Lược truyện:
Truyện này do một tác-giả vô danh Việt-Nam biên soạn. Truyện diễn ca gồm có 788 câu, có thể chia làm 5 hồi:
1. Nỗi oan giềt chồng
Đức Quan-Âm nguyên trước kia là đàn ông, tu hành đắc đạo gần thành Phật. Nhưng Đức Mâu ni hiện ra người con gái đẹp để thử lòng thì ngài hẹn đến kiếp sau sẽ vầy duyên. Vì vậy Đức Phật bắt ngài sinh làm kiếp thứ mười và cho ngài đầu thai làm con gái họ Mãng ở quận Lũng-tài nước Cao ly, rồi bắt suốt đời phải chịu oan-khổ để thử lòng. Người con gái ấy tên là Thị Kính, lớn lên có tài sắc nết na. Sau cha mẹ gả cho Thiện-Sĩ, một thư sinh, con nhà họ Sùng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận. Một đêm kia chồng ngồi đọc sách, nàng ngồi khâu bên cạnh. Chồng mệt tựa bên cạnh ngủ. Nàng nhìn thấy nơi cằm chồng có râu mọc ngược; sẵn dao nơi tay, nàng toan cắt sợi râu đi. Bỗng người chồng giật mình thức dậy, tưởng vợ có ý ám hại mình bèn tri hô lên. Cha mẹ chồng đến, một mực buộc nàng cố ý giết chồng, rồi sai mời Mãng-ông đến bảo để giao trả nàng lại.
2. Thị Kính đi tu
Về nhà cha mẹ, oan-ức và đau buồn mà không biết thổ lộ cùng ai, nàng định tự tử. Song nàng nghĩ mình là con một, mà cha mẹ thì đã già nên không nỡ dứt tình. Nàng bèn quyết chí đi tu. Nàng giả dạng nam-nhi, đến chùa Vân-tự xin qui y. Được sư cụ thừa nhận, đặt tên cho là Kính-Tâm.
3. Nỗi oan thông dâm
Nhờ câu kinh tiếng kệ, Kính-Tâm dần quên được đau buồn. Nhưng không bao lâu lại xảy ra tai vạ nữa. Nguyên trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, hiện đường kén chồng nên thường hay đến lễ chùa. Thị Mầu thấy tiểu Kính-Tâm có tư sắc thanh tao, đem lòng say mê, nhưng Kính-Tâm thì vẫn thờ ơ. Vì mơ tưởng nguyệt-hoa quá nên khi lửa dục nhóm lên, không tự chủ được, Thị Mầu mới thông dâm với đứa đầy tớ trong nhà, thành ra có mang. Chuyện đổ bể ra, làng biết, gọi ra tra hỏi thì Thị Mầu đổ cho Kính-Tâm. Kính-Tâm khó thể minh-oan nên làng phạt đánh và bắt khoán. Nhà sư thương-hại đứng ra lĩnh về.
4. Thị Kính nuôi con Thị Mầu
Sau Thị Mầu sinh được một đứa con trai, đem ra chùa trả cho Kính-Tâm. Vì dạ hiếu sinh, Kính-Tâm ẩn-nhẫn nuôi đứa hài nhi. Ba năm sau, đứa bé khôn lớn. Kính-Tâm đã đến ngày siêu hóa, bèn gọi đứa bé lại dặn dò rồi viết một bức thư để lại cho cha mẹ trước khi xả tự.
5. Rửa oan thành Phật
Khi sư vãi trong chùa liệm thi hài mới biết Kính-Tâm là đàn bà giả trai. Làng hay, bắt Phú ông phải sắp đặt việc chôn cất. Thị Mầu khi ấy hổ thẹn phải liều mình, và lúc chết phải sa vào địa ngục. Được thư báo tin, ông bà họ Mãng cùng Thiện-Sĩ và đứa bé đến chùa lo việc ma chay, cầu cho Thị Kính kiếp sau khỏi khổ nạn.
Trong lúc chay đàn, Đức Phật Thiên-Tôn hiện xuống truyền cho Kính-Tâm được lên trời làm Phật Quan-Âm, ông bà họ Mãng và đứa tiểu nhi cũng được siêu thăng. Duy chỉ có Thiện-Sĩ thì cho làm con vẹt đứng nhờ một bên.
Năm hồi trên đây, có thể chia ra làm 31 đoạn:
1. Mở đầu.
2. Vào truyện.
3. Quan-Âm thác sinh.
4. Họ Sùng ngỏ lời thông gia với họ Mãng.
5. Họ Mãng bằng lòng nhận lời cầu hôn của họ Sùng.
6. Thị Kính buồn nỗi phải xa cha mẹ.
7. Cha mẹ khuyên-giải Thị Kính.
8. Thị Kính về nhà chồng.
9. Thị Kính bị nghi oan là giết chồng.
10. Thị Kính bày tỏ nỗi oan.
11. Nhà chồng có ý ngờ Thị Kính có ngoại tình.
12. Thị Kính từ giã nhà chồng về nhà cha mẹ đẻ.
13. Lúc vợ chồng từ giã nhau.
14. Thị Kính sau khi về nhà cha mẹ đẻ.
15. Thị Kính cải trang trốn đi ở chùa.
16. Thị Kính xin vào tu tại chùa Vân-tự.
17. Thị Kính được đổi tên là Kính-Tâm làm tiểu nhà chùa.
18. Thị Mầu phải lòng tiểu Kính-Tâm.
19. Thị Mầu tư thông với với đứa ở.
20. Phú ông tra hỏi Thị Mầu.
21. Vì làng đòi hỏi, phú ông phải dẫn Thị Mầu ra đình.
22. Tiểu Kính-Tâm bị làng tra hỏi.
23. Tiểu Kính-Tâm bị đòn.
24. Nhà sư xin bảo lãnh cho tiểu Kính-Tâm.
25. Nỗi niềm tiểu Kính-Tâm khi ra ở tam-quan.
26. Thị Mầu sinh con trai, đem giao trả cho Kính-Tâm.
27. Tiểu Kính-Tâm nhận nuôi đứa tiểu nhi của Thị Mầu.
28. Tiểu Kính-Tâm viết thư dặn con rồi siêu thoát.
29. Nỗi nhà họ Mãng sau khi nhận được thư.
30. Tiểu Kính-Tâm siêu thăng được làm Phật Quan-Âm.
31. Kết-luận.
1. Mở Đầu
1- Nhân-sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành có khổ rồi sau mới thành,
Ai hay vững dạ làm lành,
Chứng-minh trong chốn minh-minh cũng tường.
Kìa Ngô thị, tụng Kim-cương,
Chân thân còn để tượng vàng nghìn thu,
Kìa Địa Tạng, dốc lòng tu,
Độ thân cũng được khỏi tù đấng thân
Ấy là những truyện gần gần,
10-Tu thân mà được, độ thân lắm người,
2. Vào Truyện
Lọ là đức-hạnh tót vời,
Đức Quan-Âm ấy truyện đời còn ghi.
Vốn xưa là đấng nam-nhi,
Dốc lòng từ thủa thiếu thì xuất gia.
Tu trong chín kiếp hầu qua,
Bụi trần dũ sạch, thói tà rửa không,
Đức Mâu Ni xuống thử lòng,
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều.
Lần-khân ép dấu nài yêu,
20- Người rằng: "Vốn đã lánh điều nguyệt-hoa,
"Có chăng kiếp khác họa là,
"Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay".
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay,
Lỡ lời mà đã vin ngay lấy lời.
Chờ cho kiếp nữa đủ mười,
Thử cho đày đọa suốt đời xem sao?
3. Quan-Âm thác sinh
Cõi trần mượn cửa thác vào,
Hóa sinh, sinh hóa lẽ nào cho hay,
Cao ly là nước lớn thay,
30- Đại bang thành vốn xưa nay gọi là.
Lũng-tài quận ấy bao xa,
Hồ nam huyện bắc, có nhà Mãng-ông.
Gia tư thì cũng bậc trung
Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy.
Vết Kim-Tiến kể thiêng thay,
Báo thai mộng nguyệt, mãn ngày treo khăn
Tuy chưa phải đấng thạch-lân
Khấn-cầu cũng bỏ người thân muộn-màng.
Đặt cho Thị Kính tên nàng,
40- Đượm nhuần sắc nước, dịu dàng nét hoa
Não nùng chim cũng phải sa
Người tiên-cung ở đâu ta trên đời.
Gồm trong tứ đức vẹn mười.
Cửa Vương-đạo dễ mấy người giường đông.
4. Họ Sùng ngỏ lời thông gia với họ Mãng
Ở trong quận, có họ Sùng,
Sẵn khuôn y bát, vốn dòng cân-đai.
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai,
Qua vòng tổng-giốc mới ngoài gia quan.
Kể điều tài mạo cũng ngoan,
50- Gã tào kiếp trước, chàng Phan phen này.
Đã trồng bạch-bích sẵn đây,
Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan.
Thư trung dành có ngọc-nhan,
Sách đèn còn bận, buông màn Quảng Xuyên.
Vẳng nghe họ Mãng gần miền,
Lam-kiều là chốn thần tiên có người.
Bức tranh khổng-tước vẽ vời,
Tay hèn dẫu bắn mấy đời cho tin.
Đem cân mà thử nhắc lên,
60- Bên tài bên sắc đôi bên cũng vừa.
Mượn người đánh tiếng trình thưa,
Cầu hôn mới viết thư từ đệ sang.
5. Họ Mãng bằng lòng nhận lời cầu hôn của họ Sùng
Mở ra họ Mãng xem tường,
Cùng phu nhân mới lo lường trước sau.
Bấy lâu vốn đã quen nhau,
Họ người vả cũng công-hầu xưa kia
Con trai rèn cập sớm khuya,
Nhà thi thư lại giữ nghề thi thư.
Vừa đôi phải lứa quan-thư,
70- Há rằng Trịnh với Tề ư mà ngờ.
Đừng rằng oanh-yến lọc-lừa,
Lại còn nay đợi mai chờ nơi nao?
Tơ hồng đã khéo xe vào,
Viết thơ hoàn-cát mà trao họ Sùng.
6. Thị Kính buồn nỗi phải xa cha mẹ:
Nàng nghe nghĩ ngợi đã xong,
Năm canh thắc-mắc, trong lòng cảm thương.
Linh Xuân một khóm hầu vang,
Quế non Yên đã nở nang chồi nào?
Có ta một chút má đào,
80- Thần-hôn cũng đã ra vào làm khuây.
Áo Lai chưa múa sân này,
Thì đem kinh-bố mà thay gọi là,
Tòng phu nếu đã từ gia,
Thừa hoan như lúc ở nhà được đâu?
7. Cha mẹ khuyên giải Thị Kính:
Song thân thấy ý đeo sầu,
Gọi con mới dạy gót đầu cho hay.
"Kẻ làm phụ mẫu xưa nay,
"Gái sinh mong sớm đến ngày hữu gia
"Cứ xem phúc-trạch nhà ta,
90- "Một mai cũng dễ trai già nở châu,
"Sự nhà chớ lấy làm sầu,
"Miễn con giữ đạo làm dâu cho toàn.
"Núi kia ắt hẳn chưa mòn,
"Thông kia sương-tuyết hãy còn chở che.
"Vả xem lối lại đường đi,
"Quanh đây thăm viếng đôi khi cũng gần"
8. Thị Kính về nhà chồng:
Nàng nghe dạy dỗ ân-cần,
Gạt châu mới nghĩ, lại dần dần khuây.
Cá đi, nhạn lại, tin bay,
100- Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.
Đào yêu choi chói màu hồng,
Ngọc trao chén dặn, hương xông áo nguyền.
Gió đằng kể khéo đưa duyên,
Chàng lưu giong-ruổi đến miền Thiên-thai,
Tiếng cầm tiếng sắt bẻ bai,
Tiếng chuông, tiếng trống, bên tai rập-rình
Một đôi tài sắc vừa xinh,
Đố Tăng-Đô vẽ bức tranh nào bằng?
110- Một rằng thế thế hai rằng sinh-sinh.
Đá kia tạc lấy lời minh,
Vàng kia thếp lấy chữ tình mà treo,
Xét nàng nết đủ mọi điều,
Đã niềm hiếu thảo, lại chiều đoan-trang.
Ở trên hiếu thuận song đường,
Lòng quỳ dám trễ, tay khương nào rời.
Câu thơ liễn-nhứ ngâm chơi,
Dẫu tài nàng Tạ đã xơi cho tày.
Khuyên chàng kinh-sử đêm ngày.
120- Thang mây mong nhắc chân giầy cho cao.
Nghi gia hai chữ thơ Đào,
Nhận ra trăm nết, nết nào còn chê.
9. Thị Kính bị nghi oan là giết chồng
Hôm mai trong chốn thâm khuê,
Kẻ đường kim-chỉ, người nghề bút-nghiên.
Canh khuya bạn với sách đèn,
Mỏi lưng chàng mới tựa bên cạnh nàng.
Phải khi liếc mắt trông chàng,
Thấy râu mọc ngược ở ngang dưới cằm.
Vô tâm xui bỗng gia tâm,
130- Dao con sẵn đấy, mới cầm lên tay.
Vừa giơ sắp tiễn cho tày,
Giật mình chàng đã tỉnh ngay bấy giờ.
Ngán thay sửa dép ruộng dưa,
Dẫu ngay cho chết, cũng ngờ rằng gian.
Thất thần nào kịp hỏi han,
Một lời la lối rằng toan giết người,
Song thân nghe tiếng rụng rời,
Rằng: "Sao khuya khoắt mà lời gớm thay?"
Thưa rằng: "Giấc bướm vừa say,
!40- "Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần.
"Hai vai hộ có quỷ thần,
"Thực hư đôi lẽ xin phân cho tường."
10. Thị Kính bày tỏ nỗi oan
Nàng vâng thưa hết mọi đường,
Rằng: "Từ gảy khúc loan-hoàng đến nay.
"Án kia nâng để ngang mày,
"Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.
"Bởi chàng đèn sách mỏi mê,
"Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu.
"Thấy râu mọc chút chẳng đều,
150- Cầm dao tiễn để một chiều như nhau.
"Há rằng có phụ tình đâu
"Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan.
"Thác đi phỏng lại sinh hoàn,
"Thì đem lá phổi buồng gan giãi bày".
11. Nhà chồng có ý ngờ Thị Kính có ngoại tình
Cô, công rằng: "Bảo cho hay,
"Trộm hương, cắp phấn cũng đầy chan-chan.
"Mấy người một ngựa một an,
"Nay Trương, mai Lý thế gian hiếm gì?
"Ấy may mà tỉnh ngay đi,
160- "Đỉnh-đình-đinh nữa có khi còn đời.
"Sự này chớ lấy làm chơi",
Sai người tức khắc đến mời Mãng-Ông.
Trách rằng: "Sự mới lạ lùng,
"Sinh con ai dễ sinh lòng ấy đâu?
"Sắt cầm bỗng dở dang nhau,
"Say đâu với đứa trong dâu hẹn-hò.
"Sông kia còn có kẻ dò,
"Lòng người ai dễ mà đo cho cùng.
"Sự này mười mắt đều trông,
170- "Thôi đừng tra hỏi, gạn-gùng nữa chi.
"Nghe anh nào có bụng gì,
"Đem lòng dạy dỗ sau thì mặc anh."
Lặng nghe kể hết sự tình,
Ngậm-ngùi nghĩ đến con mình mà thương.
Nỗi kia, đoạn nọ ngổn ngang,
Tủi thân khôn đậu hai hàng mưa sa.
Thưa rằng: "Trong nghĩa thông-gia,
"Ơn lòng chiếu cố thực là hậu thay.
"Hiếm hoi mới một chút này,
180- "Được nương cửa ấy, đã may bội phần,
"Nguyền xưa mong vẹn Tấn Tần,
"Hai non ngảnh lại cho gần cả hai,
"Nào ngờ trẻ mỏ nghe ai,
"Thả chông đường nghĩa, rắc gai lối tình.
"Phù dung nỡ để lìa cành,
"Giếng thơi nỡ để rơi mình từ đây.
"Nước trong bát, đã rời tay,
"Có còn bốc lại cho đầy được chăng?
"Mưa tan mây cuốn nửa chừng,
190- "Rộng dung dạy thế, xin vâng lĩnh về.
"Lờn-bơn chịu ép một bề,
"Quản làm sao được kẻ chê người cười".
Gọi con đến trước lạy người,
Lạy lương-nhân đã, sẽ rời chân ra.
12. Thị Kính từ giã nhà chồng về nhà cha mẹ đẻ
Lòng nàng xiết nỗi xót-xa,
Má đào ủ dột mặt hoa âu sầu.
Đến nơi làm lễ khấu đầu,
Lạy công cô đoạn, rồi sau lạy chồng.
Như tuôn giọt lệ ròng ròng,
200- Nín hơi thổn-thức giãi lòng sau xưa.
Kể từ kim-cải duyên ưa,
Giây leo cây bách mong nhờ về sau.
Dù ai phụ bạc cùng nhau,
Đã thần ba thước trên đầu chứng tri.
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau.
Tiếc công ô thước bắc cầu,
Chàng Ngưu, ả Chức gĩa nhau từ rày.
13- Lúc vợ chồng từ giã nhau
Ngập-ngừng tới lúc chia tay,
210- Đôi bên sùi sụt, bốn mày châu chan.
Ai làm cho phượng lìa loan,
Đang tay nỡ bẻ phím đàn làm đôi.
Lòng chàng nghĩ lại bồi hồi,
Trước kia còn giận, sau rồi lại thương,
Duyên này mà đã dở dang,
Còn nên gảy khúc Cầu-hoàng nữa sao?
Lưu tô sương gió lọt vào,
Đem mâm mà chứa ngọc giao hẳn đầy,
Phấn kia còn dấu bình này,
220- Hương kia còn dính áo này chưa phai.
Xanh xanh khóm liễu Chương-đài,
Tiếc thay đã để tay ai vin cành.
Muôn thu viếng chốn Giai thành,
Vẫn còn hai chữ bất bình mang đi.
14. Thị Kính sau khi về nhà cha mẹ đẻ
Nàng đi từ dở bước vu quy,
Nhânđuyên thôi có nghĩ gì như ai.
Đã oan về chiếc tăng-hài,
Mặt nào mà lại đi hai lần đò.
Trách người sao nỡ dày vò,
230- Để cho Tiểu Ngọc giận no cũng già.
Nhạn hàng phỏng có đôi ba,
Thà rằng minh mục, hơn là ô danh.
Tủi vì phận liễu một cành,
Liễu đi thì để mối tình cậy ai?
Phòng riêng vò võ hôm mai,
Trông ngày đằng-đẵng lại dài hơn năm.
Buồng trong giọt ngọc đầm đầm,
Mùi ăn không nhớ, giấc nằm không ngon
Nực cười sự nhỏ cỏn-con,
240- Bằng lông mà nảy nên cồn Thái sơn.
Vẻ chi chút phận hồng-nhan,
Cành hoa nở muộn thì tàn mà thôi.
Xót thay tóc bạc da mồi,
Vì ai nên nỗi đứng ngồi chẳng khuây.
Dày vò chút phận thơ ngây,
Sự vui chưa thấy, thấy ngay sự phiền.
Lấy gì báo đáp thung, huyên,
Dễ đem má phấn mà đền trời xanh,
Có khi dốc chí tu hành,
250- Lánh mình trần tục, nương miền Thiền-môn
Độ trì nhờ đức Thế Tôn.
Dở dang thủa trước, vuông tròn mai sau.
Nghiêm, từ hưởng phúc về lâu,
Họa đền nghĩa nặng ơn sâu cho bằng.
Thượng-thừa là Phật là Tăng,
Xích-thằng đã ủi, kim-thằng hẳn giai,
Chỉn e thưa gửi rõ bài,
Thương con hẳn chẳng nỡ hoài cho đi.
Thôi thôi xuất cáo làm chi,
260- Thân này còn quản thị phi được nào!
Bàn thầm mọi lẽ thấp cao.
Ba mươi sáu chước chước nào là trên?
15. Thị Kính cải trang trốn đi ở chùa
Xuất gia quyết một gan liều,
Phụ tinh, đới nguyệt bước lên dặm đường.
Quần chân áo chít dịu dàng,
Gỉa hình nam-tử ai tường căn-nguyên.
Song đường thấy sự ngạc-nhiên,
Ruột tằm bối rối, thêm phiền não ra.
Biết đâu dặm thẳm đường xa,
270- Biết đâu giếng cạn, hay là bể sâu.
Chốc là phần ấy tuổi đầu,
Đến nay cả lớn, vừa hầu cậy trông.
Giải kia lầm giắt chữ đồng.
Tủi duyên ấy, để nỡ lòng sâm-thương.
Hay là bực tuyết buồn sương.
Như ai khoét vách, trèo tường, chớ chơi.
Vậy thì sao chẳng một lời,
Biết mà gả phắt cho đời là xong.
Đá vàng nghe cũng bền lòng.
280- Lẽ nàotrốn trống thủng bồng long đến điều,
Vì đâu gió quở mưa trêu,
Để nguồn trôi nổi, cho bèo mênh-mông.
Mắt lòa, chân chậm, răng long,
Để như Lữ Ngọc hết công tìm tòi,
Biết bao nước mắt mồ hôi,
Cây đồng được mấy mươi chồi cho cam?
Bây giờ đôi ngả bắc nam,
Biết còn quanh-quẩn cõi phàm hay không?
Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,
290- Biết còn ứng tiếng Lạc-chung đó là?
Thương thay lụ khụ tuổi già,
Dế năm canh nguyệt, quốc ba tháng hè.