ đầu gã: “Không cần nói với ta, kêu Đàm tướng quân xem mà làm đi – ngươi trở về bảo với bệ hạ, đừng vui mừng quá sớm, Bắc đại doanh chỉ có vài người, tới khi đánh hết ta cũng chẳng biến ra nổi người mới, đến lúc đó nếu viện quân không tới…”
Quan truyền lệnh sững sờ nhìn y.
Binh pháp nói rằng, “Phàm chiến giả, dĩ chính hợp, dĩ kỳ thắng(1)”, rất nhiều người đại khái chỉ nhớ “dĩ kỳ thắng”, luôn cảm thấy nếu danh tướng có thể tìm đường sống trong chỗ chết, thì có thể lấy sức bản thân cứu vãn tòa lâu đài sắp đổ – nhưng làm sao có thể?
Trừ phi Cố Quân y có thể lấy bùn nặn ra một đám thần binh không ăn không uống còn đao thương bất nhập.
Trận chiến mở màn giành thắng lợi, truyền về kinh thành không biết quần thần phải hân hoan vui mừng thế nào, nhưng bước tiếp theo thì sao? Tạm không thảo luận to tát, không đề cập tới những chuyện lâu dài như so quốc lực, so dự trữ, so tài nguyên, chỉ nói trước mắt, trong tay y chỉ có chút ít binh lực, phải làm thế nào đây?
Cố Quân hiểu rõ, vô luận mở đầu này trông uy phong cỡ nào, cũng không thay đổi được sự thật là y chỉ dựa vào nơi hiểm yếu để chống cự.
Y nở nụ cười như đau răng, bỏ sứ giả của Hoàng đế ở đó, đi đến chỗ Đàm Hồng Phi.
Đàm Hồng Phi cầm thanh cát phong nhận một đầu đã bị đè bẹp, trên một đầu cháy sém còn có thể nhìn ra khắc nửa chữ “Liên”.
Rất nhiều tướng sĩ khắc tên họ mình trên cát phong nhận, như vậy cho dù cầm đi kiểm tu, phát về cũng có thể tìm được ông bạn già sống chết có nhau, nếu chủ nhân chết trên chiến trường không tìm thấy thi thể, đồng bào sẽ mang cát phong nhận của hắn về, đến lúc đó tế một bầu rượu, linh hồn cũng coi như xuống mồ an nghỉ.
Đàm Hồng Phi hai tay nâng thanh cát phong nhận kia, đưa tới trước mặt Cố Quân: “Đại soái.”
Cố Quân nhận lấy, đột nhiên có cảm giác, giống như Huyền Thiết doanh lắm tai nhiều nạn mấy phen tụ tan thủy chung lót dưới xã tắc, tựa một nắm hạt giống rải rác, lưu lạc tứ phương, bất tri bất giác có thể từ đó mọc lên một gốc đại thụ che trời.
Trường Canh đi đến phía sau y: “Đêm qua thiệt hại mười ba cỗ chiến xa, khinh kỵ bỏ mình năm trăm, trọng thương ngót một ngàn, thương nhẹ không tính, không đếm, ưng giáp rơi mười hai, hộp vàng phần lớn nổ trên không trung, người e là…”
Cố Quân gật đầu, cảm thấy số lượng thương vong này có thể chấp nhận: “Công lao của Liên tướng quân.”
Trường Canh thấp giọng nói: “Chỉ sợ sáng sớm hôm nay trên triều hội sẽ bắt đầu có người muốn đàm hòa.”
“Đàm không được đâu,” Cố Quân nói, “Người Tây Dương đêm qua mất mặt như vậy, không mặt mũi nào đến đàm hòa, chưa vây khốn kinh thành đến mức chắp cánh cũng chạy không thoát, thì họ sẽ không đàm hòa với chúng ta.”
… Mà đó chỉ là vấn đề thời gian.
Trường Canh im lặng chốc lát: “Nghe nói vị vua mất nước tiền triều cũng từng bị Bắc man hãm thành, lén chạy ra từ mật đạo, nếu kinh thành thực sự thủ không được…”
“Thủ không được cũng phải thủ.” Cố Quân chợt nói, “Biết Cảnh Hoa viên ở Kinh Tây chứ?”
Trường Canh sửng sốt.
Cố Quân giơ ngón trỏ lên môi, “suỵt” một cái, không nói thêm nữa – Cảnh Hoa viên Kinh Tây chính là hành cung nghỉ mát dưới thời Nguyên Hòa Vũ đế, năm đó tiên đế Nguyên Hòa không chịu được nóng, cứ tới mùa hè là nhất định đến Cảnh Hoa viên, nhưng sau khi Lý Phong đăng cơ, chi phí ăn mặc nhất loạt giảm đi, ngay cả tiền son phấn của hoàng hậu cung phi cũng giảm phân nửa, không có việc thì không làm mấy trò phô trương như đi vây săn, xuất du nọ kia.
Song người tiết kiệm hoàn toàn bất đồng với phụ hoàng như vậy lại giữ nguyên thói quen mỗi mùa hè đến hành cung, mà còn không phải vì hưởng thụ, trong cung chính vụ chồng chất, hắn thường dậy từ tinh mơ chạy tới, trước khi đêm đến còn phải gấp gáp trở về, đi quanh kinh thành một vòng để điểm danh như chó đi rong – đừng nói tránh nắng, chưa bị cảm nắng là tốt lắm rồi.
Lý Phong hành mình như vậy, nếu không phải bị điên, thì chỉ có thể là… Trong Cảnh Hoa viên có thứ quan trọng, khiến hắn phải thường xuyên tuần tra.
Trường Canh nhạy bén cỡ nào, trong lòng lập tức sinh ra một ý nghĩ: Thủ tướng tứ phương đều từng nhúng vào việc buôn lậu tử lưu kim, vậy Hoàng đế thì sao? Do thời gian gấp gáp, y còn chưa kịp kiểm tra sổ sách của Hộ bộ và Binh bộ… Nhưng với tính tình cái gì cũng muốn nắm trong tay của Lý Phong, xây một kho tử lưu kim riêng cũng không ngạc nhiên chút nào.
Cố Quân: “Đại ca ngươi không chịu tin ai, đây cũng chỉ là phỏng đoán của ta, đừng nói với người khác.”
Trường Canh nhíu mày: “Phiền toái rồi… Đến lúc đó Lý Phong sẽ cầu hòa sao?”
Cố Quân bật cười, lắc đầu: “Người khác tới cầu hòa với y thì có, ừm… hẳn y cũng sẽ không chạy.”
Trường Canh chắp tay sau lưng, người dính đầy máu, nước bùn đêm hôm trước bám trên người đã khô, toàn thân có vẻ xanh đỏ lòe loẹt, mà Nhạn Bắc quận vương trẻ tuổi ngay trong sắc màu lòe loẹt thong thả cất bước, giống như xuân đến dạo ngự hoa viên buổi chiều cho tiêu cơm, trầm ngâm chốc lát, đoạn y nhàn nhạt bình luận: “Cũng đúng, Lý Phong không sợ chết, mà sợ cái khác.”
Cố Quân không khỏi nhìn y một cái, phát hiện Phụng Hàm công nói đúng, quả thật Trường Canh lúc nào cũng có vẻ thủng thỉnh, thế là đột nhiên hỏi: “Ngươi rốt cuộc biến thành người tính chậm chạp từ khi nào vậy?”
“Con chậm chạp chỗ nào, rõ ràng đang vội vàng nôn nóng muốn chết mà.” Trường Canh cười nói, “Đây kỳ thực là học từ người, con phát hiện khi trong lòng không thoải mái, nghĩa phụ thường sẽ vờ như rất cao hứng, trên mặt vui mừng rồi, cũng làm lòng dễ chịu hơn rất nhiều, thế nên mỗi lần phát hiện mình đặc biệt nóng nảy, con sẽ tự mình hơi chậm lại, quả thật có thể bình tĩnh theo. À, can hỏa quá vượng không tốt cho dưỡng sinh, dễ…”
“… Ngủ không ngon.” Cố Quân phải nghe y nói không chỉ một lần, đã có thể thuận miệng tiếp lời, “Ngươi rốt cuộc để ý chuyện giấc ngủ tới mức nào? Còn nữa, ta không thoải mái mà miễn cưỡng tươi cười khi nào?”
Trường Canh nhướng mày, đủng đỉnh nhìn y, vẻ mặt “Ngươi nói sao thì là vậy”.
“Chỉnh đội rút quân.” Cố Quân uể oải nói, “Thương bệnh binh đi trước, không bao lâu nữa, người Tây Dương sẽ phản ứng lại, chúng ta đến phục kích trước.”
Đi hai bước, Cố Quân cảm thấy mỏi mệt vô cùng, không tự chủ được nhớ tới bộ tà thuyết không biết học từ tay lang băm nào của Trường Canh vừa nãy, y liền tháo bầu rượu trên hông uống một ngụm, vác cát phong nhận của Liên tướng quân sau lưng, huýt sáo một tiếng.
Chiến mã nghe tiếng chạy chậm đến trước mặt, Cố Quân đổi điệu huýt, thổi một khúc tự biên kỳ quái, ngắt một đóa hoa dại nhỏ vàng rực dưới đất, nhảy lên ngựa: “Các huynh đệ khinh kỵ, lên ngựa đi theo ta!”
Cố Quân cầm đóa hoa dại, vốn định tiện tay cắm lên đầu Trường Canh ở gần y nhất, nào ngờ vừa giơ tay đã gặp ánh mắt Trường Canh, tầm mắt ấy vậy mà vẫn theo sát y không rời một tấc, biểu cảm giống như là “người trùm khăn cô dâu lên đầu con cũng được”.
Cố đại soái run bắn lên, không dám xuống tay, bèn cắm đóa hoa kia lên mũ giáp của Đàm tướng quân đầu to như cái đấu, sâu sắc giải thích cho câu “đóa hoa lài cắm bãi gì đó”.
Chúng lão binh Bắc đại doanh cười ồ lên, huyền giáp khinh kỵ huýt sáo lao theo Cố Quân, từng kẻ học theo, tiếng huýt sáo dở dở ương ương nối nhau vang lên, Cố Quân ở đằng trước phẫn nộ quát: “Ai cho các ngươi học theo ta, sắp vãi đái rồi!”
Náo loạn như vậy đúng thật là rất đỡ mệt.
Lúc này, trên hải quái Tây Dương-
Nhã tiên sinh nhếch nhác đi vào khoang thuyền, đụng ngay phải đoàn trưởng đoàn cận vệ của Giáo hoàng.
“Thế nào rồi?” Nhã tiên sinh hỏi.
Đoàn trưởng: “Tỉnh rồi, đang muốn gọi ngài vào.”
Trong cuộc hải chiến hỗn loạn, chỗ Giáo hoàng ở bị hỏa tiễn quẹt qua, vừa vặn nổ một giàn pháo, lực xung kích mạnh làm ngài đương trường ngất đi, sau đó hải quân Tây Dương vừa gặp Huyền Thiết doanh liền thảm hại vô cùng, cũng có liên quan rất lớn với việc này.
Nhã tiên sinh thở phào nhẹ nhõm, sải bước đi vào, Giáo hoàng thoa thuốc trên trán, mái tóc bạc phơ rũ rượi, lộ ra đốm đồi mồi không rõ lắm ở khóe mắt.
Nhã tiên sinh quỳ xuống đất, uể oải nói: “Bệ hạ, tôi rất xin lỗi…”
Lão nhân trên giường không mở mắt, thì thào mở miệng: “Là Cố Quân.”
“Đúng, là Cố Quân, chúng ta ban đầu lập kế hoạch vây hắn ở chỗ này, kỳ thực đã chuẩn bị sẵn sàng đối mặt ở Bắc Hải, nhưng hôm qua quạ đen đột nhiên xuất hiện,” Nhã tiên sinh dừng một chút, thần sắc hết sức ảo não, “Huyền Thiết doanh bị liên quân Tây Vực giam chân ở Gia Dự quan, tôi vốn nên có tự tin, nhưng vẫn…”
“Nhất thời chưa ổn định trận tuyến.”
Nhã tiên sinh không đáp được gì.
Giáo hoàng cười khẽ: “Mỗi người đều sẽ gặp phải kẻ địch tựa hồ không cách nào chiến thắng trong sinh mệnh mình, một số là tai nạn, một số chỉ là tôi luyện – ngươi biết giữa tai nạn và tôi luyện có gì khác biệt chứ?”
Nhã tiên sinh sửng sốt.
“Khác biệt chính là, tai nạn không thể chiến thắng, mà tôi luyện có thể vượt qua – ta nghĩ việc này cực kỳ dễ phân biệt, người Trung Nguyên đã bị cắt đứt thông tin, một thủ đô con con, nếu thực sự có nhiều quân bị như vậy, lúc trước khi chúng ta bịa đặt chuyện Bắc đại doanh làm phản, sẽ dễ loạn đến thế sao?”
Nhã tiên sinh: “Ý ngài là…”
“Cố tuy trẻ, nhưng hơn một nửa sinh mệnh đều trải qua trên chiến trường, không được để hắn dắt mũi – hắn cho dù là một lang vương ngông cuồng, lúc này cũng đã bị nhổ sạch nanh vuốt mà nhốt trong nhà tù, đi đi.”
Cùng ngày, hải quân Tây Dương một lần nữa chỉnh đội, ngang ngược đổ bộ cảng Đại Cô.
Sau khi lên bờ lại bị đánh lén, lần này giữa ban ngày ban mặt, Nhã tiên sinh nắm chắc, chỉ huy ổn định, thì sẽ nhanh chóng hạ được toàn bộ trọng giáp dựa vào nơi hiểm yếu chống cự này, thắng rất dễ dàng – không ngờ hắn còn chưa kịp đắc ý, lật mặt nạ bảo hộ của “tù binh” lên, mới phát hiện đợt này đánh úp không phải binh giáp Đại Lương, mà là một đám thiết khôi lỗi!
Đám thiết khôi lỗi này hiển nhiên là lâm thời điều động từ nhà đạt quan quý nhân chốn kinh kỳ, trong đó một con dưới mặt nạ bảo hộ còn có mặt nạ ngoan đồng, mặt bánh bao trắng bệch, ngoác cái miệng dữ tợn cười với kẻ đối diện, thực trào phúng không tả nổi.
Một binh lính Tây Dương tức không nhịn nổi đưa tay tháo, Nhã tiên sinh giật mình nói: “Đừng đụng…”
Đáng tiếc nói chậm, dưới mặt nạ bị lôi ra gắn một kíp nổ mảnh, túm nhẹ thì thiết khôi lỗi “uỳnh” một tiếng nổ tung, làm mấy binh lính Tây Dương cùng văng lên trời.
Mặt nạ bay ra rơi dưới chân Nhã tiên sinh, vẫn còn cười đùa cợt nhả.
Bắc đại doanh dùng một chiêu giả, lúc này vậy mà đã rút lui toàn thể, hải quân Tây Dương tức tối giết vào thành, chuẩn bị dùng máu bình ổn sự phẫn nộ của mình, ai ngờ trước mắt lại là một tòa thành trống.
Bắt đầu từ khi tin tức binh biến Giang Nam truyền đến kinh thành, Nhạn Bắc vương đã lập tức liên thủ với Hộ bộ, chia từng nhóm mà rút hết bách tính tiền tuyến – cũng có một số cố chấp không muốn đi, nhưng đêm hôm trước chứng kiến lửa đạn vang trời, lúc này đã bỏ trốn mất dạng từ lâu.
Cố Quân chừa cho họ vườn không nhà trống.
—Câu này nằm trong Binh pháp Tôn Tử, nghĩa là trong chiến đấu, dùng quân chính quy để đối địch, kỳ binh để thủ thắng.