BỘ NHỚ QUÁ TẢI
Sự tiến hoá không ban tặng cho con người khả năng chơi bóng đá. Đúng là nó đã tạo ra những đôi chân để đá, những cái khuỷu tay để huých và những cái miệng để chửi thề, nhưng tất cả những điều này có lẽ chỉ cho phép chúng ta thực hành những cú đá phạt đền với chính mình. Để có thể tham gia vào một trò chơi với những người xa lạ mà chúng ta tìm thấy trên sân trường vào buổi chiều nào đó, chúng ta không chỉ phối hợp với 10 người cùng đội có thể chưa gặp bao giờ, mà chúng ta còn cần biết rằng 11 cầu thủ của đội đối phương cũng đang chơi bằng những luật lệ tương tự. Các loài động vật khác có nghi thức tiếp cận những kẻ lạ mặt với sự hung hăng bản năng, như những chú chó con trên khắp thế giới có các luật lệ cho những cuộc chơi đùa vật lộn được viết sẵn trong gen của chúng. Nhưng những người trẻ thì không có gen cho môn bóng đá. Tuy vậy, họ có thể chơi bóng với những người hoàn toàn xa lạ, vì tất cả họ đều đã học một tập hợp các ý tưởng được thiết lập giống nhau về bóng đá. Những ý tưởng này mang tính tưởng tượng hoàn toàn, nhưng nếu mọi người cùng chia sẻ chúng, thì tất cả chúng ta đều có thể chơi môn này.
Ở phạm vi lớn hơn, điều này cũng áp dụng tương tự với các vương quốc, giáo hội, mạng lưới thương mại với một sự khác biệt quan trọng. Các luật lệ bóng đá tương đối đơn giản và ngắn gọn, giống như thứ luật lệ cần thiết cho sự hợp tác trong một bầy người hái lượm hoặc trong một ngôi làng nhỏ. Mỗi cẩu thủ có thể dễ dàng nhớ chúng trong đầu mình, và vẫn còn chỗ dành cho các bài hát, hình ảnh và danh sách mua sắm. Nhưng những hệ thống hợp tác với quy mô lớn không chỉ liên quan giữa 22 người, mà hàng ngàn hoặc thậm chí hàng triệu người, thì đòi hỏi sự kiểm soát và ghi nhớ khối lượng thông tin khổng lồ, lớn hơn rất nhiều so với khả năng ghi nhớ và xử lý của một bộ não người đơn lẻ.
Các xã hội lớn tìm thấy ở một số loài động vật khác, như loài kiến và loài ong, tính ổn định và dẻo dai bởi hầu hết thông tin cần thiết để duy trì xã hội này được mã hoá trong bộ gen. Ví dụ, một ấu trùng ong mật cái có thể phát triển để trở thành ong chúa hoặc ong thợ, tùy thuộc vào loại thức ăn dùng để nuôi dưỡng nó. ADN của nó sẽ lên chương trình những hành vi cần thiết cho cả hai vai trò: ong chúa và ong thợ siêng năng. Các tổ ong có thể là những cấu trúc xã hội phức tạp, bao gồm nhiều loại ong thợ, chẳng hạn những con kiếm thức ăn, những con điều dưỡng, và những con dọn dẹp. Nhưng cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được những con ong luật sư. Loài ong không cần đến luật sư, vì chẳng có nguy cơ nào trong việc chúng có thể cố gắng phá vỡ hiến pháp tổ ong, bằng cách từ chối những con ong dọn dẹp quyền được sống, được tự do và được theo đuổi hạnh phúc.
Nhưng con người lại luôn làm những điều như thế. Vì trật tự xã hội của Sapiens là tưởng tượng, nên con người không thể gìn giữ được những thông tin then chốt cho sự hoạt động của nó, đơn giản chỉ bằng việc tạo ra những bản sao ADN của họ và truyền lại chúng cho thế hệ sau. Những nỗ lực có ý thức phải được tạo ra để duy trì luật pháp, truyền thống, các thủ tục, cách cư xử, nếu không trật tự xã hội sẽ nhanh chóng bị sụp đổ. Ví dụ, Vua Hammurabi đã ra sắc lệnh, rằng con người được chia thành ba tầng lớp: ưu tú, thường dân và nô lệ. Đây không phải là một sự phân chia tự nhiên – không có dấu vết nào của nó trong bộ gen của con người. Nếu như người Babylon không thể giữ được “sự thật” này trong đầu, xã hội của họ sẽ ngừng hoạt động. Tương tự, khi Hammurabi chuyển ADN của ông ta cho hậu duệ của mình, nó đã không mã hoá luật lệ của ông ta rằng một người đàn ông ưu tú nếu giết hại một người đàn bà thường dân sẽ phải trả 30 shekel bạc. Hammurabi phải truyền kiến thức về luật pháp của đế chế cho những người con trai của mình một cách kĩ lưỡng, và những người con trai, cháu trai của ông ta cũng phải làm điều tương tự.
Các đế chế tạo ra những lượng thông tin khổng lồ. Ngoài luật pháp, các đế chế phải giữ các tài khoản giao dịch và các loại thuế, bản kiểm kê vật tư quân đội và các tàu buôn lớn, lịch của các lễ hội và chiến thắng. Trong hàng triệu năm, con người chứa thông tin ở một nơi duy nhất – bộ óc của mình. Thật không may, bộ óc con người không phải là một thiết bị lưu trữ tốt cho những cơ sở dữ liệu có kích cỡ đế chế, vì ba lý do chính.
Thứ nhất, năng lực của nó bị giới hạn. Đúng là có một số người có trí nhớ siêu phàm, và ở thời kỳ cổ đại có những chuyên gia ghi nhớ có thể chứa trong đầu họ địa hình của toàn bộ các tỉnh hoặc bộ luật của toàn bộ các nhà nước. Tuy nhiên, có một giới hạn mà thậm chí các bậc thầy ghi nhớ giỏi nhất cũng không thể vượt qua. Một luật sư có thể thuộc lòng cả bộ luật về Thịnh vượng chung Massachusetts, nhưng không thể nhớ các chi tiết của từng vụ kiện ở Massachusetts kể từ vụ án xử những phù thủy Salem về sau.
Thứ hai, khi con người chết đi, bộ óc của họ cũng chết theo. Bất cứ thông tin nào chứa trong bộ óc đó cũng sẽ bị xóa sạch trong chưa đến một thế kỷ. Tất nhiên, có thể chuyển giao kí ức từ bộ óc này sang bộ óc khác, nhưng sau ít lần chuyển giao như vậy, thông tin có xu hướng bị cắt xén hoặc bị mất đi.
Thứ ba, cũng là quan trọng nhất, bộ não con người đã thích nghi để lưu trữ và xử lý không chỉ những dạng thông tin cụ thể. Để sống sót, người săn bắt hái lượm cổ đại phải ghi nhớ được những hình dạng, đặc tính và cách thức hành động của hàng ngàn loài động thực vật. Họ phải ghi nhớ rằng, loại nấm vàng có nếp nhăn mọc vào mùa thu dưới gốc cây du có thể là loại độc nhất, trong khi đó loại nấm nhìn giống vậy mọc vào mùa đông dưới gốc cây sồi dùng để chữa bệnh đau bụng rất tốt. Người săn bắt hái lượm cũng buộc phải nhớ trong đầu các quan điểm và mối quan hệ của vài tá thành viên trong bầy. Nếu như Lucy muốn một thành viên trong bầy giúp đỡ để John dừng việc quấy rối cô, điều quan trọng là cô phải nhớ rằng John vừa cãi nhau với Mary vào tuần trước, nên Mary sẽ là một đồng minh có khả năng và nhiệt tình. Kết quả là, áp lực tiến hoá đã làm bộ não con người phải thích nghi để chứa được lượng thông tin rộng lớn về thực vật, động vật, địa hình và xã hội.
Nhưng khi những xã hội đặc biệt phức tạp bắt đầu xuất hiện trong bối cảnh của Cách mạng Nông nghiệp, một dạng thông tin mới hoàn toàn bắt đầu trở nên quan trọng – những con số. Những người hái lượm chưa bao giờ phải xử lý một lượng lớn các dữ liệu toán học. Không một ai cần phải nhớ số quả trên mỗi cái cây trong rừng. Vì vậy bộ óc con người đã không thích nghi được với việc chứa và xử lý thông tin về các con số. Tuy vậy, để có thể duy trì một vương quốc rộng lớn, các dữ liệu toán học rất quan trọng. Chỉ tạo ra luật pháp và kể mấy câu chuyện về những vị thần giám hộ là chưa đủ. Còn phải thu thuế. Để có thể thu thuế hàng trăm ngàn người, bắt buộc phải thu thập số liệu về thu nhập và tài sản của từng người, số liệu về những khoản thanh toán, số liệu về số nợ còn khất lại, số tiền vay chưa trả và tiền phạt, số liệu về phần tiền được giảm giá và miễn thuế. Tất cả đã thêm vào đến hàng triệu bit dữ liệu, cần được lưu trữ và xử lý. Nếu không có khả năng này, nhà nước đó sẽ không bao giờ biết được nguồn lực mình có và nguồn lực nào có thể khai thác thêm. Khi đối mặt với nhu cầu phải ghi nhớ, hồi tưởng và xử lý tất cả các con số này, hầu hết bộ não con người sẽ bị quá tải hoặc cảm thấy buồn ngủ.
Sự giới hạn trí óc này đã hạn chế rất nhiều kích thước và sự phức tạp của những tập hợp người. Khi tổng số người và tài sản trong một xã hội nào đó vượt qua ngưỡng tới hạn, việc lưu trữ và xử lý những khối lượng lớn dữ liệu toán học trở nên cần thiết. Vì bộ óc của con người không thể làm được điều này, nên hệ thống đã sụp đổ. Trong hàng ngàn năm sau Cách mạng Nông nghiệp, các mạng lưới xã hội con người vẫn còn tương đối nhỏ bé và đơn giản.
Tộc người đầu tiên vượt qua vấn đề này là người Sumer cổ đại, sống ở phía nam Lưỡng Hà. Ở đó, Mặt trời chói chang trên các vùng đồng bằng đẩy phù sa màu mỡ, tạo ra những vụ mùa sản lượng dồi dào và những thị trấn thịnh vượng. Khi số lượng dân cư tăng, tổng lượng thông tin cần để phối hợp các công việc của họ cũng tăng theo. Thời kỳ 3.500-3.000 TCN, những thiên tài vô danh Sumer đã phát minh ra một hệ thống để lưu giữ và xử lý thông tin bên ngoài bộ não của họ, được chế tạo theo nhu cầu xử lý những khối lượng lớn dữ liệu toán học. Do đó, người Sumer đã giải phóng trật tự xã hội của họ khỏi giới hạn của bộ não con người, mở đường cho sự xuất hiện của các thành phố, vương quốc và đế chế. Hệ thống xử lý dữ liệu được người Sumer phát minh ra gọi là “chữ viết”.
Ký tên, Kushim
Chữ viết là một phương pháp để lưu trữ thông tin bằng những ký hiệu cụ thể. Hệ thống chữ viết Sumer đã làm như vậy bằng cách kết hợp hai dạng ký tự, được vạch trên những phiến đất sét. Có những ký tự cho 1, 10, 60, 600, 3.600 và 36.000. (Người Sumer đã sử dụng kết hợp giữa các hệ thống số thập phân và lục phân. Hệ thống số lục phân của họ đã để lại cho chúng ta nhiều di sản quan trọng, chẳng hạn sự phân chia một ngày thành 24 giờ và một vòng tròn là 360 độ). Một dạng ký tự khác biểu thị cho con người, động vật, hàng hoá, đất đai, dữ liệu và nhiều hơn nữa. Bằng việc kết hợp hai dạng ký tự, người Sumer có thể lưu giữ nhiều hơn các dữ liệu mà bộ óc con người có thể nhớ hay bất cứ một chuỗi ADN nào có thể mã hoá.
Hình 18. Một phiến đất sét với một văn bản hành chính từ thành phố Uruk, khoảng 3400-3000 TCN. “Kushim” có thể là tên chung của một chức vụ hành chính, hoặc tên của một cá nhân nào đó. Nếu Kushim quả thực là một người, thì ông ta có thể là cá nhân đầu tiên trong lịch sử có tên được chúng ta biết đến! Tất cả những cái tên được đặt trước đó trong lịch sử loài người – Neanderthal, Natutian, Chauvet Cave, Göbekli Tepe – đều là những phát minh hiện đại. Chúng ta không biết những người xây dựng nên Göbekli Tepe trong thực tế gọi nơi này là gì.
Với sự xuất hiện của chữ viết, chúng ta bắt đầu nghe thấy lịch sử thông qua cái tai của những người giữ vai trò chủ đạo. Khi những hàng xóm của Kushim gọi anh ta, họ có thể phải hét to thực sự “Kushim!” Điều này có nghĩa là cái tên được ghi lại đầu tiên trong lịch sử thuộc về một người giữ sổ sách kế toán, hơn là một nhà tiên tri, một nhà thơ hoặc một kẻ chinh phục vĩ đại.
Ở giai đoạn đầu, chữ viết bị giới hạn trước các sự kiện và con số. Nếu người Sumer đã từng có một cuốn tiểu thuyết vĩ đại, thì nó hẳn không bao giờ được ghi trên những phiến đất sét. Việc viết tiêu tốn thời gian, và số người biết đọc cũng rất ít, vì vậy không ai thấy bất cứ lý do gì để sử dụng nó cho mục đích khác ngoài việc lưu trữ những hồ sơ quan trọng. Nếu chúng ta đi tìm những ngôn từ thông thái đầu tiên của tổ tiên mình cách đây khoảng 5.000 năm, chúng ta sẽ bị thất vọng hoàn toàn. Những thông điệp sớm nhất mà tổ tiên để lại cho chúng ta đọc, ví dụ, “29.086 đơn vị lúa mạch 37 tháng Kushim”. Cách giải thích khả dĩ nhất cho câu này là: “Tổng số 29.086 đơn vị lúa mạch được nhận trong thời gian 37 tháng. Ký tên, Kushim”. Than ôi, những bản vãn đầu tiên trong lịch sử không mang ý nghĩa triết học, thơ phú, huyền thoại, luật pháp hoặc thậm chí những chiến thắng hoàng gia. Chúng là những tài liệu kinh tế buồn tẻ, ghi lại việc trả thuế, sự tích lũy các món nợ và quyền sở hữu tài sản.
Chữ viết khuyết thiếu không thể diễn tả được toàn bộ phạm trù của một ngôn ngữ nói, nhưng có thể diễn tả những điều nằm ngoài phạm vi ngôn ngữ nói. Chữ viết khuyết thiếu như các chữ trong toán học và chữ Sumer không thể dùng để viết thơ được, nhưng chúng có thể lưu giữ các tài khoản thuế rất hiệu quả.
Chỉ có một dạng khác của văn bản còn tồn tại từ thời cổ đại, và nó thậm chí còn kém thú vị hơn: danh sách các từ, được sao chép lại nhiều lần như những bài luyện tập bởi người chép thuê chuyên nghiệp đang tập sự. Thậm chí, nếu một sinh viên chán nản muốn viết thơ thay vì sao chép hoá đơn bán hàng, anh ta cũng không thể làm thế. Chữ viết Sumer sớm nhất không phải là một hệ chữ viết đầy đủ. Chữ viết đầy đủ phải là một hệ thống các ký tự cụ thể, có thể biểu thị được gần như hoàn toàn ngôn ngữ nói. Vì vậy, nó có thể biểu thị mọi thứ mà con người có thể nói ra, bao gồm cả thơ ca. Ngược lại, chữ viết khuyết thiếu là một hệ thống các ký tự cụ thể chỉ thể hiện được một loại thông tin đặc biệt nào đó thuộc về phạm vi hoạt động bị giới hạn. Ký tự Latin, ký tự tượng hình của Ai Cập cổ đại và chữ nổi Braille là những chữ viết đầy đủ. Bạn có thể dùng chúng để viết các tờ đăng ký thuế, thơ tình, sách lịch sử, công thức nấu ăn và luật kinh doanh. Ngược lại, chữ viết Sumer thời kỳ đầu, giống như những ký hiệu toán học và âm nhạc hiện đại, là kiểu chữ viết khuyết thiếu. Bạn có thể sử dụng chữ viết toán học để tính toán, nhưng không thể dùng nó để viết thơ tình.
Hình 19. Một người đàn ông đang cầm quipu, một dụng cụ tính toán, được miêu tả trong một bản thảo tiếng Tây Ban Nha, sau sự sụp đổ của Đế chế Inca.
Người Sumer không khó chịu khi chữ viết của họ không phù hợp để viết thơ ca. Họ phát minh ra nó không phải để sao chép ngôn ngữ nói, mà dùng để làm những việc mà ngôn ngữ nói không thể làm được. Có một số nền văn hoá, như là nền văn minh Amdes tiền Colombus, chỉ sử dụng một phần chữ viết trong toàn bộ lịch sử của họ mà không hề bối rối về sự giới hạn này, và cảm thấy không cần một phiên bản hoàn chỉnh hơn. Chữ viết Andes rất khác so với chữ viết Sumer. Trong thực tế, nó khác biệt đến mức nhiều người còn tranh luận rằng, nó không phải là chữ viết. Nó không được viết trên những phiến đất sét hoặc những mẩu giấy, mà được viết bằng những nút thắt trên mấy sợi dây đầy màu sắc gọi là quipu. Mỗi quipu gồm nhiều sợi dây với màu sắc khác nhau, được làm bằng len hoặc bông. Ở mỗi sợi dây, một số nút được thắt ở những vị trí khác nhau. Một quipu có thể gồm hàng trăm sợi dây với hàng ngàn nút thắt. Bằng việc kết hợp các nút thắt khác nhau trên những sợi dây khác nhau có nhiều màu, người ta có thể ghi nhớ được lượng lớn các dữ liệu toán học liên quan, ví dụ như việc thu thuế hay các quyền sở hữu tài sản.
Trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm, quipu rất cần thiết cho hoạt động kinh doanh của các thành phố, vương quốc và đế chế.3 Chúng đã đạt tới năng lực tối ưu của mình dưới Đế chế Inca với 10-12 triệu người và bao phủ toàn bộ Peru, Ecuador, Bolivia ngày nay cùng một phần Chile, Argentina, Columbia. Nhờ có những quipu, người Inca có thể lưu giữ và xử lý lượng lớn các dữ liệu mà nếu như không có chúng, họ không thể duy trì được bộ máy hành chính phức tạp của một đế chế với quy mô lớn như vậy.
Trong thực tế, quipu hiệu quả và chính xác tới mức trong những năm đầu tiên sau khi Tây Ban Nha xâm lược Nam Mỹ, bản thân người Tây Ban Nha cũng sử dụng quipu trong các công việc quản trị đế chế mới. Vấn để là người Tây Ban Nha không biết làm cách nào để ghi lại và đọc quipu, vì vậy họ phải phụ thuộc vào các chuyên gia địa phương. Những người trị vì mới của lục địa nhận thấy điều này đã đặt họ vào một tình huống nhạy cảm – những chuyên gia quipu bản địa có thể dễ dàng lừa dối và gian lận các ông chủ của mình. Vì vậy, ngay khi các thuộc địa của Tây Ban Nha được hình thành một cách vững chắc hơn, quipu đã bị loại bỏ, sổ sách ghi chép của đế chế mới được lưu giữ hoàn toàn bằng các chữ số và hệ thống chữ viết Latin. Còn rất ít các quipu tốn tại trong sự chiếm đóng của Tây Ban Nha, và hầu hết chúng đều không thể giải mã được, vì thật không may, nghệ thuật đọc quipu đã bị thất lạc.
Những điều phi thường của bộ máy hành chính
Cư dân Lưỡng Hà cuối cùng bắt đầu muốn viết những điều khác với các dữ liệu toán học buồn tẻ. Khoảng năm 3000-2500 TCN, ngày càng nhiều các ký tự được thêm vào chữ viết Sumer, và dần biến nó trở thành một hệ thống chữ viết đầy đủ mà ngày nay chúng ta gọi là chữ hình nêm. Vào khoảng năm 2500 TCN, các vị vua đã sử dụng chữ hình nêm này để ban bố các sắc lệnh, các tu sĩ cũng sử dụng chúng để ghi lại những lời tiên tri, và những cư dân có thân phận thấp hơn cũng dùng nó để viết thư cá nhân. Gần như cùng thời kỳ này, người Ai Cập cũng phát triển thêm một kiểu chữ viết đầy đủ khác được gọi là chữ tượng hình. Những hệ thống chữ viết đầy đủ khác cũng được phát triển tại Trung Quốc vào khoảng năm 1200 TCN và ở Trung Mỹ vào khoảng năm 1000-500 TCN.
Từ những trung tâm khởi phát như vậy, các hệ thống chữ viết đầy đủ đã lan rộng với những hình thức mới và nhiệm vụ mới phong phú. Con người bắt đầu viết thơ ca, sách lịch sử, những câu chuyện lãng mạn, kịch, những lời tiên tri và sách dạy nấu ăn. Song, nhiệm vụ quan trọng nhất của chữ viết vẫn là lưu giữ hàng tập dữ liệu toán học, và nhiệm vụ này cũng thuộc đặc quyền của hệ thống chữ viết chưa đầy đủ. Kinh Do Thái, Iliad của Hy Lạp, Mahabharata của Hindu, Tam tạng kinh điển Phật giáo, tất cả đều bắt đầu từ truyền miệng. Trải qua nhiều thế hệ, chúng được lưu truyền bằng miệng và có thể tồn tại ngay cả khi chữ viết chưa được phát minh. Nhưng những cơ quan thuế vụ và hành chính phức tạp đã được sinh ra cùng với những loại chữ viết chưa đầy đủ, và mối liên kết bền vững giữa chúng vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay như anh em sinh đôi dính nhau – hãy thử nghĩ về những mục khó hiểu trong các cơ sở dữ liệu của máy vi tính và bảng tính mà xem.
Vì ngày càng có nhiều thứ được viết ra, đặc biệt do công việc lưu trữ hành chính phát triển với quy mô khổng lồ, nên những vấn đề mới đã nảy sinh. Thông tin lưu trữ trong bộ não con người rất dễ lấy ra dùng. Bộ não của tôi có thể chứa hàng tỉ các bit dữ liệu, song tôi có thể nhanh chóng, gần như tức khắc, nhớ ra tên của thủ đô Ý, và sau đó lập tức có thể nhớ lại những gì tôi đã làm vào ngày 11 tháng Chín năm 2001, và sau đó có thể tái hiện con đường dẫn từ nhà tôi tới Đại học Hebrew ở Jerusalem. Chính xác làm thế nào bộ não có thể làm được như vậy vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng hệ thống khôi phục dữ liệu của bộ não hoạt động hiệu quả một cách đáng kinh ngạc, trừ khi bạn đang cố nhớ xem mình để chìa khoá xe hơi ở đâu.
Thế nhưng, làm cách nào để bạn tìm và khôi phục thông tin được lưu giữ trên những sợi dây quipu và các phiến đất sét? Nếu bạn chỉ có 10 hay 100 phiến đất sét, điều này không thành vấn đề. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn đã tích trữ hàng ngàn phiến, giống như một người cùng thời với Hammurabi, Vua Zimrilim xứ Mari?
Thử tưởng tượng vào thời điểm năm 1776 TCN. Hai người Mari đang tranh chấp quyền sở hữu một ruộng lúa mì. Jacob khăng khăng rằng anh ta đã mua cánh đồng này từ Esau cách đó 30 năm. Esau vặn lại rằng trong thực tế anh ta cho Jacob thuê ruộng lúa mì trong thời hạn 30 năm, và đến nay đã hết hạn, anh ta có ý định đòi lại nó. Họ la hét, cãi nhau và bắt đầu xô đẩy nhau trước khi nhận ra rằng họ có thể giải quyết cuộc tranh cãi này bằng việc đến thư khố hoàng gia, nơi lưu giữ các văn bản và hoá đơn mua bán được áp dụng cho mọi bất động sản của vương quốc. Sau khi đến thư khố, họ đã đi lại như con thoi để gặp hết viên chức này đến viên chức khác. Họ chờ đợi qua vài lần nghỉ uống trà thảo mộc, được thông báo là hãy quay lại vào ngày mai, và cuối cùng được đón tiếp bởi một nhân viên đang rất bực bội tìm kiếm phiến đất sét liên quan. Nhấn viên này mở cửa và dẫn họ vào trong một căn phòng lớn, từ sàn lên đến trần nhà chứa hàng ngàn phiến đất sét xếp thành hàng. Không cần phải thắc mắc về gương mặt cáu kỉnh của nhân viên này nữa. Làm thế nào anh ta có thể xác định được vị trí của văn bản liên quan đến ruộng lúa mì đang bị tranh chấp đã được viết cách đấy 30 năm? Thậm chí nếu anh ta tìm thấy nó, anh ta sẽ làm thế nào để kiểm tra chéo nhằm chắc chắn rằng văn bản từ 30 năm trước là tài liệu mới nhất liên quan đến ruộng lúa mì đang bị tranh chấp? Nếu anh ta không tìm thấy nó, điều đó có chứng minh được rằng Esau chưa bao giờ bán hoặc cho thuê ruộng này? Hoặc do tài liệu bị thất lạc, hoặc hoá bùn do nước mưa lọt vào thư khố?
Rõ ràng là, chỉ in dấu một tài liệu vào phiến đất sét thôi chưa đủ để đảm bảo cho việc xử lý dữ liệu hiệu quả, chính xác và thuận tiện. Nó đòi hỏi những phương pháp tổ chức như các danh mục liệt kê, các phương pháp sao chép giống như máy photocopy, các phương pháp khôi phục dữ liệu nhanh và chính xác giống như các thuật toán máy vi tính, cùng những người quản lý thư viện nghiêm túc (nhưng hy vọng là vui vẻ) biết cách sử dụng những công cụ này.
Việc phát minh ra những phương pháp trên còn khó khăn hơn rất nhiều so với việc phát minh ra chữ viết. Nhiều kiểu chữ viết được phát triển độc lập ở những nền văn hoá cách xa nhau cả về không gian lẫn thời gian. Mỗi thập kỷ, các nhà khảo cổ học lại phát hiện ra một số kiểu chữ viết khác đã bị lãng quên. Trong số đó, có một vài kiểu thậm chí còn lâu đời hơn cả chữ Sumer in trên đất sét. Nhưng hầu hết chúng đều là những sự kỳ lạ, vì những người sáng tạo ra chúng đều thất bại trong việc tạo ra các cách hiệu quả để phân mục và khôi phục dữ liệu. Điều đã khiến Sumer trở nên khác biệt, cũng như Ai Cập thời những Pharaoh, Trung Hoa cổ đại và Đế chế Inca, đó chính là các nền văn hoá này đã phát triển những kĩ thuật tốt trong việc lưu trữ, ghi mục lục và tra cứu sổ sách ghi chép. Họ cũng lập ra trường học dành cho những người chép thuê, thư ký, quản lý thư viện và kế toán.
Một bài tập viết ở trường thuộc vùng Lưỡng Hà cổ đại, được các nhà khảo cổ học hiện đại phát hiện, đã cho chúng ta một cái nhìn lướt qua cuộc sống của những người đi học cách đây 4.000 năm.
Tôi đi vào và ngồi xuống, thầy giáo đã đọc bảng của tôi. Ông ấy nói: “Có gì đó thiếu!”
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Một trong những người phụ trách nói, “Tại sao anh lại mở mồm nói mà chưa xin phép tôi?”
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Người phụ trách việc thực hiện các quy tắc nói, “Tại sao anh đứng lên mà chưa xin phép tôi?”
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Người gác cổng nói, “Tại sao anh ra ngoài mà chưa xin phép tôi?”
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Người giữ chiếc bình đựng bia nói, “Tại sao anh lấy bia mà chưa xin phép tôi?” Và ông ấy đánh đòn tôi.
Thầy giáo người Sumer nói, “Tại sao anh lại nói tiếng Akkad?”*
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Thầy giáo của tôi nói, “Chữ viết của anh không đẹp”.
Và ông ấy đánh đòn tôi.
Những người chép thuê cổ đại đi học không chỉ để đọc và viết, mà còn để sử dụng các bản thống kê, từ điển, lịch, mẫu đơn và bảng biểu. Họ nghiên cứu và tiếp thu các kĩ thuật thống kê, khôi phục và xử lý thông tin rất khác so với cách mà bộ não đã làm. Trong bộ não, mọi dữ liệu đều liên kết tự do. Khi tôi cùng với vợ mình ký vào văn tự thế chấp ngôi nhà mới của chúng tôi, tôi nhớ lại nơi đầu tiên chúng tôi sống cùng nhau, nó làm tôi nhớ đến tuần trăng mật ở New Orleans, nó nhắc tôi nhớ đến những con cá sấu, nó làm tôi nhớ lại những con rồng, nó khiến tôi nhớ về bộ phim The Ring of the Nibelungen, và đột nhiên, trước khi tôi nhận thức được, ở đó tôi thấy mình đang ngân nga một giai điệu chủ đạo của vở opera Siegfried khiến nhân viên ngân hàng bối rối. Trong công việc hành chính, mọi thứ đều phải được sắp xếp riêng biệt. Có một ngăn kéo cho các văn tự cầm cố nhà, một cái khác cho các giấy chứng nhận kết hôn, cái khác nữa cho các bản đăng ký thuế, và cái thứ tư cho các tài liệu tố tụng. Nếu không thì làm sao bạn có thể tìm thấy bất cứ thứ gì? Những thứ liên quan đến nhiều ngăn kéo, như vở nhạc kịch của Wagner (tôi có nên sắp xếp chúng dưới dạng “âm nhạc”, “rạp hát”, hoặc thậm chí nghĩ ra một phân mục hoàn toàn mới?) là bài toán cực kỳ đau đầu. Vì vậy, người ta có thể không ngừng thêm vào, bỏ đi và sắp xếp lại các ngăn kéo.
Để có thể hoạt động, người vận hành một hệ thống ngăn kéo như vậy phải lên lại chương trình để dừng việc suy nghĩ như người thường, và bắt đầu suy nghĩ như những nhân viên sổ sách hoặc kế toán. Giống như mọi người từ thời cổ đại cho đến ngày nay, họ đều biết rằng những nhân viên sổ sách hoặc kế toán suy nghĩ theo cách không phải của con người. Họ suy nghĩ như những cái tủ có ngăn kéo đựng tài liệu. Đó không phải là lỗi của họ. Nếu họ không suy nghĩ theo cách đó, các ngăn kéo của họ sẽ bị lẫn lộn hết và họ không thể cung cấp các dịch vụ mà chính phủ, công ty và các tổ chức yêu cầu. Tác động quan trọng nhất của hệ thống chữ viết lên lịch sử loài người là nó thay đổi dần cái cách mà con người suy nghĩ và nhìn nhận về thế giới. Sự liên kết tự do và lối suy nghĩ tổng thể đã nhường chỗ cho sự chuyên môn hoá và hành chính.
Ngôn ngữ của những con số
Nhiều thế kỷ trôi qua, việc xử lý dữ liệu bằng các phương pháp hành chính phát triển ngày càng khác nhiều so với cách suy nghĩ tự nhiên của con người và ngày càng quan trọng hơn. Một bước quyết định đã được tiến hành ở một thời điểm nào đó trước thế kỷ 9, khi một kiểu chữ viết phần nào đó mới mẻ được phát minh, nó có thể lưu trữ và xử lý các dữ liệu toán học với hiệu quả chưa từng thấy. Kiểu chữ viết chưa đầy đủ này được cấu tạo bởi 10 ký tự, đại diện cho các số từ 0 đến 9. Rắc rối ở chỗ, các ký tự này được biết đến như là các số Ả-rập mặc dù chúng do người Hindu phát minh ra đầu tiên (còn rắc rối hơn nữa, người Ả-rập hiện đại sử dụng một bộ số nhìn hoàn toàn khác so với các con số của phương Tây). Nhưng người Ả-rập được công nhận là tác giả bởi vì khi xâm lược Ấn Độ, họ đã bắt gặp hệ thống này, hiểu được sự hữu dụng của nó, cải tiến nó, và truyền bá nó khắp Trung Đông và sau đó tới cả châu Âu. Sau đó, một vài kỷ tự khác được thêm vào các số Ả-rập (như là các ký hiệu cộng, trừ, nhân), và cơ sở của các ký hiệu toán học hiện đại ra đời.
Mặc dù hệ thống chữ viết này còn chưa đầy đủ, nhưng nó đã trở thành ngôn ngữ thống trị thế giới. Hầu hết các quốc gia, công ty, tổ chức và cơ quan – bất kể nói tiếng Ả-rập, tiếng Hindi, tiếng Anh hoặc tiếng Na Uy – đều sử dụng ngôn ngữ toán học để lưu trữ và xử lý dữ liệu. Mỗi lượng thông tin có thể chuyển sang ngôn ngữ toán học đều được lưu trữ, truyền bá và xử lý với tốc độ và hiệu quả khó tin.
Vì vậy, ai đó muốn gây ảnh hưởng đến những quyết định của chính phủ, tổ chức hoặc công ty thì phải học cách nói chuyện bằng các con số. Các chuyên gia đã làm hết sức mình để thể hiện các quan điểm về “sự nghèo nàn”, “hạnh phúc” và “sự trung thực” bằng các con số (“mức thu nhập tối thiểu”, “mức độ hài lòng chủ quan về đời sống”, “xếp hạng tín dụng”). Toàn bộ các lĩnh vực tri thức, như vật lý và kĩ thuật, hầu như đã mất liên lạc với ngôn ngữ nói của con người và được duy trì chỉ bằng ngôn ngữ toán học.
Một phương trình để tính toán gia tốc khối lượng i dưới ảnh hưởng của trọng lực theo thuyết tương đối. Hầu hết những người nghiệp dư khi nhìn vào những phương trình như vậy đều thường sợ hãi ớn lạnh, giống như một con hươu bắt ánh đèn pha của một chiếc xe đang lao nhanh. Phản ứng này hoàn toàn tự nhiên, và không phải là biểu lộ sự thiếu thông minh hoặc tính ham học hỏi. Ngoài những ngoại lệ hiếm có, bộ não con người đơn giản không thể nghĩ đến những khái niệm như tính chất tương đối và cơ học lượng tử. Tuy nhiên, những nhà vật lý học có thể làm được vì họ đã gác sang một bên cách suy nghĩ truyền thống, và học cách nghĩ mới với sự giúp đỡ của các hệ thống xử lý dữ liệu bên ngoài. Những quyết định trong quá trình suy nghĩ của họ không xảy ra trong đầu, mà trong các máy vi tính hoặc trên bảng đen của lớp học.
Gần đây, ngôn ngữ toán học đã có thêm một hệ thống chữ viết mang tính cách mạng hơn, hệ thống chữ viết nhị phân vi tính chỉ gồm hai ký tự: 0 và 1. Những chữ mà tôi đang gõ trên bàn phím máy vi tính của mình được viết bởi những sự kết hợp khác nhau của 0 và 1.
Chữ viết được sinh ra để làm kẻ hầu cho ý thức con người, nhưng dần dần nó lại đóng vai trò ông chủ. Những chiếc máy vi tính của chúng ta khó có thể hiểu được cách Homo sapiens nói, cảm nhận và mơ ước. Vì vậy, chúng ta đang dạy Homo sapiens cách nói, cảm nhận và mơ ước bằng ngôn ngữ của những con số mà máy vi tính có thể hiểu được.
Và đây không phải là điểm kết thúc của câu chuyện. Lĩnh vực trí thông minh nhân tạo đang nghiên cứu để tạo ra một dạng trí thông minh mới chỉ dựa trên hệ chữ viết nhị phân của máy vi tính. Những bộ phim khoa học viễn tưởng như Ma trận và Kẻ hủy diệt kể về cái ngày hệ nhị phân phá bỏ gông xiềng của loài người. Khi con người cố gắng giành lại quyền kiểm soát hệ nhị phân nổi loạn này, nó đáp trả bằng cách quét sạch loài người.