CÁI BẾN CẢNG NÀY THẬT SỰ KHÔNG RA DÁNG BẾN CẢNG gì cả, Steve quá sức thất vọng khi nhận ra không hề có bóng dáng con tàu nào ở đây. Cậu đã hy vọng mình sẽ đặt chân đến một bến cảng rộng lớn với những cột trụ và những đàn mòng biển, cùng hàng tá thuyền chứa đầy lương thực dự trữ, bên trong từng khoang là những chiếc giường ngủ êm ái. Nhưng đó chỉ là hy vọng, thực tế thì nói lên điều ngược lại, cậu ta chỉ tìm được một bậc thềm nhỏ xíu trên một khoảng sân màu xám, được bảo vệ khỏi sự tác động của biển bằng những gờ đá nhấp nhô mà cậu ta có thể nhận ra được trong bóng tối. Có một thứ giống như buồng lái với bánh lái tàu gắn cố định sát mép ngoài bậc thềm, trông qua cứ ngỡ là một “chiến tích của biển” hay đại loại thế, một cái bàn bị gãy với đầy rác và chuột trên đó, một mớ áo khoác cũ nát nằm ì ở một góc, một quả cam tươi đã đổi sang màu đục ngầu của mù tạc. Thứ to nhất trong tầm mắt là một chiếc xuồng đang neo vào cái bến cảng đặc biệt này, thật chẳng ra làm sao cả.
Tuyệt! Làm sao mà những người đó thoát khỏi cái hòn đảo này được, bằng cách bơi ngửa à? Còn nếu có sân bay, vậy thì nó đang nằm ở chỗ quái quỷ nào không biết?
Điều oái ăm bây giờ là Steve phải nhanh chóng tìm một lối thoát khác, trong khi lại đã hẹn với Claire sẽ gặp nhau ở đây. Cậu không thể cứ vậy mà đi, nhưng cũng không muốn đứng yên một chỗ mà chờ đợi.
Mày có thể bỏ lại cô ấy mà.
Vẻ mặt Steve lộ vẻ cáu kỉnh, anh chàng giận dữ đá vào cái vỏ thép đã rỉ sét của một trong số đống máy móc nằm ngổn ngang. Cô ấy có vẻ có hơi phiền phức và hơi khờ khạo một tí… nhưng không thể chối cãi rằng chính cô ấy đã cứu cậu, cô ấy quay về để cứu mạng một tên Umbrella đang bị thương chỉ vì hắn đã thả cô ấy đi, điều đó thật sự hơi… tốt thôi, điều đó hoàn toàn đáng phải làm. Thật sai quấy nếu bỏ rơi cô ta.
Không chắc phải làm gì tiếp theo, nên cậu bước đến chỗ cái bánh lái và bắt đầu xoay, ngạc nhiên khi nó hoạt động một cách rất trơn tru so với vẻ bề ngoài cũ kỹ…
…và có tiếng động cơ nhỏ vang lên, cái bệ phía dưới chân cậu bỗng tách ra khỏi vị trí đang đứng và trượt ra ngoài mặt nước, cùng lúc những bong bóng khổng lồ bắt đầu nổi lụp bụp lên mặt nước phía trước.
Lạy Chúa! Steve nắm chặt cái bánh lái bằng một tay, tay còn lại nhắm thẳng khẩu Luger vàng về phía những bọt bong bóng đang nổi lên. Nếu đó là một trong số lũ sinh vật của Umbrella, ắt là nó phải thở ra hơi chì nóng hổi…
…và một chiếc tàu ngầm nhỏ trồi lên khỏi mặt nước như một con cá kim loại đen trùi trũi, nắp tàu bật lên ngay trước chân cậu. Có một cầu thang dẫn xuống con tàu, bên dưới hoàn toàn trống rỗng. Trông nó rất cứng cáp và được bảo quản rất tốt, không giống như bị bỏ phế chút nào.
Steve nhìn nó chằm chằm đầy ngạc nhiên. Cái thứ chết tiệt này là sao? Nó giống như trò chơi ở công viên giải trí, kỳ lạ đến nỗi cậu chẳng biết phải nghĩ sao nữa.
Còn có thứ gì kỳ lạ hơn những điều mình gặp phải hôm nay chăng?
Đúng rồi. Tấm bản đồ mà cậu đã nhìn thấy sau biệt thự hình như có một cặp mũi tên cùng những mô tả về bến tàu và đường băng… và hiển nhiên là cậu phải dùng con tàu ngầm này để đến được nơi đó. Umbrella thật là một công ty lắm trò.
Steve bước xuống nấc thang trên cùng và hơi do dự, làn da cậu vẫn còn đỏ ửng do hậu quả của lần dấn bước vào một nơi bất định mới đây. Chết đuối cũng chẳng khá hơn bị thiêu sống là mấy.
Ái chà! Đành phải liều thôi.
Lại đúng nữa. Steve trèo xuống, và dẫm lên một tấm đệm áp suất dưới sàn lúc rời khỏi thang. Nắp tàu phía trên đóng lại. Cậu ta vội dẫm lên nó lần nữa thì nắp tàu mở ra. Ít nhất thì cậu cũng biết mình sẽ không bị chết ngộp.
Bên trong con tàu bài trí rất đơn sơ, kích thước của nó có lẽ to cỡ bằng một cái phòng tắm, và bị chia đôi bởi cái cầu thang ngay chính giữa. Có một băng ghế đệm bên hông, một nhà vệ sinh phía sau, và một buồng điều khiển phía trước.
“Để xem mình sẽ tìm được cái gì ở đây,” Steve lẩm bẩm rồi bước vào buồng điều khiển. Mọi thứ thật đơn giản đến mức buồn cười khi chỉ có một cần gạt với hai thiết lập. Nó đang nằm ở vị trí ghi chữ “Main.” Thiếp lập bên dưới biểu thị bằng chữ “Transport,” và Steve bật cười, kinh ngạc vì sao nó lại dễ dàng như vậy. Có thể nói là thân-thiện-với-người-dùng.
Cậu đạp lên đệm áp suất lần nữa cho nắp tàu đóng lại, tự hỏi không biết Claire sẽ có ấn tượng thế nào với phát hiện của mình trong khi hạ cần điều khiển xuống. Cậu nghe thấy tiếng động cơ khẽ vang lên và con tàu bắt đầu dịch chuyển, lặn xuống nước. Có mỗi một ô cửa sổ, nhưng nó quá tối để nhìn thấy những thứ bên ngoài, nếu không kể đến những bọt bong bóng đang nổi lụp bụp.
Quãng đường đi xuống kéo dài khoảng mười giây. Con tàu có vẻ đã ngừng chuyển động, và Steve nghe thấy âm thanh kim loại sắc gọn phát ra từ nắp tàu, dường như đang lướt qua vật gì đó – chắc chắn không phải là âm thanh ở dưới nước.
Tiếng lướt tới trước và lên trên. Nắp tàu mở ra, và Steve bắt đầu trèo lên, tay nắm chặt súng… rồi đặt chân trên một tầng hầm có sàn kim loại, vách tường bằng thủy tinh hoặc hợp chất plexi, bao bọc bởi một làn nước tối thui. Có vài nấc thang dẫn xuống một hành lang được thắp sáng đầy đủ, nơi chỉ có bức tường bên trái được thiết kế nhô ra ngoài luồng nước.
Yees! Chỗ này có kiểu kiến trúc giống như trong một vài khu thủy cung, cho phép mọi người có thể đi xuyên qua đường hầm dưới nước để ngắm cá. Cậu chẳng hề thích thú việc này tí nào, khi nghĩ tới hình ảnh những mảnh kính bị vỡ chỉ bởi bọn cá mập nảy ra ý định thăm hỏi… hoặc thứ gì đó tệ hơn nữa.
Thôi đủ rồi. Steve bước xuống hành lang, men theo lối đi quẹo qua hai ngã rẽ, thận trọng quan sát phía trước. Lần đầu tiên kể từ lúc hòn đảo bị tập kích, cậu thật sự cảm thấy lo ngại – một nỗi sợ hãi mơ hồ khi nghĩ đến tình trạng bị cô lập, đến một thứ gì đó sẽ vọt ra từ màn nước và tiến tới lớp kính, một con thú hay đại loại thế - có thể là một bàn tay tái nhợt, hoặc một bộ mặt trắng bệch chết chóc áp sát cửa sổ, nhe răng cười với cậu.
Không dám tưởng tượng thêm nữa. Steve vọt thẳng, và khi thấy hành lang dẫn đến một cánh cửa có vẻ là lối thoát khỏi căn phòng nước này, cậu tự gọi mình là “Đồ nhát cáy,” nhưng cũng đồng thời cảm thấy nhẹ nhõm hẳn ra.
Cậu đẩy cửa, và thấy một, hai, ba,… bốn con zombie, tất cả bọn chúng đều đang rất muốn làm bạn với cậu. Từng con bắt đầu xoay người lại và lê từng bước đi khập khiễng tiến thẳng về phía cậu, những mảnh vải tơi tả của bộ đồng phục chúng đang mặc – đồng phục của Umbrella, không còn nghi ngờ gì nữa – đang bay lất phất theo những cánh tay giang rộng. Xộc vào mũi là một thứ mùi của cá chết.
“Unnnh,” một trong số chúng đang rên rỉ, rồi một tên khác xen vào, âm thanh khe khẽ kỳ quái giống như đang đau buồn và mất mát. Khi nghĩ đến những điều mà Umbrella đã gây ra cho mình, Steve không cảm thấy thông cảm gì cho lắm. Thật sự là không.
Căn phòng này bị ngăn đôi bởi một bức vách, ba con zombie ở phía bên trái không thể nhìn thấy con đang lang thang ở phía bên phải… mặc dù cậu nghĩ là chúng có thấy, khi quan sát gần hơn. Mỗi con trong bộ ba đều có cặp mắt đỏ sẫm sáng rực kỳ lạ. Nó làm cậu nhớ lại một bộ phim đã xem qua, nói về một người có khả năng nhìn xuyên tất cả mọi thứ bằng tia X.
Chắc chắn mình sẽ chẳng bao giờ biết được chúng thấy cái gì. Steve ngắm thẳng về phía tên gần nhất, nhắm một mắt lại, và pằng, phát đạn xuyên thẳng qua trán tạo nên một lỗ trống hoác trên cái trán màu xanh xám của nó như có phép màu. Con mắt đỏ của nó mờ dần đi và tắt hẳn khi nó gục xuống, bắt đầu từ khuỷu chân, rồi nằm dài trên mặt đất. Các đồng bọn của nó không hề quan tâm tới, và vẫn tiến về phía cậu. Còn tên đơn độc kia bị cản lại bởi cái bàn, hắn vẫn cứ bước tới mà không biết mình đang dậm chân tại chỗ.
Steve xử tên thứ hai cũng giống như tên đầu tiên, một phát ngay đầu, nhưng vì một lý do nào đó, cậu chẳng cảm thấy gì vẻ vang khi bắn hạ bọn chúng như vậy. Không như ở khu vực trại giam, lúc đó cậu chẳng thấy chán chút nào – thậm chí còn thấy khoan khoái nữa kìa; cậu bị mắc kẹt trong cái chốn chết tiệt đó lâu đến nỗi muốn phát điên, và việc nắm được quyền điều khiển đã tạo cảm giác như trong lễ Giáng sinh, như một món quà Giáng sinh vĩ đại mà một đứa trẻ chờ đợi suốt nhiều năm, giống như cậu đã từng phải chờ...
Thôi ngay đi. Steve không muốn nghĩ về điều đó nữa, thật vô nghĩa. Vậy ra cậu chẳng còn thích thú với việc vỗ tay mỗi lần hạ một tên trong bọn chúng, vậy thì sao nào? Tất cả những điều đó cho thấy cậu đã bắt đầu chán ngán.
Steve hạ hai tên còn lại một cách nhanh gọn, những phát súng dường như vang to hơn trước, phải nói là chói tai. Cậu đảo mắt nhìn quanh căn phòng xem có gì xài được không - nếu mớ kẹp giấy và mấy ly cà phê dơ bẩn kia mà hữu dụng thì chắc cậu yên vị rồi – và tiếp tục đi tới. Tấm vách đằng sau có hai cánh cửa nằm ở hai bên. Nguyên tắc chung là chọn phía bên trái. Theo như cậu đọc được ở đâu đó, khi buộc chọn lựa giữa trái và phải thì hầu hết tất cả đều chọn bên phải.
Sau khi đã kiểm tra đạn dược cẩn thận, cậu đi ngang qua một cái bể cá rỗng và lớn chiếm hầu như toàn bộ bên trái căn phòng, đẩy nhẹ cho cánh cửa hé mở vừa đủ để có thể quan sát nhanh đằng sau. Tối tăm, ngóc ngách, có mùi dầu máy và nước mặn, không có thứ gì chuyển động. Cậu bước vào bên trong, rà quanh bằng khẩu Luger trên tay…
…và bỗng cười thật lớn, một nỗi vui sướng tràn ngập khắp cơ thể khi tiếng cười dội lại xung quanh. Đây là nhà để máy bay, và một chiếc thủy phi cơ to tướng đang đậu ngay trước mắt cậu. Phải nói là quá to, vì dù sao đi nữa cậu thường chỉ dùng máy bay cá nhân loại hai động cơ nhỏ bé. Hết sức thỏa mãn, Steve bước về phía chiếc máy bay đang đậu bên dưới tấm lưới sắt mà cậu đang đứng. Tuy là một tên phi công còn thiếu kinh nghiệm, nhưng cậu cũng có đủ hiểu biết để không làm hỏng món đồ chơi này.
Việc cần làm trước tiên là leo lên nó kiểm tra nhiên liệu, tình trạng chung, nghiên cứu hệ thống vận hành máy bay…
Steve dừng lại bên rìa, nhìn xuống phía dưới và khẽ nhăn mặt. Cậu đang đứng trên cửa trước ít nhất mười feet, và có vẻ như nó đã bị khóa chặt.
Có một dãy máy móc bên trái của cậu với vài bảng đèn sáng rực. Steve bước đến quan sát chúng, và mỉm cười khi thấy nút điều khiển để khởi động thang máy. Căn cứ theo sơ đồ thì hệ thống này cũng dùng để mở cửa máy bay.
“A lê hấp,” cậu vừa nói vừa ấn vào công tắc. Tiếng máy móc ầm ĩ và khó chịu rền vang khắp nhà để máy bay làm Steve rụt người lại, nhưng nó đã ngưng sau vài giây, cùng lúc một cái thang máy có sức chứa hai người trượt đến và tạm dừng lại ở mép hành lang.
Cậu bước lên thang máy, nghiên cứu bảng điều khiển trên đó – và bắt đầu nguyền rủa bằng những ngôn từ thô tục nhất nghĩ ra được. Kế bên ba lỗ trống hình lục giác là dòng chữ, “Gắn những chìa khóa thích hợp vào đây”. Không chìa khóa, không khởi động.
Chúng có thể ở khắp nơi trên cái hòn đảo chết tiệt này! Và chắc gì cả ba cái khóa trời đánh đó nằm chung một chỗ?
Cậu hít hơi thật sâu để trấn tĩnh lại một chút, và dành vài phút tiếp theo để hình dung sự liên quan giữa bộ điều khiển máy bay với toàn bộ hệ thống còn lại, cố tìm cách để bỏ qua những cái chìa khóa. Và sau một hồi trầm tư cân nhắc kỹ lưỡng, cậu lại bắt đầu nguyền rủa. Cuối cùng, khi đã chửi đến mỏi miệng, cậu đành chấp nhận sự thật.
Steve đi quanh và bắt đầu tìm kiếm khu vực này, quan sát kỹ từng khe nứt nhỏ, liên tục hình dung ra nơi có thể giấu chìa khóa trong lúc đặt tay lên những cái vỏ máy nhớp nháp bám đầy bụi bặm – và quyết định là sẽ nhảy nhót trên thi thể của tên nhân viên Umbrella bị bắn hạ tiếp theo, cho đáng cái tội đã làm việc ở một nơi vô cùng phức tạp quá mức cần thiết. Chìa khóa, biểu tượng, huy hiệu và tàu ngầm, thật không thể hiểu nổi tại sao họ lại thích làm việc ở cái chốn quái quỉ như vậy.
o0o
Một tên nhiễm virus mặc loại áo khoác trong phòng thí nghiệm, hàm dưới của hắn đã bị dập nát hoặc rơi đâu mất; nó rên rỉ và lắp bắp trông rất kinh khủng, cái lưỡi ngoằn nghèo cựa quậy treo lủng lẳng lắc lư dưới cần cổ. Claire không thể đoán được đây là đàn ông hay đàn bà, mặc dù cô ấy tin rằng điều ấy không quan trọng. Nhìn nó ghê rợn chẳng kém gì thương hại, và cô giải thoát nó khỏi sự đau đớn bằng một phát ngay thái dương, rồi tiếp tục rà soát – đây là văn phòng làm việc của phòng thí nghiệm, một nơi chật hẹp chứa đủ thứ đồ - trước khi quay lại hành lang, cảm thấy đầy thất vọng vì không thu được kết quả gì sau cuộc tìm kiếm.
Cô đã dấn bước vào lối đi này sau khi rời tòa lâu đài, nó dẫn đến một khoảng sân tương đối rộng, đầy bụi bậm và hoàn toàn riêng biệt - giống nhà tù hơn là lâu đài; thậm chí sau khi đã lục lọi qua vài căn phòng, cô vẫn không biết chính xác mình đang ở đâu; có lẽ là khu kiểm nghiệm sản phẩm, hoặc khu huấn luyện dành cho các nhân viên an ninh hoặc quân đội.
Hoặc giả chỉ là một loại kiến trúc làm ra để đập tan mọi hy vọng. cô bi quan nghĩ thầm trong lúc nhìn về phía cửa trước. Cô đã vào đây khoảng mười phút trước, với hy vọng rằng Rodrigo hãy còn sống, rằng Steve thì tìm được một chiếc thuyền, và ngài Ashford điên khùng kia cùng với chị của hắn sẽ không nghĩ tới chuyện cho nổ tung hòn đảo này - và mười phút ngắn ngủi sau, những hy vọng đó đã hoàn toàn biến mất. Điều cô thật sự muốn có bây giờ là một lọ thuốc, bởi nó sẽ giúp cô đến gần hơn với cuộc đào thoát.
Cô bắt đầu tìm kiếm từ tầng trên, trải qua một cuộc mạo hiểm nho nhỏ đầy thú vị và rất khó chơi đối với độ tuổi của cô. Tất cả những gì mà cô tìm thấy trên đó là một phòng thí nghiệm bị khóa và những mảnh kiếng vỡ rơi vãi khắp nơi trên sàn nhà, có vẻ là từ cái bể chứa bị vỡ. Cô trông thấy những thiệt hại bên trong qua một khung cửa sổ, và buộc phải tránh xa nó ra khi một gã tội nghiệp đầy máu me mặc đồ bảo hộ lao đầu tới lớp kính. Gã đang giãy chết; bộ đồng phục hiển nhiên chẳng giúp ích được gì, còn cái đầu của gã hầu như đã nổ tung, mặt trong cái nón bảo hộ phủ đầy máu. Nó khiến cô có cảm giác tim mình bị bóp nghẹt lại, nếu không muốn nói là sợ gần chết, và rồi cuộc tìm kiếm ở tầng trên chấm dứt theo tiếng còi báo động của hệ thống an ninh, rõ ràng là do gã mặc bộ đồ thí nghiệm gây ra. Claire đã phải đâm đầu lao xuống cầu thang để khỏi bị mắc kẹt lại trong đó.
Phù!
Cô đã hạ có đến chín con zombie, ba trong số đó mặc đồng phục của nhân viên phòng thí nghiệm hoặc của nhân viên vệ sinh, thế mà chẳng kiếm được lấy một cái giẻ lau nhà. Chẳng có gì trong phòng thay quần áo - ấy là cô đã kiểm tra kỹ từng cái tủ, xới tung từng cái khố đeo cùng mấy tờ báo khiêu dâm và vài thứ khác, cũng không có gì trong cái nhà tắm chật hẹp lạc lõng, không và không. Cô đã nghĩ rằng một công ty dược chắc hẳn cũng phải có vài lọ thuốc nằm đâu đó, nhưng lúc này thì điều đó thật đáng ngờ.
Claire quay trở lại đoạn hành lang dài phân nhánh từ tầng một của tòa nhà, nó dẫn đến một cái sân nhỏ ngoài trời. Cô hy vọng mình có thể tìm được thứ gì đó cho Rodrigo mà không phải rời khỏi tòa nhà này khi chưa đến lúc thích hợp, nhưng không còn sự lựa chọn nào khác.
Nếu bị lạc, mình vẫn có thể lần theo dấu vết những xác chết để quay lại, cô vừa suy nghĩ vừa lướt nhanh trên đoạn hành lang không có gì nổi bật. Thật khó mà cười nổi trong lúc này, khi mà mọi thứ đang ngoài tầm kiểm soát. Cộng thêm việc đạn sắp hết, khiến cô chẳng còn tâm trí đâu mà phấn khởi nữa.
Cô bước ra khỏi đoạn hành lang ấm áp để tiến vào một cái sân lạnh lẽo chìm trong màn sương. Mùi của biển tràn ngập trong bầu không khí lành lạnh ảm đạm ban đêm. Một ngọn lửa nhỏ đang cháy bén vào bức tường. Toàn bộ khu nhà máy Rockfort này được bố trí một cách kỳ lạ, cô nghĩ thầm, một sự kết hợp khác thường giữa xưa và nay. Không mang lại tác dụng gì nhưng nhìn rất ấn tượng; cái sân nhỏ trải đầy sỏi, chắc chắn không phải là mới được làm gần đây…
Claire cảm thấy ớn lạnh. Một tia sáng đỏ từ cái ống nhòm lazer xuyên qua làn sương mù trước mặt, quét thẳng về phía cô từ chỗ nào đó ở phía trên. Có một ban công thấp phía bên phải của cô, cái cầu thang dẫn lên đó nằm sát bức tường phía đông.
Cái cầu thang, chỗ nấp!
Đó là những gì mà cô có thể nghĩ ra được trước khi cái chấm đỏ nhỏ lướt ngang ngực. Cô phóng người ra khỏi lối đi ngay khi phát súng đầu tiên xuyên thủng bầu không khí lạnh lẽo, viên đạn găm sâu vào đài phun nước nhỏ bằng đá. Cô lăn tròn và chạy nhanh về phía cầu thang, trong lúc tia sáng đỏ giật lại và rà rà để tìm cho được cô. Pằng, thêm một phát thứ hai, tuy hụt nhưng đủ gần để cô có thể nghe tiếng viên đạn cắt xuyên qua không khí, gây ra một âm thanh the thé. Cô ấy thoáng nhìn thấy kẻ đi săn trước khi cúi xuống nấp sau cái lan can thấp bằng đá, không ngạc nhiên gì khi nhận ra mái tóc vàng bóng mượt và bộ vét đỏ được tô điểm bằng vàng.
Cô cảm thấy tức giận hơn là sợ, đáng lẽ phải cảnh giác hơn sau những gì đã trải qua - và cô hầu như đã mệt lữ vì một tên kỳ quặc lén lút thuộc giai cấp quý tộc.
Phải ngưng cái trò này ngay. Claire gác khẩu súng lục của cô lên tay vịn cầu thang bằng đá và nã hai phát về hướng ngài Alfred. Ngay lập tức cô nhận được những tiếng thét đau đớn tức giận. Cho mi nếm mùi bị một kẻ tay mơ bắn trả.
Tận dụng thời điểm hắn bị bất ngờ, Claire trèo lên ba bậc thang và đánh liều nhìn qua tay vịn, vừa đúng lúc thấy hắn chạy về phía cánh cửa ở bức tường phía tây và đóng sầm lại.
Cô nhảy lên cầu thang và đuổi theo hắn, tông thẳng vào cửa và đi xuống một đại sảnh nhuốm đầy ánh trăng, những tia sáng mỏng manh nhẹ nhàng xuyên thấu bóng tối. Đuổi theo hắn lúc này thật sự không phải là một quyết định sáng suốt, cô không muốn bị lọt vào bẫy phục kích của hắn nữa. Cô thấy một thứ giống như máy bán nước ngọt ở cuối đại sảnh, và vẫn nghe được tiếng bước chân đang chạy của hắn…
…và nghe tiếng cửa đóng sầm lại trước khi cô đến được cuối hành lang, nơi đó có một căn phòng nhỏ với hai cái máy bán hàng tự động và hai cánh cửa cho cô lựa chọn.
Claire do dự, hết nhìn cái này tới cái kia – rồi đặt hai tay lên đầu gối để lấy hơi, từ bỏ việc truy đuổi. Cô biết là hắn đang đứng ở phía bên kia của một trong hai cánh cửa này, đợi cho cô đi qua đó. Coi như ghi được một điểm trước thằng gàn ấy. Dù gì cũng không phải là một chiến thắng vẻ vang. Chỉ cần một chút may mắn nữa là sẽ cô sẽ sớm rời khỏi hòn đảo này, gã Alfred Ashford sẽ chì còn là một ký ức tồi tệ.
Một lát sau, cô đứng thẳng dậy, bước đến chỗ hai cái máy bán hàng tự động để kiểm tra - một cái bán snack còn cái kia thì bán nước giải khát. Cô thình lình nhận ra mình đang đói cồn cào và rất khát nước. Lần cuối cùng cô ăn là lúc nào nhỉ? Cả hai cái máy đều đã hư, nhưng bằng vài cú đá trời giáng cô đã giải quyết được vấn đề hết sức nhẹ nhàng. Hầu hết đều đã bị ôi thiu, nhưng cũng còn vài túi đậu hỗn hợp với mấy lon nước cam có thể dùng được. Tuy không bằng một bữa ăn tối, nhưng dù sao đi nữa, trong tình cảnh này thì thu hoạch được như vậy cũng không phải tồi. Cô ăn ngấu nghiến, rồi nhét mấy gói chưa khui vào túi áo để dành, bất giác cảm thấy tự tin hơn hẳn.
Vậy... cửa số một hay cửa số hai? Sấp-ngửa-sấp-ngửa… Cửa màu xám, cái nằm bên phải hành lang. Cô ngờ rằng gã Alfred vẫn đang kiên nhẫn đứng chờ, vì thế cô cẩn thận nép sát người vào cánh cửa để đề phòng, đẩy nó mở ra bằng nòng súng 9 ly.
Claire thở phào nhẹ nhõm. Đây là một căn phòng nhỏ ấm cúng, có hai chiếc giường và một cái máy đánh chữ đặt trên bàn, một cái hòm đầy bụi bặm nằm trong góc. Có vẻ an toàn, vậy là gã Alfred phải ở cửa số một. Cô bước vào bên trong và bắt đầu tìm kiếm, lục lọi trong đống đồ linh tinh nằm trên một cái giường – và nín thở lại, hai mắt mở to.
Cảm ơn nhé, ngài Alfred!
Ai đó đã vứt một cái túi đồ lên giường, và nó rơi xuống kế bên cây cột, trong đó có chứa một ống tiêm và hai cây kim đã tiệt trùng, một hộp diêm không thấm nước, một nửa băng đạn cỡ 9 ly, và một nửa lọ thuốc cầm máu cùng loại với thứ mà Rodrigo đã dùng hết, chính xác đây là thứ mà cô đang tìm. Có vài món đồ lặt vặt dư thừa trong túi đồ còn sót lại, một cây viết, một cái tuốc nơ vít nhỏ và một bao cao su chưa sử dụng… cuối cùng cô đã có thể tròn mắt mà cười toe toét. Thật thú vị, ai đó đã xếp vào đây những thứ hết sức cần thiết.
Nụ cười của cô chợt tắt đi khi phát hiện có những vệt máu dính trên túi, nhưng dẫu sao vẫn còn thoải mái hơn những gì đã gặp trong ngày hôm nay. Cô chất đồ đạc vào túi và buộc nó ngang hông, bỏ qua đó vài món đồ từ cái túi chật ních của mình. Thật khó tin là cô lại gặp may như vậy. Thuốc chính là điều làm cô quan tâm nhất, nhưng tìm được thêm đạn lại còn tuyệt vời hơn. Dù chỉ có một băng đạn, nhưng nó đáng giá chẳng khác gì một món quà của thượng đế ban tặng.
Việc lục lọi phần còn lại trong căn phòng không mang đến thêm kết quả nào nữa, nhưng chẳng sao cả. Cô cảm giác như mọi chuyện đã đến hồi kết thúc, một dấu chấm hết cho cái đêm kinh hoàng và khủng khiếp.
Trở lại nhà giam và đưa lọ thuốc này cho Rodrigo, sau đó kiếm Steve coi cậu ta có gặp thứ gì may mắn để đưa mình trở về nhà không? Cô suy nghĩ một cách vô tư, và bước chân ra khỏi phòng. Đây quả là một chuyến đi khó khăn, nhưng nếu so với thành phố Raccoon thì nó chẳng khác gì một buổi dã ngoại…
Tiếng kêu lách cách nặng nề của cánh cửa chớp đang từ từ sập xuống khiến cô thức tỉnh. Khoảnh khắc sung sướng chợt tan biến khi dãy hành lang, lối thoát của cô, hoàn toàn bị khóa chặt cùng với tiếng sập hẳn xuống của cánh cửa.
Không! Claire lao về phía cánh cửa chớp bằng sắt, tung một quả đấm vào nó dù biết sẽ chẳng ăn thua gì. Cô đã bị kẹt bên trong, và lối ra duy nhất bây giờ là cánh cửa còn lại mà cô chưa chạm đến, chỗ mà gã Alfred đã đi qua.
“Chào mừng cô, Claire,” một giọng nói vang lên, vẫn cái kiểu kiêu căng đểu giả mà cô đã từng nghe trước đây. Có một cái máy truyền thanh nội bộ gắn trong góc phòng, ngay bên trên cái máy bán hàng tự động.
Chào mi, Alfred, cô chán nản nghĩ thầm, chẳng muốn để hắn thỏa mãn khi thấy được vẻ sợ hãi hay giận dữ của cô. Toàn bộ căn phòng này chắc chắn đã được gắn thiết bị theo dõi từ xa, cô thật quá ngu ngốc khi không nghĩ tới nó, không thấy camera đâu có nghĩa là nó không có.
“Cô sắp bước vào một vòng chơi đặc biệt đấy,” Alfred tiếp tục. “Và có một người bạn rất được ta yêu thích đang chờ gặp cô; ta nghĩ cả hai sẽ có một màn trình diễn ra trò. Thật tuyệt vời, không thể chờ nổi nữa.”
“Đừng kết thúc quá sớm nhé Claire, ta muốn được xem thỏa thích một tí.”
Hắn cười, tiếng cười điên loạn rúc rích đến là khó chịu, và rồi hắn biến mất.
Claire nhìn chằm chằm về phía cánh cửa mà cô chắc hẳn phải đi qua, cân nhắc những phương án có thể. Điều hay ho nhất mà Chris đã dạy cô, đó là luôn có nhiều lựa chọn; chúng có thể chẳng ra gì, nhưng vẫn luôn có một cái để chọn, hơn nữa, nghĩ đến giải pháp thay thế sẽ giúp cho mình bình tĩnh lại.
Mình có thể trốn vào căn phòng an toàn, sống bằng mấy gói snack và bắp rang trong khi chờ đợi Umbrella xuất hiện. Mình có thể ngồi đây và cầu nguyện sẽ có một nhóm đồng hành nào đó đến cứu giúp, hoặc cố gắng chui qua cái cửa thép chết tiệt kia, hoặc mở đường xuyên qua tường… với tuốc nơ vít và vài thứ bảo hộ cùi chỏ, chắc chắn mình sẽ làm được điều đó trong vòng 10,000 năm nữa. Cũng có thể tự sát. Hay là đi qua vòng chơi của gã Alfred, đối diện với cái đang chờ đợi mình.
Có hàng đống chọn lựa, nhưng cô tin là chỉ có một cái có khả năng thực hiện được.
Về cơ bản mà nói thì chẳng có lựa chọn nào hợp lý cả. Phần còn lại trong cô phản đối. Giờ này lẽ ra mình nên ở trong ký túc xá, ăn một cái pizza nguội, chuẩn bị cho mấy bài trắc nghiệm.
Mục tiêu đã định, cô chua chát nghĩ thầm, đồng thời vói tay lấy một băng đạn đầy từ cái túi mới nhặt được, và nhét một băng khác vào trong áo ngực để tiện sử dụng. Đã tới lúc để xem gã Alfred và đám tay chân của hắn đang âm mưu gì ngoài đó, xem liệu Umbrella đã tìm ra công thức để chế tạo một chiến binh sinh học hoàn chỉnh nào chưa. Claire tiến lại gần cánh cửa và dừng lại, tự hỏi mình có nên dấn thân vào cuộc chiến với những suy tư về cuộc sống, về tình yêu, rằng liệu mình có sẵn sàng để chết hay chưa… và rồi quyết định sẽ quan tâm đến những thứ đó sau. Nếu như không thể có được “sau này,” thì cô đâu cần lo nghĩ về nó nữa, đúng không?
“Mình thông minh đấy chứ,” cô thì thầm, và đẩy cánh cửa mở ra trước khi hồn vía bay mất.