Nhưng bà lão cũng thấy vui mừng vì cuối cùng thì cũng sắp gặp lại ông chồng mà lúc này biết đâu lại đang thong dong với bà của Prym cũng nên. Và thêm nữa, vì ngày cuối cùng trong cuộc đời bà lão là một ngày giá rét, nhưng bầu trời lại trong xanh và rạng rỡ ánh mặt trời. Không phải người nào cũng có được cái may mắn đem theo mình một ký ức đẹp đến thế xuống huyệt mộ.
Ông linh mục ra hiệu cho những người đi theo mình đứng chờ ở phía ngoài, và tự mình tiến lại gần bà lão.
Chào cha. Cha thấy đấy, Đức Chúa Trời thật vĩ đại làm sao, khi tạo ra một cảnh sắc đẹp đến nhường này – bà lão nói, và thầm nghĩ thêm "Các người bắt ta đi, nhưng ta sẽ để lại nơi đây tất thảy tội lỗi của thế giới này".
Con không biết thiên đường tuyệt vời đến nhường nào – ông linh mục đáp lại, song bà Berta hiểu mũi tên bà bắn đi đã trúng đích và ông linh mục bây giờ đang cố hết sức để giữ bình tĩnh.
Cha nói phải, con chả tưởng tượng nổi. Hơn thế, thực tình thì con không tin là có thiên đường, còn cha đã từng ở đó chưa?
Cho đến giờ, cha vẫn chưa có cái may mắn ấy. Tuy nhiên, cha đã rơi xuống địa ngục và biết nó khủng khiếp đến thế nào, dẫu từ ngoài nhìn vào có vẻ rất hấp dẫn.
Bà Berta hiểu ông ta muốn ám chỉ đến Viscos.
Cha nhầm rồi. Cha đã được ở thiên đường, chỉ có điều cha không biết đấy thôi. Vả lại, điều này xảy ra với phần lớn mọi người, họ thậm chí ở trong những nơi phúc lành nhất vẫn cứ kiếm tìm đau khổ, vì cứ tưởng tượng ra như thể họ không được hưởng hạnh phúc.
Con phải thừa nhận với cha là những năm tháng ở đây đã khiến con sáng suốt hơn chứ.
Bao năm rồi nào có ai đến nhà con trò chuyện đâu. Ấy vậy mà, thật đến là lạ, bỗng nhiên mọi người lại nhớ đến cái thân già này. Cha có tưởng tượng được không, tối hôm qua bà chủ khách sạn và bác thị trưởng gái lại cho con cái vinh hạnh được đón họ đến thăm, đến hôm nay thì lại là cha xứ của thành phố ta viếng thăm con nữa. Phải hiểu chuyện này thế nào đây? Rõ là hãnh diện nhá.
Con có đầy đủ lý do để đáng được kính trọng như thế - ông linh mục trả lời – Con là người quan trọng nhất ở Viscos.
Sao lại là con, con được thừa hưởng của thừa tự chắc?
Mười thỏi vàng con ạ. Nhiều thế hệ dân chúng của thành phố chúng ta sẽ phải biết ơn con. Hoàn toàn có thể con sẽ được dựng tượng.
Con thích một cái đài phun nước hơn. Nó không chỉ đẹp mà còn giúp mọi người đã cơn khát và xua tan nỗi phiền muộn.
Được. Sẽ có một đài phun nước dành cho con. Cha hứa.
Bà Berta quyết định, đã đến lúc chấm dứt cái trò đóng kịch này rồi và cần đi thẳng vào vấn đề.
Thưa cha, tôi đã hiểu tất cả mọi chuyện rồi. Các người định bắt một bà già vô tội không thể chống lại các người phải chết chứ gì? Các người sẽ bị nguyền rủa. Cả ông, cả thành phố này lẫn hết thảy dân chúng của nó.
Phải, chúng tôi sẽ bị nguyền rủa – ông linh mục đồng ý – hơn hai mươi năm nay, tôi đã cố cầu phúc lành cho xứ này, nhưng không có ai thấu những lời kêu cầu của tôi. Hơn hai mươi năm rồi, tôi đã cố gieo cái Thiện vào tâm hồn mọi người, đã cố, cho đến khi hiểu ra là Chúa đã chọn tôi bằng tay trái của mình, để tôi chỉ ra cái Ác mà họ có khả năng làm. Có thể, mặc dù giờ đây họ đang hoang mang và lo sợ.
Bà Berta chỉ muốn khóc oà lên, nhưng bà lão cố kìm lại.
Những lời vàng ngọc, chỉ tiếc rằng chúng hoàn toàn trống rỗng. Thuần tuý chỉ là mưu toan nguỵ biện cho sự nhẫn tâm và bất công mà thôi.
Tôi khác hẳn với tất cả những người khác, làm cái việc này không phải vì tiền. Tôi biết vàng của người khách lạ là thứ đáng nguyền rủa, cũng như cái xứ sở này của chúng ta, sẽ chẳng mang lại hạnh phúc cho một ai. Tôi làm thế bởi đó là ý nguyện của Chúa. Nói đúng hơn, không phải Chúa muốn vậy, mà Người đã phán quyết sau khi thấu hiểu những lời cầu nguyện của tôi.
"Tranh cãi cũng bằng thừa" – bà Berta nghĩ. Trong lúc đó, ông linh mục thò tay vào túi và lấy ra mấy viên thuốc con nhộng.
Thậm chí bà sẽ không cảm thấy gì hết – ông ta nói – Hãy cho chúng tôi vào đi.
Dù ông hay bất kỳ một ai khác ở Viscos cũng không được bước qua ngưỡng cửa nhà tôi, chừng nào tôi còn sống. Có thể, tàn đêm nay, cánh cửa này sẽ mở, nhưng bây giờ thì không.
Theo ám hiệu của ông linh mục, một trong ba người đi cùng ông ta cầm một cái chai nhựa lại.
Bà hãy uống mấy viên thuốc này đi. Bà sẽ ngủ rất say trong vài tiếng đồng hồ và khi tỉnh dậy, bà đã ở trên thiên giới, bên ông chồng mình.
Tôi lúc nào mà chả ở bên chồng tôi? Còn thuốc ngủ thì trong đời tôi chưa bao giờ uống mặc dù tôi đến khổ vì bệnh mất ngủ.
Như thế sẽ tốt hơn, thuốc sẽ có tác dụng gần như tức thời.
Ánh nắng cuối ngày đã tắt hẳn, thung lũng, nhà thờ, thị trấn vụt chìm ngập trong bóng tối.
Thế nếu tôi không uống thì sao?
Bà sẽ uống.
Bà Berta nhìn qua mấy người đi theo ông linh mục và hiểu rằng, ông ta nói thật. Bà lão cầm lấy mấy viên thuốc, cho vào mồm và uống nước, hết cả chai. Nước không màu, không mùi, không vị, mà dẫu cô ó thế thì trên đời này còn có gì quan trọng hơn nữa đâu. Chính xác là, chí ít ra đến giây phút này, không có ai quan trọng hơn bà lão Berta.
Bà lão lại ngước nhìn những ngọn núi giờ đã chìm lấp trong bóng tối. Bà thấy vì sao đầu tiên lấp lánh hiện ra trên bầu trời và nghĩ rằng, mình đã sống một cuộc sống hạnh phúc, được sinh ra và được chết ở mảnh đất yêu dấu – vì lẽ gì mảnh đất này không yêu mến bà? Một tình yêu chân chính không đòi hỏi sự đáp đền, còn kẻ nào những mong nhận được phần thưởng cho tình yêu của mình, kẻ đó chỉ mất thời gian một cách vô ích.
Đức Chúa Trời khoan dung nhân từ đã không bỏ mặc bà. Bà chưa từng bao giờ đi đến bất cứ đâu, nhưng bà biết chắc chính những gì đang diễn ra ở Viscos cũng diễn ra ở khắp nơi, khắp chốn. Bà đã mất người chồng vô cùng yêu quý, nhưng Chúa đã ban cho bà niềm vui – ông ấy dù đã mất nhưng vẫn ở bên bà. Bà đã thấy sự phồn vinh của thị trấn đồng thời cũng chứng kiến nó suy tàn như thế nào và từ giã cuộc đời trước khi nó chết hẳn. Bà biết rõ mọi người với tất cả những phẩm hạnh và khiếm khuyết của họ và bất chấp toàn bộ cái điều đang xảy ra với bà lúc này đây, mặc cho ông chồng đã thề với bà, dường như trong cái thế giới vô hình đó đang diễn ra một cuộc chiến khốc liệt, bà vẫn tin lòng tốt trong con người rốt cuộc sẽ thắng thế.
Bà lão thấy thương cho ông linh mục, ông thị trưởng, cô Prym, người khách lạ, tất cả những người dân của Viscos bởi bà Berta tin chắc không bao giờ cái Ác dẫn tới cái Thiện, cho dù những người đồng hương của bà có muốn tin như thế nào đi chăng nữa. Một khi họ nhận ra thực chất của sự việc, thì đã là quá muộn.
Bà Berta chỉ buồn vì mỗi một điều, chưa một lần trong đời bà được nhìn thấy biển. Bà biết rằng có biển, rằng nó mênh mông bát ngát, cùng lúc nó vừa dữ dội, vừa dịu dàng, nhưng vậy là bà không thể đi ra biển, vốc đầy lòng bàn tay cái thứ nước muối mằn mặn của nó lên để nhấm thử, cảm thấy lớp cát mịn dưới đôi bàn chân trần, ngụp lặn trong những con sóng mát lạnh, như thể được trở lại trong lòng Mẹ Vĩ Đại (bà nhớ là những người Celte rất thích dùng hình tượng này).
Còn nếu không kể đến biển thì chẳng còn gì trên đời này khiến bà phải buồn nhớ khi xa lìa. Đau xót, tất nhiên, rất đau tớ ót, đáng buồn làm sao, bà phải từ giã thế giới như thế này, nhưng bà không muốn coi mình là kẻ hiến sinh. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Chúa đã phán quyết cho bà Berta cái vai trò này,và bà là người phù hợp hơn bất cứ một ai đó mà Chúa có thể trao vào tay ông linh mục.
Tôi muốn nói cho bà nghe về cái Thiện và cái Ác – bà nghe thấy giọng nói của ông linh mục và đúng lúc đó, bà cảm thấy như hai tay và hai chân mình tê dại đi.
Không cần. Ông đâu có biết cái Thiện là gì. Ông đã bị nhiễm cái Ác rồi. Nó huỷ hoại con người ông, và bây giờ ông đem gieo rắc nó trên mảnh đất này. Ông cũng chẳng khác gì người khách lạ đến Viscos của chúng ta để huỷ diệt chúng ta.
Bản thân bà lão Berta khó khăn lắm mới nghe thấy những lời nói cuối cùng của mình. Bà nhìn lên vì sao lấp lánh trên vòm trời và nhắm mắt lại.