Dịch giả: Lioncoeur
Billy đau điếng tỉnh dậy giữa mùi khét lẹt. Anh nhướng mắt lên, chớp chớp, quan sát một vòng xung quanh ngay khi lấy lại được ý thức, phải nói là không được nhanh cho lắm. Anh đang nằm ngửa, mắt nhìn lên một cái trần tối thui trên cao. Xung quanh anh có ánh lửa cháy bập bùng, đá và gạch vụn nằm chất đống ngổn ngang bên tay trái. Không biết làm thế nào mà anh lại lọt vào trong này.
Thắng, đoàn tàu… Rebecca?
Ý nghĩ đó đánh thức anh dậy. Anh ngồi nhổm lên, thấy ngạc nhiên và nhẹ nhõm khi nhận ra mình chỉ bị căng ở vai cùng vài vết trầy, ngoài ra không bị gì khác.
”Rebecca?” anh gọi lớn và ho sù sụ. Bất kể nơi đây là đâu thì khói cũng đã bắt đấu tuôn ra từ cái đống hỗn độn. Anh, chính xác là cả hai người, phải rời khỏi chỗ này.
Anh đứng lên, co duỗi cánh tay phải trong lúc nhìn quanh quẩn. Dường như đoàn tàu đã đâm vào một nhà kho, kiểu như vậy - một khu vực trống trải rộng lớn xây bằng bê tông, một bên còn đang bắc giàn giáo, đằng trước có vài tia sáng bị che chắn. Không sáng mấy, nhưng khi nhìn xuống, anh vẫn thấy được lằn rãnh của đường ray ngay dưới chân, và nhận ra họ chắc đã đâm vào trạm bảo trì xe điện. Đại loại thế.
”Rebecca?” Anh gọi lần nữa trong lúc nhìn quanh đống đổ nát. Nhiều cây trụ bê tông đang cháy lách tách, và hàng loạt vũng dầu cũng bốc lửa chung quanh. Đầu tàu nằm lật nghiêng, còn những toa khác dồn thành một đống đằng sau, nằm chắn ngang một cái lỗ to khủng bố trên tường. Anh chẳng biết tìm cô ta ở đâu nữa. Lúc kích hoạt thắng đuôi xong, anh đã lao nhanh về phía đầu tàu; và dường như đã bị quăng tới chỗ phía sau toa hành khách…
”Uunh.” Có tiếng phát ra từ một cái bóng ngồi thụp bên cạnh cột khói.
”Rebecca?” Billy lảo đảo tiến tới, hy vọng cô ta vẫn ổn. Cô đã hét lên hoảng hốt lúc gọi lại mà không thấy ai trả lời, lúc đó anh đang quá bận rộn với mấy cái nút bấm. Bây giờ anh thấy mình thật có lỗi; cô ta dẫu sao vẫn còn quá non, và rất dễ sợ sệt những chuyện không đâu. Đáng lẽ mình phải trấn an cô ta –
Anh đến bên cạnh cái bóng đang ngồi bẹp dưới đất và khuỵu chân xuống. Cô ta đang cúi mặt, còn bộ đồ thì tơi tả.
”Billy?”
Billy quay phắt lại, thấy Rebecca đang tiến đến gần mình, súng hờm trên tay. Có vài vệt máu chảy dài dưới mái tóc, nhưng nhìn bề ngoài thi có vẻ vẫn ổn –
- và cái bóng ngồi ngay trước mặt anh chồm dậy, cất tiếng rên rỉ, bàn tay nhuốm đầy máu chộp lên mặt anh. Mấy ngón tay thối rữa kéo lê bên má.
”Gah!” Anh thốt lên một tiếng la kinh tởm không thành lời và bật ra sau, ngã nhào xuống đất. Không rõ nó là nam hay nữ, bởi lẽ cả khuôn mặt lẫn thân hình nó đều đã bị hủy hoại, không biết do bị nhiễm hay do vụ va chạm. Nó trườn tới bằng đầu gối, cái mặt biến dạng ngoảnh về phía Billy. Nó há hốc miệng, nước miếng trộn lẫn máu nhễu ra từ hàm răng đã gãy trong lúc cố chạm vào anh.
”Tránh ra, để tôi,” Rebecca lên tiếng, và anh chỉ còn biết vui lòng tuân theo, hai tay chỏi trên mặt đất, cái còng tay lủng lẳng nghiến vào thịt đau điếng, hai chân đẩy mạnh để lùi lại. Cô ngắm rồi siết cò hai lần, cả hai phát ghim thẳng vào cái sọ vốn đã hư hại, kết liễu nốt sự sống còn lại của nó. Nó sụm xuống cạnh đống bê tông với một âm thanh nghe như tiếng thở dài.
Billy đứng dậy, cả hai mất thêm vài giây để tìm kiếm quanh đống đổ nát, xem có còn cái thây nào khác chăng. Nếu có thì hẳn chúng đã trốn rất kỹ.
”Cám ơn,” anh nói trong lúc nhìn lại cái xác thảm hại đó. Ít nhất thì cô ta cũng đã giúp nó giảm thiểu nỗi đau đớn - bằng hai phát ngay đầu. Anh đã ngạc nhiên và khá ấn tượng với kỹ năng bắn của cô. ”Cô không sao chứ?”
”Vâng. Có bị đau đầu gần chết, nhưng chỉ có vậy. Lần va đập thứ hai trong ngày.”
”Thật à?” Billy hỏi. ”Lần thứ nhất là gì vậy?”
Cô mỉm cười và chuẩn bị trả lời - rồi thình lình ngưng bặt, dáng vẻ trở nên lạnh lùng, và Billy cảm thấy một nỗi đau thật sự; cô hiển nhiên đã nhớ ra mình đang nói chuyện với ai. Bất chấp tất cả, cô vẫn tin rằng anh là một tên giết người không gớm tay.
”Không quan trọng,” cô nói. ”Đi thôi. Chúng ta phải rời khỏi đây trước khi đám khói trở nên tồi tệ hơn.”
Cả hai vẫn giữ máy bộ đàm, và mất thêm một lúc để tìm vũ khí của anh, nó bị khuất một nửa duới khối bê tông vỡ nát, cách nơi anh tỉnh dậy không xa lắm. Khẩu súng săn coi như đã mất. Không có thời gian để đi tìm nó; những đốm lửa nhỏ đang tắt dần, nhưng lớp khói đen dày đặc bay lượn trên trần thì ngày càng nhiều.
Họ rảo quanh khoảng không rộng lớn, tìm thấy một cánh cửa duy nhất cách cái đầu tàu hư hại chừng hơn hai mươi mét. Billy hy vọng nó dẫn ra một chỗ ngoài trời, như thế anh sẽ được tự do còn cô gái được an toàn. Trước khi mở cửa, anh nhìn lại cái đống lộn xộn đang cháy âm ĩ, nhếch mép.
”Ha, ít nhất chúng ta cũng đã làm được cái việc dừng nó,” anh nói.
Rebecca gật đầu, nở nụ cười yếu ớt nhưng quả quyết. ”Chúng ta đã làm được,” cô phụ họa.
Cả hai quay lại đối diện với cánh cửa. Billy hít một hơi thật sâu rồi vịn lấy tay nắm, đẩy nó ra.
oOo
Mọi thứ thật quái đản. Chứng kiến đoàn tàu đâm sầm vào tầng hầm trong khu huấn luyện, lắng nghe tiếng va chạm vang dội ngay tiếp theo sau. Cả hai cùng cảm thấy một tiếng ầm ì lan tỏa khắp những bức tường xung quanh. Sau vài giây, máy quay đã bị khói đen phủ kín.
”Chúng ta phải rời khỏi đây ngay thôi,” Birkin vừa nói vừa đi tới đi lui sau lưng Wesker. Lão không lo về chuyện lửa, vì cái trạm dừng cũ kỹ đó hầu như được xây bằng xi măng – nhưng vụ va chạm nhất định sẽ gây chú ý, mà đâu phải mọi viên cảnh sát và lính cứu hỏa trong vùng đều là người của Umbrella. Khu nghiên cứu này biệt lập, nhưng chỉ cần một cú điện thoại của một công dân có liên quan là những vũ khí sinh học của Umbrella sẽ bị lộ ngay.
Wesker hình như không nghe thấy. Hắn nhấn nhấn trên nút điều khiển màn hình, chuyển cảnh sang các máy quay ở những khu vực khác, có vẻ đang tìm kiếm gì đó. Hắn đã không thèm mở miệng kể từ sau cuộc liên lạc cuối cùng với đội dọn dẹp.
”Anh có nghe tôi nói gì không đó?” Birkin hỏi, không phải là lần đầu từ nãy đến giờ. Lão đang căng thẳng, và thái độ bình thản của Wesker chỉ khiến lão thêm bối rối.
”Tôi có nghe, William,” Wesker đáp, vẫn đang nhìn màn hình. ”Nếu ông muốn đi thì cứ đi đi.”
”Sao? Anh không đi à?”
”Ồ, lát nữa đã,” hắn trả lời, giọng nói điềm đạm thản nhiên. ”Tôi chỉ muốn xem xét lại vài thứ.”
”Thứ gì? Đoàn tàu đã được dọn dẹp rồi. Chẳng phải chúng ta tới đây vì việc đó thôi sao?”
Wesker không trả lời mà chỉ tiếp tục quan sát màn hình. Birkin nắm chặt hai tay lại. Không thể chịu nổi thằng cha này nữa! Đúng là cái đồ rối loạn nhân cách. Lúc nào cũng tự coi mình là cái rốn của vũ trụ.
Mình còn có việc phải làm, Birkin nghĩ thầm, đưa mắt nhìn ra cửa. Công việc, gia đình… lão đâu có rảnh mà chờ đợi một thằng dở hơi, cứ cắm cúi lục lọi xem tại sao lại có zombie đi lang thang xung quanh một vụ va chạm…
”Bọn chúng kìa,” Wesker lên tiếng, tay nhấn một phím bên dưới màn hình. Đó là tiền sảnh chính của trung tâm, nơi được xây dựng để đón các quan chức cao cấp và đội bảo an đến với thế giới bán-hợp-pháp của tổ chức White Umbrella.
Trước sự chứng kiến của cả hai, một bàn tay nhô khỏi sàn, đẩy bật lên một nắp đậy hình vuông.
Đó là đuờng hầm thâm nhập cũ, dẫn đến từ trạm. Birkin rướn người tới, thấy tò mò hết sức.
Một gã đàn ông với hình xăm khá tỉ mỉ trên cánh tay đang trườn ra khỏi ô vuông ở góc tây bắc căn phòng, theo sau là một phụ nữ nhỏ nhắn mặc quân phục S.T.A.R.S., một cô gái hẳn hoi. Cả hai đều cầm súng ngắn, và đang nhìn quanh cái tiền sảnh trang trí tinh xảo bằng vẻ mặt mà Birkin không thể xác định được qua màn ảnh nhỏ.
”Đám nào thế này?” lão hỏi.
”Con bé là tân binh S.T.A.R.S., nhóm B,” Wesker đáp. ”Không phải là một nhân vật tài ba gì. Gã kia thì tôi không nhận ra.”
”Anh có nghĩ - bọn họ đã ở trên đoàn tàu?”
”Hiển nhiên rồi,” Wesker đáp.
Birkin cảm thấy nỗi sợ trào lên. ”Chúng ta làm gì bây giờ?”
Wesker liếc nhìn lão, cau mày. ”Ý ông là sao?”
”Bọn họ - cô ta thuộc đội S.T.A.R.S., và ai mà biết cô ta đang tính làm gì. Nếu bọn họ thoát được thì sao?”
”Đừng có ngốc, William. Bọn nó không thoát được đâu. Ngay cả khi khu nghiên cứu này không bị cô lập, thì vẫn còn đầy rẫy những vật chủ. Chỉ cần mở một hoặc hai cánh cửa là bọn nó không còn có cơ hội gây thêm rắc rối nữa.”
Cái giọng ôn tồn của Wesker nghe ớn lạnh, nhưng hắn nói đúng. Không một ai có khả năng thoát khỏi chỗ này.
Dướ sự quan sát của họ, hai kẻ xâm nhập đang di chuyển thận trọng quanh căn phòng lớn, một trong số ít ỏi các phòng ở đây vắng bóng những vật chủ bị nhiễm, cả hai rà soát từ bên này sang bên kia. Sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng, cô gái bước lên cầu thang lớn, dừng lại trước cái tầng lửng. Có một bức chân dung lớn của Tiến sĩ Marcus – và cô ta có vẻ ngạc nhiên, dường như là nhận ra nó. Gã có hình xăm đến bên cô ta, và Birkin có thể thấy gã đang đọc lớn tấm thẻ bài đính dưới chân dung.
TIẾN SĨ JAMES MARCUS, TỔNG GIÁM ĐỐC ĐẦU TIÊN.
Birkin cựa mình một cách khó chịu. Lão ghét cái hình đó. Nó gợi lại ký ức về việc lão đã bắt đầu làm việc thực thụ cho Umbrella như thế nào, một điều lão không muốn nghĩ tới –
”Chú ý. Đây là Tiến sĩ Marcus.”
Birkin nhảy nhổm lên, hai mắt trợn tròn nhìn quanh, tim đập thình thình. Wesker không hề nao núng, mà còn vặn to nút âm thanh trên bảng điều khiển của hệ thống truyền âm cũ kỹ, trong lúc giọng nói của kẻ đã chết mười năm trước vang khắp khoảng không trống trải, lan khắp các hành lang của khu liên hợp.
”Vui lòng yên lặng trong khi cùng duyệt lại qui cách ứng xử của công ty chúng ta. Vâng lời sinh ra kỷ luật. Kỷ luật sinh ra đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh. Sức mạnh là cuộc sống.”
Cặp nam nữ trên màn hình cũng đang nhìn quanh quất, nhưng Birkin không mấy chú tâm đến họ. Lão vịn vai Wesker một cách căng thẳng. Đây là giọng ghi âm, giọng nói mà lão đã không nghe thấy nữa từ hồi lão và Wesker còn học việc ở khu nghiên cứu. Ở đâu? Ai?
Wesker gạt tay lão ra, hất đầu về phía màn hình, nơi hình ảnh đang mờ dần. Hình như nó đang nhấp nháy – và rồi họ thấy một thanh niên trẻ xuất hiện trong một khung cảnh khác. Birkin không nhận ra căn phòng, nhưng gã thanh niên đang nhìn họ thì trông rất quen. Hắn có mái tóc dài và đôi mắt đen láy, ước chừng hai mươi tuổi – và có một nụ cười sắc lạnh tàn khốc, một nụ cười bén ngót như lưỡi dao.
”Mày là ai?” Wesker hỏi, hiển nhiên không mong được phản hồi, vì chẳng có thiết bị âm thanh nào được gắn ở đó cả –
Gã thanh niên mỉm cười, từng lời nói ngọt ngào như được rót ra từ hệ thống truyền thanh. Thật khó tin – hắn không có đeo tai nghe, cũng không có thiết bị nghe nào gần đó – nhưng cả hai vẫn nghe được tiếng hắn rõ ràng.
”Ta chính là kẻ đã thả T-Virus ở biệt thự,” hắn lạnh lùng cất tiếng. Nụ cười còn bén nhọn hơn trước. ”Chắc không cần phải nói thêm, rằng cũng chính ta đã tàn sát đoàn tàu.”
”Cái gì?” Birkin buộc miệng. ”Tại sao?”
Giọng nói lãnh đạm của gã thanh niên trầm hẳn xuống. ”Để báo thù. Umbrella.”
Hắn di chuyển ra ngoài tầm máy quay, tay giơ về phía bóng tối. Birkin và Wesker chồm lên, cố gắng nhìn xem hắn làm gì, nhưng chỉ thấy có chuyển động trong bóng tối, rồi có tiếng nước –
Gã thanh niên trở lại nhìn họ, nụ cười càng thêm sắc bén – và từ bóng tối sau lưng hắn bước ra một người cao dong dỏng, có học thức, mặc đồ vét và thắt cà vạt, mái tóc trắng chải ngược ra sau, vẻ mặt luống tuổi nhưng mạnh mẽ, đầy uy quyền. Giống y như khuôn mặt trên bức chân dung của tiền sảnh.
”Tiến sĩ Marcus?” Birkin thở dốc.
”Mười năm trước, Tiến sĩ Marcus đã bị Umbrella sát hại,” gã thanh niên cất tiếng gầm gừ. ”Và các người đã giúp bọn chúng, đúng không?”
Hắn lại cười, một nụ cười ngọt xớt và tăm tối, nụ cười hứa hẹn không chút khoan nhượng. Birkin và Wesker nhìn sững sờ, choáng váng đến độ im bặt trước sự hiện diện sống động của người mà chúng thấy đã chết hồi mười năm trước.
Gã thanh niên cất tiếng hát, và nhiều thực thể, những đứa con của hắn, dịch chuyển máy quay đi, thay đổi nút điều khiển để giọng của hắn vang xa hơn. Hắn nói tất cả những dự định của mình vào lúc này; có nhiều chuyện để làm, nhiều chọn lựa để cân nhắc. Mọi việc đều đã tiến triển, tiến triển theo những chiều hướng mới.
Hắn chuyển sang tông thấp, và hình ảnh Marcus tan biến đi, thay thế bằng lũ con. Chúng bu quanh chân hắn, đua nhau trèo lên người hắn, vuốt ve trìu mến. Chờ đợi hắn quyết định bước hành động tiếp theo.
Không có kế hoạch nào khác, ngoài việc tiêu diệt Umbrella. Hắn đã và sẽ tiếp tục tận dụng tất cả những gì có trong tay – virus, những thực thể, những người giả mà chúng có thể tạo thành, Marcus chẳng hạn; hắn đang nhắm vào những thứ mang lại lợi ích cho Albert và William, và chắc chắn đã khiến bọn chúng phải hoảng hốt, lúng túng.
Gã thanh niên mỉm cười. Thật ngẫu nhiên làm sao, khi có người làm nhân chứng cho sự sụp đổ. Nếu may mắn, hắn sẽ có cơ hội chứng kiến bọn chúng giãy chết, sẽ dửng dưng đứng nhìn như chúng cũng đã từng làm với ông thầy thông thái lúc hấp hối… Mặc dù cái chết của bọn chúng chẳng là gì trong bối cảnh toàn cục. Cái tên Umbrella rồi sẽ sớm lùi vào dĩ vãng.
Hắn cân nhắc về cặp nam nữ, nghĩ xem nên sử dụng họ như thế nào trong khu liên hợp này. Ý nghĩ đầu tiên là giết luôn bọn họ, cho khỏi thêm phiền phức, nhưng như vậy thì phí công quá; suy cho cùng, Umbrella chẳng phải cũng là kẻ thù của họ đó sao? Họ sẽ chiến đấu vì sinh tồn, vì tự do – và nếu thành công, họ sẽ lập tức thu hút sự chú ý về vụ thảm họa, sẽ đóng dấu thập giá lên mộ phần của Umbrella. Phá hoại phòng thí nghiệm, giết nhân viên - bọn chúng rồi cũng xây thêm phòng thí nghiệm mới, tuyển mộ người mới. Nhưng nếu giới truyền thông quốc tế chĩa mũi dùi về phía Umbrella, bọn chúng sẽ hoàn toàn lụn bại… Và cả thế giới sẽ biết tới tên hắn.
Khu nghiên cứu đã bị khóa kín, dĩ nhiên rồi. Hầu hết được thiết kế với những cảnh cửa chỉ mở được bằng cách giải đố, và những lối đi giấu kín giống như biệt thự Trevor, được xây cách đây một thập niên. Oswell Spencer, một trong các nhà đồng sáng lập của Umbrella, luôn bị ám ảnh bởi tiểu thuyết lẫn phim ảnh trinh thám, cộng thêm chứng hoang tưởng mà những kẻ lắm tiền nhiều của hay có, nên đã tạo dựng một hệ thống khóa cực kỳ bảo mật. Có những chìa khóa bị dấu, những cánh cửa không thể mở nếu thiếu các thành phần cần thiết, thậm chí có vài nơi được thiết kế để bẫy những kẻ xâm nhập sơ ý. Thoát khỏi đây là một việc không dễ dàng cho bất cứ ai.
Nhưng vẫn còn những người giả có thể xâm nhập vào bất cứ đâu trong khu liên hợp, những kẻ được tạo thành từ các thực thể, sẵn sàng truyền nhiễm cho bất kỳ ai đến gần; chính chúng đã góp phần đắc lực trong việc lây lan virus ở nơi ban đầu. Hắn có thể sử dụng chúng để mở toang khu huấn luyện, để thu thập các khóa và mở các cửa, để bảo đảm rằng cặp nam nữ kia có cơ may sống sót. Chỉ là chuyện vặt - những người giả không phải chỉ biết gieo rắc virus – chúng còn có khả năng co dãn đàn hồi hơn bất kỳ thứ gì.
Gã thanh niên mỉm cười, nghĩ tới Albert và William, tự hỏi không biết bọn chúng nghĩ gì; ôi những sinh viên xuất sắc của James Marcus, đang làm cái việc khắc phục hậu quả cho Umbrella. Sau ngần ấy năm. Thật mỉa mai không để đâu cho hết.
Lũ con đang thủ thỉ với hắn, che chở hắn, hân hoan theo nụ cười của hắn, và chúng cùng cất cao giọng hát ngọt ngào, một bài hát hợp xướng hỗn loạn, trong lúc những cơ thể bóng mượt lạnh ngắt nhờ đã uống no máu kẻ thù kết hợp lại, bao bọc lấy hắn.
oOo
”…làm nên sức mạnh. Sức mạnh là sự sống.” Giọng nói mạnh mẽ dần dần biến mất, tiền sảnh rộng lớn lại chìm vào yên lặng. Có lẽ là giọng ghi băng, vì nghe nó không giống như phát âm trực tiếp, tuy nhiên có người đã bật lên – và cô nghĩ mình biết đó là ai. Cô nhìn lại tấm chân dung tiến sĩ Marcus, cảm thấy gai ốc chạy dọc xương sống.
”Thật kinh tởm,” Billy nói.
”Còn chưa tởm bằng lúc thấy hắn trên tàu,” Rebecca nói, hất đầu về phía bức tranh. ”Được làm bằng những con vật nhớp nháp.”
”Có lẽ là một dạng thức khác khi bị nhiễm virus,” Billy nói.
Rebecca gật đầu, mặc dù vẫn nghi ngờ điều đó. Những con zombie trên tàu và gã đàn ông trong toa ăn - kẻ đã từng là James Marcus – trông không giống như có cùng một căn bệnh.
”Hoặc lũ đỉa đã xâm nhập cơ thể người, và… tôi không biết nói sao nữa, chiếm hữu người đó,” cô nói.
”Có thể lắm,” Billy nói. Anh đưa tay vén tóc và cười với cô, một nụ cười thân thiện đáng kinh ngạc. ”Dù sao đi nữa, cô cũng nên tìm điện thoại hay thứ gì đó để gọi đồng đội tới.”
Ngữ điệu anh ta nghe có phần thô bạo. Rebecca bóp chặt lấy khẩu súng. ”Còn anh sẽ làm gì?”
Billy quay lưng bước nhẹ nhàng xuống cầu thang. ”Chắc là cuốc bộ một chuyến,” anh nói với lại.
Cô đi theo anh đến cổng trước, không biết mình nên làm gì, nên nói gì. Cô không nghĩ mình đủ gan bắn anh ta, nhất là sau khi anh đã cứu mạng cô, nhưng cũng không thể cứ để anh ta ra đi. ”Tôi không nghĩ như vậy là xong,” cô nói.
Anh mở cổng. Không khí ban đêm mát lạnh ập vào, cơn mưa đã chuyển sang lất phất. ”Phải nói là tôi đánh giá cao sự quan tâm của cô, nhưng có vẻ tôi đang nắm quyền chủ động thì phải? Cho nên chỉ việc –“
Anh đứng sững lại, bỏ dở câu nói, nhìn qua làn mưa đằng trước. Có vẻ đây là một căn cứ được xây trên sườn đồi. Trước mặt họ là một lối đi lớn cỡ một con đường, rộng khoảng mười mét – và chấm dứt đột ngột bởi một khoảng không bất tận.
Cả hai cùng rảo bước đến mép lối đi. Có ánh sáng phát ra từ trụ đèn hai bên cổng; chỉ còn một cái hoạt động, nhưng cũng đủ để thấy rằng họ đừng hòng đi đâu mà không có dây thừng. Cuối lối đi là một dãy gạch vụn lởm chởm, nằm trên một sườn dốc sâu ít nhất năm mét, có thể hơn. Trời quá tối để có thể phán đoán.
”Hồi nãy anh định nói gì?” Rebecca hỏi.
”Cho nên tôi sẽ tìm cửa khác,” Billy đáp, quay trở lại tòa nhà. Trông nó giống một biệt thự, được trang trí theo kiểu nhà nghỉ cuối tuần của bọn tỉ phú lắm trò, và rồi cả hai thấy chữ CĂN CỨ HUẤN LUYỆN UMBRELLA nổi bật trên cánh cửa lát đá trang trọng. Rebecca có cảm giác như mình vừa bị ra lệnh hành quyết. Ban đầu cứ tưởng nơi này bị bỏ hoang, nhưng nó vẫn có điện, ánh sáng… Tất nhiên rồi, vì tất cả những gì họ đã thấy chỉ gói gọn ở nơi đụng tàu, cái tiền sảnh xa hoa, và đường hầm nối liền hai nơi. Quá ít để nhận xét.
”Đến giờ thì đã thấy có ít nhất hai cánh cửa, chưa tính tới trên đỉnh cầu thang,” anh nói tiếp. ”Và nếu không có đường nào đi, chắc tôi sẽ bò trở lại chỗ đoàn tàu.”
”Trừ khi đồng đội của tôi không xuất hiện trước,” Rebecca nói. Cô lùi lại, nhấc bộ đàm lên và nhất nút truyền tin. Bộ đàm của Billy kêu bíp một cái, nhưng chỉ có vậy. Sau một hồi chờ đợi, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng mưa nhỏ giọt trên những nhánh cây, Billy cười chế nhạo.
”Trừ khi cô tìm được điện thoại.”
Anh ta lại giở trò chơi khăm. Cô quay phắt trở lại ngôi nhà, thấy hơi ngạc nhiên lúc đến bên cửa, không hiểu sao mình có thể an tâm khi quay lưng phía anh ta… Dù sao, nếu muốn cô chết thì anh đã có hàng tá cơ hội rồi. Bất chấp những ý nghĩ trái ngược, cô vẫn khó mà nhận thấy anh ta có gì nguy hiểm. Bản năng đang mách cho cô điều ngược lại, và đó là một trong những bài học đầu tiên được dạy ở S.T.A.R.S. – chỉ có hiểu lầm trực giác, chứ bản thân trực giác không bao giờ lầm.
Anh bám sát phía sau khi cô bước vào trong - cả hai cùng dừng lại, nhìn chăm chú. Bức chân dung của Marcus đã biến mất. Thay vào đó là một ô cửa, tạo nên một lỗ hổng trên tường; với góc nhìn của họ từ phía dưới cầu thang, không thể biết được cái gì đằng sau lỗ trống đó.
Cô đang tính bảo Billy lùi lại thì anh ta đã tiến lên trước, súng lăm lăm trong tay. Trong lúc anh rà soát chung quanh với dáng vẻ và ánh mắt cảnh giác cao độ, cô một lần nữa có cảm giác mạnh mẽ, rằng thực chất anh ta không giống như vẻ bề ngoài.
Tôi đâu có cần được bảo vệ. Cô di chuyển tới bên anh ta, cũng kiểm tra căn phòng theo cách đã được huấn luyện, cả hai cùng leo lên cầu thang, dừng chân trên đỉnh. Cái ô cửa mới xuất hiện mở ra một cầu thang hướng xuống, dưới cùng là một hành lang trống rỗng.
”Có ý kiến gì không?” Billy hỏi trong lúc ngó xuống.
”Ai đó muốn chúng leo xuống thì phải,” cô đáp.
”Tôi cũng nghĩ vậy. Và tôi cũng nghĩ đây là một giải pháp không hay chút nào.”
Rebecca gật đầu. Cô quay lưng lại, nhìn quanh xem có còn đường nào khác. Dưới cầu thang có hai cánh cửa, một bên trái, một bên phải. Trên tầng hai, cô thấy thêm bốn cái nữa tính từ vị trí đang đứng – và trong khi đang ngó tới ngó lui, một tiếng thùm phát ra đâu đó sau lưng họ, chính là từ cái hành lang tối tăm trống trải bên duới. Nghe như tiếng rơi của một vật rất nặng và rất mềm. Không nói một lời, cả hai cùng lảng ra xa cái ô cửa đó.
”Tôi nghĩ chúng ta nên gia hạn thời gian đình chiến?” Billy hỏi một cách nhẹ nhàng, nhưng không hề cười.
Rebecca gật đầu. ”Được,” cô đáp, lòng tự hỏi không biết họ đang đối phó với cái gì, và phải trả cái giá nào nếu muốn thoát ra.