Phong kiếm xuân thu

Hồi 8

Nói về Tôn Tẫn làm một trận tuyết lớn vừa xong, xảy thấy luồng gió thổi qua,

thì nói đại họa đến rồi, mau mau trở vào động, liền dạy tiểu đồng khóa cửa động lại,

rồi hóa phép niêm phong cửa động. Lý Tòng thấy thầy lật đật trở vào, mặt mày thất

sắc, bèn nói rằng: "Chẳng hay có việc chi mà thầy kinh sợ, phải đóng cửa động như

vậy?".

Tôn Tẫn nghe hỏi, than dài một tiếng nói rằng: "Đệ tử không rõ: Vì nước Tần

đang đánh phá Dịch Châu, Tôn Yên đến nước Tề cầu cứu, thì nó biết Viên Đạt, Lý

Mục không phải là người đối thủ của Vương Tiễn, nên trước mặt vua Tương Vương

năn nỉ muốn đến ra mắt thầy, nhân vì lúc thầy từ biệt về núi, thì có để lại một phong

thơ cho quốc sư là Bốc Thương, vả chăng va là người hiền lương, ai ai cũng đều cung

kính, lúc nọ thầy có ý muốn độ cho va về cõi tiên, nên để phong thơ lại, ngày sau va

tỉnh ngộ, tới đây mà tìm ta, không dè tình cờ gặp việc như vậy, mà trở lại mắc lấy

họa căn, nay Bốc Thương cùng Tôn Yên đến núi Thiên Thai, đốc thỉnh thầy xuống

núi, song thầy tưởng đến cái cừu cha anh, và thù của thầy trò, thì lẽ đâu không trả

đặng, nguyên Vương Tiễn vốn là cửu thiên ứng ngươn lôi thanh phổ hóa thiên tôn

giáng thế, học trò của Hải Triều thánh nhơn ở nước Ảo Ly, động Vân Quang, vả lại

nó vâng chỉ Ngọc đế, và phật điệp, phò tá Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, mà nay

nước Yên khí số hết rồi, dẫu có tài phép hơn trời đi nữa, cũng không cứu đặng. Nếu

cho Tôn Yên vào thì ắt bị nó khóc lóc năn nỉ, làm cho ta phải quyến luyến xiêu lòng,

bỏ núi xuống chốn hồng trần, mà khai sát giới, ắt là tai họa chẳng nhỏ, nên phải

niêm phong cửa động, lánh cơn tai nạn".

Lý Tòng nói: "Nếu mà bọn nó tới đây thì có lẽ nào kiếm không đặng cửa động,

như kiếm đặng ở ngoài gõ cửa om sòm, thì mình làm sao mà không mở". Tôn Tẫn

nói: "Thầy đã ra phép dùng mây trắng che bít cửa động bọn nó biết đâu mà tìm

đặng". Lý Tòng nghe rồi, miệng tuy chẳng nói, trong lòng nghĩ thầm rằng: "Rất

chướng cho lão đạo sĩ này, cái cừu của cha anh, cùng học trò, mà chẳng trả, trở lại

khoe khoang lỗ miệng doạ người, ngày thường làm việc chi thì không làm cứ khoe

rằng: "Có tài hay lên trời đổi mặt nhựt, hôm nay sánh với một tên tướng Tần là

Vương Tiễn mà khiếp sợ, chẳng dám xuống đánh, thôi ta chẳng nghe theo lão, hễ có

người đến gõ cửa thì mở ra cho hắn vào, coi thử lão làm sao cho biết". Nghĩ rồi bèn

bước xuống Tam Thanh điện đi tuốt.

Nói về núi Thanh Bạch, động Nhàn Am, có vị chơn nhơn, họ Mao tên Toại, sanh

ra hình dung ngũ đoản (là tay ngắn, chân lùn, mình cụt, cổ thấp, đầu nhỏ) tướng đi

như ngỗng, chân bước như vịt, mắt vàng, mày đỏ, tánh tình khôn khéo, tay chân

nhanh lẹ, nguyên đời xuân thu đắc đạo thành tiên, thường chơi bời kết thân với

Mạnh thường quân là Điền Văn, bảo hộ Mạnh thường quân ba phen qua nước Sở,

trộm áo hồ cừu, cứu Mạnh thường quân, và lại nơi ải Kê Minh, giả tiếng gà, gạt mở

cửa ải làm cho Mạnh thường quân ra khỏi cửa ải rồi, bỏ hồng trần, lên núi tu tiên,

đến sau tới núi Thiên Thai kết làm anh em với Tôn Tẫn, lúc nọ Bàng Quyên dùng

đinh đầu đầu thất tiễn thơ làm hại Tôn Tẫn, cũng nhờ va cướp lấy hình nhân bằng

cỏ, cứu khỏi Tôn Bá Linh (là tên chữ Tôn Tẫn), đến sau Nhạc Nghị đầu Yên, đem

binh đánh Tề, Huỳnh Bá Dương xuống núi, lập ra cái trận kêu làÂm Hồn trận, cũng

nhờ có va cứu Tôn Tẫn. Ngày kia ở trong động Nhàn Âm, đọc sách xong rồi, chẳng

có việc chi, xảy nhở đến núi Thiên Thai, bèn dạy tiểu đồng mở cửa động, mình cỡi

trên mây nhắm núi Thiên Thai thẳng tới, đến trước núi, bay xuống, xem thấy cửa

động mây trắng phủ che, thì nghĩ thầm rằng: "Tam ca ngày nay không có ở trong

động chẳng biết đi đến động nào, vậy ta tới động khác rồi sẽ trở lại". Bèn cỡi mây đi

tuốt.

Nói về Bốc Thương của Tôn Yên, dẫn vài mươi gia tướng, ra khỏi Đông môn,

nhắm phía sau thẳng tới, đi luôn bảy ngày vào quán nghỉ ngơi. Bốc Thương bèn lấy

thơ Tôn Tẫn để lại, giở ra xem thấy có đề ít hàng chữ nhỏ như vầy:

Muốn tới núi Thiên Thai,

Phía Động năm trăm dặm,

Giai cảnh thiệt tên làng,

Qua Tây Bắc thăm thẳm,

Đi luôn đôi ba ngày,

Thấy rừng tòng như cặm,

Khỏi rừng có cái cầu,

Qua cầu tua vịn nắm,

Gặp cội phải trở quanh,

Đường Thiên Thai xa lắm.

Bốc Thương cùng Tôn Yên xem thấy rất mừng, bèn kêu tên quân đến hỏi rằng:

"Chẳng hay gần đây chỗ nào, kêu là làng Giai cảnh chăng?". Tên quân bẩm rằng:

"Cách đây sáu chục dặm kêu là Giai cảnh thôn, thuộc về Đông Tề ta cai trị, nơi ấy

sơn minh thủy tú, xem chơi vui lắm, tướng gia cùng tướng quân tới đó dạo chơi,

phong cảnh rất đẹp, hôm nay trời đã tối rồi, không đi được, để mai tôi sẽ dẫn đường

cho tướng gia đi". Bốc Thương nói: "Thôi ta chẳng cần mi dẫn đường làm chi, bọn ta

đến đó, không phải du ngoạn đâu, tới nơi đó, rồi lên núi Thiên Thai". Tên quân nghe

nói thì không biết núi Thiên Thai ở chỗ nào, cũng chẳng dám chỉ bày, bèn trở xuống

dọn bàn rượu cơm khoản đãi, hai người ăn uống xong rồi, ngủ nơi quán một đêm qua

ngày thứ ra đi, cứ theo đường tên quân chỉ, đi nửa ngày, vừa đến Giai cảnh thôn, quả

nhiên phong cảnh đẹp đẽ, hai người không lòng xem chơi, tìm nhà vàonghỉ, cho ngựa

ăn uống, rồi coi theo trong thơ mà đi, ngày đêm dong ruỗi bỗng thấy hòn núi tòng

rậm sum suê, hai người dẫn gia tướng đi ngang qua núi ấy, quả nhiên u nhãn, thiệt

khiến cho người vui vẻ tấm lòng, dường như đi sông biển, tiếng sóng vang tai, đi

hơm nửa ngày, qua vừa khỏi núi, xem thấy núi cao vòi vọi, đứng sững giữa trời, khắp

núi cỏ cây chẳng có lá úa nhành khô, gió thổi phất qua, tiếng suối cùng tiếng cây

reo như giọng đèn cầm ăn nhịp.

Bốc Thương xuống ngựa ngồi trên hòn đá. Tôn Yên cũng bước xuống ngựa.

Bốc Thương nói: "Từ xưa kẻ ở ẩn, thì nương mình nơi chốn núi non, tuy quý đến bực

Vương hầu, giàu có bốn biển, cũng không dời chí, ta thấy chỗ này rất nên vui vẻ,

khiến cho lòng ta ái mộ, nghĩ lại trong cuộc công danh, thiệt chẳng xiết nỗi nhọc

nhằn". Tôn Yên hỏi rằng: "Chẳng hay chỗ nào cách núi Thiên Thai, còn xa hay

gần". Bốc Thương cười rằng: "Tướng quân, ta đâu biết được, ta cũng chưa từng đi

đến". Tôn Yên nói: "Nếu vậy thì ta chẳng nên ở đây, mà cho trễ nãi ngày giờ, hãy

lên núi Thiên Thai là việc cần kíp".

Bốc Thương bèn lên ngựa ra đi, chưa đặng vài dặm, xem thấy một cây cầu đá

lớn, qua khỏi cầu thì thấy một khoảng đất trống cây tùng vô số, chim kêu thảnh thót,

chẳng thấy dạng người, qua vừa khỏi rừng, có một cái khe nhỏ, trước mặt núi non

chất ngất, chẳng thấy tiều phu, rồi coi trong thư mà đi, giây lâu gặp cây cối, đi quanh

theo đường tắt, lần lần mặt trời đà chen lặng, non núi chập chùng, gió thổi tiếng

nghe như rồng ngâm cọp rống, may vì dưới cây, bóng trăng rọi sáng, xem thấy

đường đi chúng nhân chẳng dám nghỉ ngơi, cứ việc đi hoài. Lúc ấy trời vừa hừng

sáng, ngước mặt xem thấy một tòa núi cao lớn, bốn mùa bông hoa chẳng rụng, hạc

kêu, vượn hú, rông ngâm cọp ré. Thật là:

Tùng xanh liễu tía che trời nắng,

Cây gấm hoa thơm ửng dạng mây.

Chúng nhân lên núi dạo xem phong cảnh, xảy thấy một tấm bia đá, đứng sựng

như vách, có khắc ba chữ Thiên Thai sơn, ai ai cũng đều vui mừng, la: "Tới rồi, tới

rồi". Tôn Yên nói với Bốc Thương rằng: "Chúng ta hãy xuống ngựa, kiếm tìm cửa

động". Rồi chúng nhân phò Bốc Thương đi bộ lên núi, kiếm một hồi lâu, xem thấy

khí mù nghi ngút, chẳng có động phủ, Tôn Yên nói với Bốc Thương rằng: "Ông có

thấy động Thiên Thai chăng?" Bốc Thương nói: "Tôi không thấy, song tưởng lại chỗ

này đã kêu là Thiên Thai sơn, thì ắt có Thiên Thai động tướng quân chớ nên nóng

nảy, vậy bọn ta ra sức tìm kiếm". Nói rồi bèn dẫn chúng nhân đi khắp một vòng nữa,

cũng không thấy cửa động. Bốc Thương vốn là người tuổi lớn, tuy co gia đình vịn đỡ,

song đi giáp một vòng, mệt thở hào hển, cứ nói: "Lạ kỳ, lạ kỳ núi đã tới rồi, làm sao

không thấy cửa động".

Tôn Yên thấy Bốc Thương mệt, đã thở dốc, thìnói rằng: "Lão quốc khanh, hãy

tạm ngồi đây mà nghỉ, để tôi chia nhau tìm kiếm, có khi đi chung một tốp không đọc

kỹ lưỡng chăng?". Bốc Thương nói: "Tướng quân phân rất phải". Rồi Tôn Yên cùng

chúng nhân, chia nhau bốn phía kiếm tìm, giây phút chúng nhân đều tựu về chỗ cũ,

nói rằng: "Nguyên núi này bốn phía, đều là đường xuống dưới chân núi, chớ không

thấy chỗ nào có hang hố chi cả, tuy rằng cao lớn mặc dầu, song núi đứng sững,

chúng tôi bắt từ trên chót mà kiếm tới dưới chân, rồi bắt từ dưới chân mà kiếm lên

chót, cũng chẳng thấy cửa động, đến nỗi một cái hang lớn cũng không có". Lúc ấy

Tôn Yên lòng như dao cắt, chẳng xiết lo phiền, bỗng nghe Ban Báo nói: "Phải rồi a,

có khi núi Thiên Thai khác, còn động Thiên Thai khác nữa chăng, chớ không phải ở

chung một chổ".

Bốc Thương nghe nói cười rằng: "Có lẽ đâu vậy, trong thư nói rõ ràng, hễ đến

núi Thiên Thai thì là động Thiên thai đó, đâu có ở riêng một chỗ khác". Tôn Yên nạt

Ban Báo rằng: "Mi chớ nói xàm, tam thúc ta để thư lại cho Lão quốc khanh, có lẽ

nào đi nói dối sao". Còn đang chuyện vãn, cãi lẫy om sòm, bỗng nghe tiếng trâu

rống, chúng nhân đều sửng sốt. Bốc Thương nói: "Vậy chớ không phải tiếng trâu

rống đó sao? Chắc là trâu của tam thúc ngươi đó, vậy chúng bây hãy đi kiếm một

vòng nữa".

Chúng nhân vâng lệnh ra đi, giây lâu trở lại nói: "Trâu ở đâu không thấy hình

dạng chi hết". Nói dứt lời thì nghe trâu kêu luôn hai tiếng nữa, Bốc Thương nói:

"Quả thiệt là tiếng trâu Bàn đốc Thanh ngưu chẳng sai". Tôn Yên nói: "Đã có tiếng

Thanh ngưu kêu, thì có khi cửa động ở gần đây, làm sao mà tìm kiếm không được".

Bốc Thương ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói rằng: "Hể là tiếng kêu trong núi nghe lớn mà

lại xa, chúng ta chẳng cần đi bậy làm chi cho mệt, các người cứ pháp hiệu của

tamthúc, mà kêu lớn thì trong ấy người nghe tiếng, ắt sai ra dắt chúng ta vào, cũng

chưa biết chừng". Tôn Yên nói: "Phải". rồi dạy chúng nhân kêu réo om sòm, tiếng

vang dậy núi.

Nói về Mao Toại, lúc nọ đi tới núi khác chơi rồi, trở lại núi Thiên Thai, đang bay

trên mây, xảy nghe tiếng người réo gọi đạo hiệu Tôn Tẫn liền ngó xuống xem thấy

dưới núi, có một tốp người đi đường và vài mươi con ngựa, trên hòn đá ngồi một ông

già, một người trẻ, ăn mặc đồ quan, trong lòng không rõ cớ chi, mới tính rằng: "Để ta

xuống hỏi thử coi'. Bèn bay xuống đất, nhắm trong nhóm đông người mà đi vào. Lúc

ấy có tên gia nhân, mắt lẹ, ngó thì nói rằng: "Chúng ngươi, hãy coi đó mà coi, trong

núi chạy ra một vật chi chi, rất lạ kỳ, có khi yêu tinh hay là ma quỷ gì đó chăng?".

Có người nói lại: "Vốn là người lùn, chớ không phải yêu quỷ đâu". Tôn Yên nghe

nói quay đầu, quả thấy một người lùn, chạy lăng xăng mà đi lại, trong lòng rất mừng

nói: "Có người đến đây, mình hỏi thăm đường đặng, chúng bây chớ làm cho người

kinh sợ". Còn đang nói thì người ấy đã tớitrước mặt, coi kỹ lại, té ra là một người ăn

mặc đạo phục.

Cặp mắt lộ ra sáng tựa sao,

Mình hơn ba thước kể bề cao.

Áo xanh dày dạn dường mây chói,

Râu tóc còn xanh mặt trắng phau.

Lúc ấy Bốc Thương cùng Tôn Yên bước tới, xá nói rằng: "Chào đạo trưởng tới

đây". Mao Toại cũng xá đáp lễ lại. Bốc Thương hỏi rằng: "Chẳng hay đạo trưởng ở

đâu mà đến đây vậy?" Mao Toại nói: "Vốn tôi trước ở núi này, đi ngang qua đây, vì

muốn kiếm một người anh em bạn, đặng nói chuyện chơi, chẳng hay liệt vị ở đâu

đến đây, có việc chi chăng? Vì làm sao mà kêu réo Tôn Bá Linh như vậy? Có khi ở

trong núi, mất người ấy chăng?"

Bốc Thương nói: "Không phải, tôi là người nước Tề, làm quan Quốc Khanh, tên

Bốc Thương, còn vị này là Hoàng thân nước Yên, cháu Thoại lăng quân, con của

Chánh tổng nhung Tôn Long, vốn là cháu của Quản văn tiên tử ở núi Thiên Thai,

động Thiên Thai, vả chăng ông cha người, cùng với nước Tần giao binh, bị chết nơi

tay Vương Tiễn, nay binh Tần đang vây thành Dịch Châu, cho nên người lãnh thơ

vua nước Yên, qua Lâm Tri cầu cứu, và vâng mạng Yên Đơn côngchúa, đến núi

Thiên Thai, thỉnh Quản văn tiên tử, nguyên vì mười năm trước, Quản văn tiên tử có

để lại cho tôi một phong thơ, dặn rằng: "Ngày sau muốn lên núi Thiên Thai, thì giở

cái thơ ấy ra, sẽ rõ đường đi, nay chúa tôi gởi cho một phong thơ, sai tôi cùng Tôn

tướng quân ra đi, cứ theo phong thơ, đi liền chỗ này, thấy dưới núi có một tấm bia

đá, khắc ba chữ Thiên Thai sơn, tìm kiếm hơn nửa ngày, chẳng thấy cửa động, nếu

đạo trưởng biết xin ra ơn chỉ giùm, tôi sẽ trọng đáp".

Mao Toại nghe nói, trong lòng nghĩ thầm rằng: "Nguyên lại có cớ sự như vậy,

lão cụt chân này, sợ cháu đến mà làm cho mất công, nên dùng mây trắng, phong

niêm cửa động, làm cho nó kiếm tìm không được, song hễ là đúng con người, thì coi

cha mẹ anh em là trọng, nếu người không chịu xuống núi báo thù, thì há chẳng để

tiếng nhơ muôn thuở". Nghĩ rồi bèn đáp rằng: "Té ra liệt vị quý nhân muốn tới núi

Thiên Thai, đặng cố thỉnh Tôn quản văn, vì tôi biết chỗ động Thiên Thai ấy, thôi để

tôi chỉ giùm cho, song không nên nói với ai rằng tôi chỉ đường". Chúng nhân cả

mừng, nói: "Xin vâng theo lời đạo trưởng, song chẳng rõ đi theo đường nào tới

được".

Mao Toại lấy tay chỉ nói: "Đi vòng theo đường bên tả thì ngó thấy". Tôn Yên

cười: "Chúng tôi đã qua lại nơi ấy năm sáu lần, mà không thấy động chi hết". Mao

Toại cười nói: "Tôn tướng quân hãy y theo lời nói của tôi, tự nhiên kiếm được". Tôn

Yên chẳng biết làm sao, rồi dẫn kẻ tùng nhân, cứ theo đường Mao Toại chỉ, đi vừa ít

bước, quay đầu lại không thấy Mao Toại, ai nấy thất kinh, nói với nhau rằng: "Người

đạo nhân khi nãy, đi đâu mất rồi, không thấy nữa, có khi thần tiên đến chỉ đường cho

ta chăng?" (Nguyên Mao Toại dùng phép ẩn thân theo sau lưng mấy người đó vừa đi

vừa niệm chú cho tan mây, cho trống cửa động). Lúc bọn Tôn Yên đi đặng vài trăm

bước, xảy thấy bên núi ló ra một cái cửa động, trên cửa có treo một tấm biển, đề ba

chữ Thiên Thai động, chúng nhơn xem thấy rất mừng. Thiệt là:

Đi mòn giày sắt không tìm đặng,

Xảy gặp thình lình chẳng tốn công.

Tôn Yên liền bước tới mà kêu cửa.

Nói về trong động, Lý Tòng nghe có tiếng người kêu đạo hiệu thầy mình, thì rất

mừng nói: "Quả nhiên người đã đến rồi, để ta coi lão đạo sĩ này chốn đâu cho khỏi".

Chờ một hồi lâu, cũng nghe tiếng kêu réo om sòm, mà chẳng thấy gõ cửa, trong lòng

nóng nảy nói rằng: "Có khi mấy người này đui hết chăng, cái cửa động lớn như vậy,

mà không gõ, cứ ở ngoài kêu réo làm chi". Ý muốn mở cửa đi ra, lại e thầy quở

trách, xảy nghe có tiếng gõ cửa, thì chẳng xiết nổi mừng, bèn tuốt ra mở hoác cửa

động. Tôn Yên xem thấy một người:

Mình cao trượng sáu rất oai phong,

Mắt lớn đầu beo khí khái hùng.

Tướng mạnh thêm râu coi quá mạnh,

Tiếng vang như tiếng đánh chuông đồng.

Tôn Yên xem rồi, có ý khen thầm. Lý Tòng hỏi rằng: "Chúng ngươi ở đâu mà

đến đây, có việc chi chăng?" Tôn Yên bèn tỏ hết nguồn cơn. Lý Tòng nói: "Người là

thế đệ đó sao? Vậy hãy ở đây chờ một chút, đặng tôi vào thông báo". Nói rồi tuốt

vào trong Tam thanh điện, bẩm rằng: "Ngoài cửa có Tôn Yên ở nước Yên, Bốc

Thương ở nước Tề, xin vào ra mắt sư phụ". Tôn Tẫn nổi giận quở rằng: "Ai bảo mi

làm khôn ra mà mở cửa". Lý Tòng nói: "Người đến kêu cửa, mà làm sao không mở

cho đặng". Tôn Tẫn nói: "Thằng chết bầm, sao không đi xuống cho rồi". Bèn đứng

dậy chống gậy trầm hương, bước xuống điện, và dạy đồng nhi dọn bày hương án.

Lúc ấy Tôn Yên cùng Bốc Thương vào động, còn Mao Toại cũng vào động, rồi tuốt

lên Tam Thanh điện, Tôn Yên cùng Bốc Thương vào đến Thiên đài, xem thấy một

người đạo nhân, trên điện bước xuống, mặt như trăng tròn, mắt sáng tợ sao, đội mão

tam sa, đi giày da cá, mặc áo bào xanh, cột dây đai vàng, thắt lưng cây Hạnh huỳnh

kỳ, tay cầm gậy trầm hương.

Bốc Thương nhìn biết Tôn Tẫn, trong lòng rất mừng, ngó thấy Tôn Tẫn bước

tới vài bước cúi đầu lạy rằng: "Chớ chi hay thánh chỉ Chúa thượng, cùng là thơ mẫu

thân đến đây, thì phải ra nghinh tiếp, nay đến đây chậm xin cam tử tội". Nói rồi cúi

đầu lạy bốn lạy, đứng dậy,tiếp lấy thánh chỉ, trở lên Tam thanh điện, để trên ghế

giữa, rồi Bốc Thương cùng Tôn Yên, ra mắt Tôn Tẫn. Tôn Tẫn một tay thì nắm Bốc

Thương, một tay thì đỡ Tôn Yên đứng dậy, mời cả hai người ngồi, rồi xem kỹ Tôn

Yên, ngó thấy mắt lộ sáng ngời, long cốt rất cao, biết là có phận mấy năm hoàng đế,

vùng đến nhớ cha anh, bèn sa nước mắt dầm dề. Tôn Yên quỳ xuống đất, khóc ròng

Tôn Tẫn nói: "Cháu ôi, hãy bớt bi thương, đặng cố đem việc nước Yên thế nào, mà

thuật lại cho chú rõ".

Tôn Yên đem việc nước Yên thế nào, mà thuật lại cho chú rõ". Tôn Yên đem

việc binh Tần phạm cõi, thuật lại một hồi, Tôn Tẫn bèn quay lại Bốc Thương bái nói

rằng: "Cũng vì tôi mà làm cho Lão quốc khanh tuổi ngoài chín chục phải trèo non

vượt suối đến chỗ núi hoang". Bốc Thương nói: "Vâng mạng vua, lẽ phải như vậy,

chớ không phải là nhân việc riêng mà đến đây, nay hoàng thượng sớm trông tối nhớ,

dạy tôi đến cầu thỉnh Nam quận vương xuống núi, cho vua tôi gặp mặt". Tôn Tẫn

nói: "Cũng chẳng khó gì". Bèn bước lại ghế giở thơ ra xem, thấy ngoài bao để rằng:

"Thơ của Yên Đơn gởi cho Tôn Tẫn xem tường". Tôn Tẫn ngó thấy thì rơi lụy nói

rằng: "Mẫu thân, xin thứ tội con trẻ bất hiếu". Bèn xé thơ ra coi, lúc chưa xem thì

hãy còn khá, đến khi xem thấy thơ rồi, chẳng những sa nước mắt mà thôi, đến nỗi

phải chết giấc, Tôn Yên xem thấy tình hình như vậy, lòng rất vui mừng, vì làm cho

Tôn Tẫn động lòng, chắc làm sao cũng phải xuống núi, bèn lật đật bước lại đỡ, Tôn

Tẫn nước mắt như mưa. Tôn Yên hỏi rằng: "Chẳng hay chú chịu đi hay không". Tôn

Tẫn nói: "Đi đâu bây giờ?". Tôn Yên nói: "Mời chú tới Dịch Châu, đặng giúp sức,

bắt thằng Vương Tiễn trả thù cho cha, ông".

Tôn Tẫn nói: "Ta đi không được, phải chi ta đi được, thì có đâu mà chờ cháu

đến đây, cái cừu giết cha anh, lẽ phải xuống núi mà trả thù, song nay ta vâng ngọc

chỉ, sắc phong chức Tuần thiên đô úy sứ, vả lại Vương Tiễn chẳng phải là việc tư kỷ

của nó, vốn nó vâng Điệp phật cùng sắc ngọc đế gồm thâu sáu nước, ông cha và chú

mày số trời đã định, người phải thác nơi tay Vương Tiễn, thì làm sao mà trái trời, đi

trả thù cái thù riêng cho được". Tôn Yên cùng Bốc Thương nghe nói thất kinh, vội vã

nói rằng: "Xin Nam quận vương mở lòng từ bi, xuống núi cứu mạng nhân dân, và

cứu vua tôi hai nước".

Tôn Tẫn nói: "Nếu tôi xuống núi cũng phải chết, thì làm sao mà cứu được". Tôn

Yên nói: "Nay chú không đi mà tôi trở về Dịch Châu ví chẳng khác lên trời rất khó,

mặt mũi nào trở lại, chi bằng chết phức chốn này cho rồi". Nói dứt lời, xăn quần vén

áo, vừa bước xuống thềm mà đập đầu, bỗng thấy sau lưng Tôn Tẫn, có người lên

tiếng kêu rằng: "Không nên liều mình".

Coi lại người ấy là Mao Toại. (Nguyên va đứng sau lưng Tôn Tẫn, xem thấy thơ

của Yên Đơn rõ ràng, mà Tôn Tẫn không chịu đi, thì trong lòng cả giận, lại thấy Tôn

Yên khóc lóc, khẩn cầu hết sức, và muốn dập đầu mà chết, thì nín không được, nên

phải hiện ra). Tôn Tẫn thấy Mao Toại, liền xoay mình ra mắt, hỏi rằng: "Hiền đệ

đến bao giờ vậy?". Mao Toại nói: "Tôi vừa mới đến đây, chẳng hay vị lão quan này

là ai đó?". Tôn Tẫn nói: "Người nước Tề, làm chức Quân khanh tên Bốc Thương".

Mao Toại nói: "Tôi biết mặt, song từ ngày cách biệt đến nay, hơn hai mươi năm

cũng đã quên đi rồi". Bốc Thương biết là Mao Toại, bèn tới làm lễ, đều tỏ lòng

thương mến. Mao Toại lại hỏi rằng: "Chẳng hay vị nhỏ này là ai?". Tôn Tẫn nói:

"Cháu của tôi, tên Tôn Yên". Bèn kêu Tôn Yên lạy ra mắt Mao Toại. Mao Toại hỏi:

"Vậy chớ hai người này đến có việc chi cùng chăng?". Tôn Tẫn bèn tỏ hết sự tình.

Mao Toại hỏi rằng: "Vậy chớ tam ca đi hay là không đi?". Tôn Tẫn nói: "Em lại dễ

chẳng biết, Vương Tiễn là học trò của Hải Triều thánh nhơn sao? Ta không phải là

người đối thủ của nó đâu". Mao Toại cười rằng: "Tam ca, thôi chớ khiêm nhường, hễ

con người mà không có cha mẹ anh em, thì có khác chi loài cầm thú, nay anh không

xuống núi trả cái thù ấy, thì há chẳng để tiếng xấu cho muôn đời sao?".

Tôn Tẫn nói: "Anh cũng đã biết rồi, song chẳng hay trí nghịch lòng trời được".

Đang lúc chuyện văn, xảy nghe tiếng dưới thềm có tiếng nói: "Có lý nào đâu vậy!".

Tôn Tẫn vội hỏi rằng: "Người ấy là ai?". Tôn Yên nói: "Tên gia tướng là Ban Báo

đó?" Tôn Tẫn nói: "Dám cả gan cho thằng đầy tớ, mi nói giống chi vậy?" Ban Báo

nói: "Chẳng phải là tôi dám cả gan, vì ông không chịu xuống trả thù cho thái thái lão

gia, cùng đại lão gia, nhị lão gia, làm con người nỡ lòng như vậy, mà xưngrằng:

Thần tiên gì?". Tôn Tẫn nạt rằng: "Thằng cẩu nô, sao mi dám trước mặt ta khi dễ ta

lắm vậy?". Liền hối đuổi nó ra cho rồi. Ban Báo giận hầm hầm, quày quả trở ra, vừa

đi vừa nói: "Để ta ra đem lửa đốt động này, đặng coi người có ra cùng không ra cho

biết". Bèn bẻ cành khô, chất lên cửa động, vừa muốn dùng kửa đốt lên, Lý Tòng

xem thấy rất mừng, lật đật chạy vào đại điện, nói: "Không xong rồi, thằng Ban Báo

đi ra khi nãy, bây giờ ở ngoài cửa, đem lửa đốt động".

Tôn Tẫn nghe nói cười rằng: "Cả gan cho thằng thất phu, dám tới động ta mà

làm điều vô lễ như vậy? Tôn Yên, hãy kêu nó vào đây". Tôn Yên bèn kêu Ban Báo

trở vào, xem thấy Ban Báo hùng khí ngang ngang, đứng thẳng chẳng chịu quỳ. Tôn

Tẫn nạt rằng: "Ban Báo, mi đốt động ta, sao dám khi chủ vậy?" Ban Báo nói lớn

rằng: "Như ông xuống mà trả thù thì tự nhiên có phận chủ tớ, nếu không xuống là

người bất nghĩa, ai nhìn đến ông mà làm chi?" Mao Toại nói: "Người này nói tuy lỗ

mãng song có nghĩa khí khá dùng, vậy anh xuống núi mới phải cho".

Tôn Tẫn nói: "Anh cũng muốn đi, duy sợ Hải Triều thánh nhơn, nếu có sai lầm,

thì biết lấy ai mà cứu giúp". Mao Toại nói: "Anh chớ lo chi điều đó, nếu anh mà

xuống, có khi khốn khó, tôi là Mao Toại đây, không cứu anh, thì ngày sau phải chết

dưới mũi gươm đao". Tôn Tẫn nói: "Mấy thuở được em có lòng tốt như vậy, thì ta lo

gì". (Nguyên vì Tôn Tẫn muốn cho Mao Toại giúp mình, nên cố ý không chịu đi, để

cho Mao Toại ép đi, đặng ngày sau Mao Toại phải giúp). Bèn dặn Lý Tòng thắng

con thanh ngưu cho thầy xuống núi. Mao Toại nói: "Như vậy thì phải rồi". Bèn từ

biệt về động.

Nói về Lý Tòng thắng thanh ngưu, và sắm đồ hành lý của mình rồi trở vào điện

nói với thầy rằng: "Tôi xin đi theo cùng thầy, mà giúp đỡ tay chân". Tôn Tẫn gật đầu

cho đi, rồi dặn dò đồng nhi gìn giữ động môn, bèn dắt chúng môn ra cửa động, làm

phép chẳng đầy một khắc, đưa chúng nhơn đến cửa bên Đông thành Lâm Tri, quân

binh vào phi báo. Tương Vương hối gát xe đặng ra nghinh tiếp. Tôn Tẫn thấy dạng

xa xa, liền lật đật bước xuống thanh ngưu. Tôn Yên phò Tôn Tẫn đi bộ, bên kia

Tương Vương thấy Tôn Tẫn, liền cũng xuống xe cúi mình nói rằng: "Á phụ cách biệt

đã lâu, làm cho trẫm thương nhớ khôn cùng". Tôn Tẫn vội vàng cúi lạy, Tương

Vương đỡ dậy, rồi dắt tay vào cửa ngọ môn, thẳng tới đại điện. Tôn Tẫn lại muốn

làm lễ vua tôi, Tương Vương từ chối chẳng chịu bèn mời ngồi, nói rằng: "Ngày trước

ngự đệ đến đây cầu cứu, trẫm đã sai Viên Đạt, Lý Mục, qua Dịch Châu giải vây,

đến nay chưa thấy tấu chương về, chẳng biết sự thể thế nào".

Tôn Tẫn sa nước mắt tâu rằng: "Hai người đều tử trận hết, mà báo ơn tri ngộ

cho bệ hạ". TươngVương nghe nói nửa tin nửa nghi, bỗng có quan Huỳnh môn vào

tâu rằng: "Bảo quốc công thác nơi trận, Hộ quốc công cướp dinh bỏ mình, nay quan

quách đem về còn để ngoài thành". Tương Vương nghe tấu khóc rống lên, Tôn Tẫn

khuyên giải mới thôi, liền hạ chỉ đòi con Viên Đạt là Viên Cang, con Lý Mục là Lý

Huân, đều vào điện, mà nối chức cha. Hai người tạ ơn lui ra. Tôn Yên quỳ xuống

trước mặt Tương Vương tâu rằng: "Dịch Châu trông chờ cứu binh như cứu lửa, xin

chúa thượng ra ơn, kíp phát cho một đạo binh mã đến cửa Dịch Châu". Tương Vương

nghe tâu, bèn hỏi Tôn Tẫn rằng: "Chẳng hay Á phụ đi đây, muốn dùng bao nhiêu

người ngựa?"

Tôn Tẫn nói: "Ba ngàn nhơn mã đủ dùng, mà tôi xin chúa thượng cấp sai chúng

tướng núi Toàn sơn, đặng đivới tôi". Tương Vương từ chịu, liền đòi chúng tướng vào

điện. Chúng tướng vào lạy xưng hô xong rồi, ra mắt Tôn Tẫn. Tương Vương truyền

chỉ cho binh mã ty, tức tốc điểm chọn ba ngàn quân binh ròng, tới ngọ môn hầu chỉ.

Rồi dạy bá quan tiệc cùng Á phụ tiễn hành. Tôn Tẫn uống ba chung ngự tửu, cúi đầu

tạ ơn, rồi dắt Tôn Yên cùng chúng tướng Toàn sơn, lạy từ Tương Vương ra đi. Tương

Vương dẫn văn võ quan viên, đưa ra khỏi cửa triều môn.