đất, Lão tổ thất kinh, lật đật kêu Ngân liên Tử đem một chén nước, miệng niệm thần
chú, vãi lên trên không, tức thì mây đen mù mịt, mưa tuôn như xối, lửa đều tắt rụi,
trong dinh thấy lửa, ba quân thất kinh, kéo nhau đến chữa, tơi nơi thì lửa đã tắt hết.
Thủy Hoàng cùng chúng tướng đến xem, lão tổ tiếp giá vào ngồi, xảy thấy Ngân
liên Tử hơ hãi chạy vào báo, nói: "Những gươm, cờ, gậy để trên bàn đều mất sạch".
Lão tổ thử nào". Lần tay coi rồi, giận lắm nói với Thủy Hoàng rằng: "Bần đạo lỗi
không xem xét, nên thằng Cụt sai Mao Toại vào dinh, đốt lửa ăn trộm bửu bối, thiệt
nên giận lắm, mai tôi lập một cái trận, chắc đặng thành công".
Nói về Mao Toại độn thổ, dưới đất chun lên, vào đến la trướng, Tôn Tẩđang
chong đèn ngồi đợi thấy Mao Toại lưng giắt cờ vàng, mang gươm thư hùng, tay cầm
gậy trầm hương vội vàng bước xuống nắm tay cười nói: "Chúc mừng em đã thành
công, thiệt đáng kính đáng khen". Mao Toại rờ lưng nói: "Ôi thôi! Mất rồi còn chi,
chị lấy bửu bối cho anh, mà bỏ quên cái ruột ngựa cả tôi cháy hết". Tôn Tẫn nói:
"Hiền đệ nhọc lòng nhọc sức, ơn ấy tạc dạ ghi xương. Liền hối quân bày rượu mừng
công. Mao Toại nói: "Việc buôn còn dễ hơn nghề ngày, may một lần đây mà thôi, tự
hậu tôi không dám phụng mạng nữa, không phải dễ dàng gì đâu, hết hồn vía mới ăn
được". Tôn Tẫn nói: "Thiệt cũng có chút, còn lửa ấy của em đốt phải không?". Mao
Toại nói: "Chớ ai vô đó mà đốt, tôi thấy chùa già ngồi một mình, nên đốt lửa dọa
cho nó thất knh chơi". Tôn Tẫn cười nói: 'Hiền đệ làm một tên ăn trộm cũng đủ rồi,
sao đi đốt trại cướp giựt làm chi". Mao Toại nói: "Chướng cho anh này, tôi chẳng nài
khó nhọc, mà đi ăn trộm lấy đồ về cho, còn trở lại kiêu ngạo tôi nữa". Tôn Tẫn cười
nói: "Thôi anh em ta đi ngủ, sáng ngày tôi sẽ hết lòng đền ơn". Nói rồi trở vào hậu
trường.
Bên kia hải Triều thánh nhân qua ngày thứ sai Ngân liên Tử mời Thủy Hoàng
đến lư bằng, Thủy Hoàng nói: "Khi hôm làm tổ sư giựt mình". Hải Triều nói: "Thình
lình không phòng bị mắc mưu đó, bần đạo hôm nay bị thua trí nó, nên tức mình lắm,
nhứt bất tố, nhị bất hưu, đễ tôi lập một cái trận, cho tiện việc điều khiển quân cờ:.
Thủy Hoàng rất mừng dạy quân đem dâng cho lão tổ và nói rằng: "Cái lệnh tiễn
này, chẳng luận vương hầu, phò mã, mặc tình sai khiến, như có ai chẳng tuân lịnh,
thì cứ quân pháp răn trị". Nói rồi từ biệt lui về. Hải Triều sai Vương Tiễn, đến phía
đông nam, lập ba cái tòa cao đài, tòa phía nam cao hơn hai trượng ba thước, vuông
vức sáu mươi bước, bên tả nhựt tính, bên hữu dựng cờ nguyệt ba, trước đài chọn sáu
tên quân mạnh dạn cầm cờ thể kỳ, trên đài hai mươi tám tên quân cầm cờ ngũ hành,
dưới đài chín tên cầm cờ ngũ sắc, bố theo cửu diện tinh quan, và dùng năm cái trống
để trên đài, cấp năm tên quân đánh trống, kêu là cửa thiên môn; phía bắc một tòa
đài cao một trượng tám tấc, phân mười tám từng địa ngục, vuông vức bảy hai bước,
trên làm thập điện diêm vương, hai bên dùng hai tên quân, giả đầu trâu mặt ngựa,
trước đài đào một cái hầm lớn tên là âm khanh, không dùng đồ trấn yểm, cũng
chẳng hại sanh linh, hầm ấy sâu một trượng tám thước, tròn bảy hai bước, dạy bảy
mươi hai tên quân đầu bỏ tóc xõa, giả dạng vô thường ngũ quỷ,mỗi người cầm một
cây cờ trắng, hễ tướng giặc nào vào trận đánh rớt xuống hầm thì cầm giờ giấy hươi
phất mà thâu hồn phách nó, kêu là đại địa hộ, còn các đài ở giữa cao chín thước,
vuông vức bảy mươi hai bước, trên dựng huỳnh la trướng, dọn chỗ ngai rồng vua
ngự, dưới đài lựa sáu tên quân theo sáu viên đại tướng dùng cày bừa cày đất, chỉ
nghĩa dẹp trừ sáu nước, các quan văn võ đều đứng đài bảo giá, kêu là đài nhơn vức,
phải làm cho mau chẳng đặng chậm trễ. Vương Tiễn lãnh lịnh dẫn quân ra đi. Hải
Triều dạy tử Lăng về Trướng An lấy ba mươi sáu cây súng lớn, bảy mươi hai súng
nhỏ. Tử Lăng hỏi: "Chẳng hay thầy dùng súng ấy để làm chi?". Lão tổ nói: "Ngươi
đâu rõ đặng, vốn thành Dịch Châu này năm phía thành có hào, áp theo canh tân kim
đoài, thiệt rất khó phá, duy có hỏa khắc kim dùng súng mới phá nổi thành, hãy đi lấy
đem về mau". Tử Lăng lãnh lịnh ra đi.
Nói về Vương Tiễn lãnh mạng lập đài xong rồi, vào trại chờ lịnh. Hải Triều dạy
Vương Tiễn đi thỉnh Thủy Hoàng. Hải Triều rước vào trại nói: "Bần đạo có lập một
cái trận nơi góc đông nam toan bắt Tôn Tẫn, mời bệ hạ tới xem". Thủy Hoàng rất
mừng hỏi: "Trận ấy kêu là trận chi?". Hải Triều nói: "Bần đạo bày cái trận này, kêu
là Hồng ngươn, cùng các trận chẳng đồng, bao hàm trời đất, sai khiến quỷ thần biến
hóa vô cùng, dời non đổi biển, chẳng luận tiên phàm, hễ vào đó thì hồn phách biến
vạn hóa, làm cho nó phải chết liền trước mắt". Thủy Hoàng nghe nói vui mừng
chẳng xiết, đáp rằng: "Thiệt trẫm rất may, nên có lão tổ phụ giúp". Hải Triều truyền
lệnh đánh trống, các quan văn võ nghe trống kéo vào, lão tổ lấy sổ biên tên giở coi
rồi sai Anh Bố, Bành Việt, Triệu Cao, Chương Hàng, Lý Thiệt, Ngụy Báo dẫn ba
mươi tên quân tới đài nhơn vức trấn giữ, còn chúng ngươi sáu người đều ở dưới đài,
cầm cây mà cày sáu gò đất ấy, mỗi người lãnh một đạo bùa, hễ thấy tướng Yên vào
trận thì đốt bùa lên tự nhiên người giặc đều xuống ngựa chịu trói chớ nên ra đánh,
sáu tướng vâng lịnh kéo binh ra đi.
Lão tổ vòng tay nói với Thủy Hoàng rằng: "Xin phiền bệ hạ dẫncác quan văn võ
lên đài nhơn vức, vào trướng huỳnh la, bên tả có Cam La, bên hữu có Mông Điềm,
hai bên bảo hộ. Bệ hạ dẫu cho bao nhiêu tướng mạnh vô địch cũng tự nhiên té
xuống ngựa". Thủy Hoàng lãnh bùa dẫn văn võ tới nhơn vức, vào huỳnh la, chớ làm
các việc. Lão tổ điều khiễn xong rồi, dạy Ngân liên Tử dẫn thanh mao khổng tới
trước. Lão tổ thót lên, Liên Tử cỡi nai theo sau vào trận, tới trước pháp đài. Lão tổ
nói: "Chúng ngươi hãy đứng đây chờ đợi, chẳng đặng lên đài". Dặn rồi một mình
tuốt lên đài thiên môn lấy cờ nhựt lệnh, viết ba chữ yểm quan phù, dạy hai tên quân
cầm cờ, hễ tướng giặc vào trận, nghe ngũ lôi nổ, liền phất cờ lên, tức thì trời đất tối
tăm chẳng đặng trái lệnh, lão tổ lấy cờ mao đầu viết tiết mạng phù, và hai mươi bốn
cây cờ ngũ hành, viết hỗn nguyên phù, dạy quân cầm cờ hễ nghe sấm nổ, thì hươi
phất chẳng nên chậm trễ, rồi lấy năm cái trống lớn, viết năm chữ tốc chấn như luật
lệnh, dạy năm quân coi giữ, hễ người giặc vào trận, thì nổi trống lên, tự nhiên sấm
dậy, lão tổ lấy một cái lệnh bài, tay tả cầm lệnh bài, tay hửu cầm gươm miệng niệm
chú, chỉ gõ lệnh bài ta biếng nạt rằng: "Phổ thiên tinh thần cấp cấp như lệnh". (vốn
lão tổ này sai thần khiển tướng chẳng phải như các vị tiên khác đâu, người là tiên
thiên, lão tổ có vị thần nào mà chẳng tuân phục người sai khiến). Tức thì mây vần
sấm nổ, giữa trời gươm đao sáng giới, các thiên thần rần rộ bay xuống, xem thấy
thanh long, châu tước, bạch hổ, huyền võ, nhịp thập bát tú, cửu diện vương xuống
đài cúi mình ra mắt. Lão tổ vòng tay nói: "Nay tôi có bày một cái trận, xin cậy oai
sức tinh thần bắt cho đặng Tôn Tẫn, chớ cho chạy thoát, nếu trái lệnh thì ta biếm
trách chẳng dung". Chư thần vâng mạng chia nhau, cứ theo phương hướng trấn giữ.
Lão tổ bước xuống thiên môn qua đài phía bắc lấy bảy mươi cây cờ dạy bảy
mươi hai tên quan đầu bỏ tóc xõa, tay cầm cờ hễ có tướng giặc vào trận thì phất cờ
lênthâu hồn phách nódẫn đem vào hầm chẳng qua ba gày dẫu tiên phàm cũng phải
chết. Lão tổ rút gươm chỉ xuống đất gõ ba tiếng lệnh bài nạt rằng: "Tứ minh địa phủ
cấp cấp như luật lệnh". Nói chưa dứt lời, thấy tiêu diện quỷ vương đầu trâu mặt ngựa
năm đạo thần quỷ vô thường dẫn năm trăm âm binh, tới trước ra mắt. Lão tổ nói:
"Nay tôi có lập trận Hồng nguyên, xin cậy chúng vị địa phủ thần kỳ bắt sống tướng
giặc mà lùa đem vào hầm, chẳng cho chạy thoát". Chư thần vâng lệnh, dẫn âm binh
phân nhau đứng xung quanh hầm chờ giặc.
Nói về lão tổ bước xuống hầm địa hộ tay tả cầm gươm, tay hữu cầm lệnh bài, ở
giữa hầm phân bố tám cửa, Hưu,Sanh, Thượn, Đồ, Kiểng, Tử, Kinh, Khai, và Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khốn, Đoài, biến hóa thần thông, tức thì nơi đài thiên
môn hào quang chói sáng, đài nhơn trên mây đỏ phù giăng mười phần lợi hại, lão tổ
làm phép xong rồi trở vào lư bằng, dạy Vương Tiễn dẫn hai ngàn năm trăm binh,
chia làm năm đội sắc khôi giáp, dùng cờ kim mộc thủy hỏa thổ phân ngôi thứ theo
ngũ hành đóng bốn phía, ngoài trận, phất cờ la hét trợ oai. Vương Tiễn lãnh mạng ra
đi, lão tổ dạy Ngân liên Tử đem hột định hải châu này đứng trên đài địa hễ có tướng
giặc bay lên thì đánh cho rớt xuống hầm.
Ngân liên Tử tiếp bửu bối ra trận, giây phút Vương Tiễn trở về phục lệnh, Hải
Triều dạy tới dinh Yên khiêu chiến, còn mình thì cầm gươm thót lên mao không đi
chậm chậm ra trước cửa dinh. Vương Tiễn giục ngựa chạy tới dinh Yên khiêu chiến.
Quan vào phi báo, tôn Tẫn xách gậy lên trâu các tướng toàn sơn và vợ chồng
TônYên phát pháo ra binh. Vương Tiễn đang khiêu chiến, xảy nghe pháo nổ, xem
thấy Tôn Tẫn xông ra, vội vàng quày ngựa chạy về bẩm cùng lão tổ. Lão tổ giục
mao khổng tới trước, tôn Tẫn dừng trâu cười nói: "Tôi chào lão tổ, hôm nay lão tổ
dạy tôi ra trận có phải là muốn cùng tôi giao chiến chăng? Tôi xin nói trước hễ ra
trận chẳng nhường cha, giao chiến không vị tình". Hải Triều hươi gươm nạt rằng:
"Thằng Cụt, my ỷ ba cuốn thiên thơ kỳ môn độn giáp, sao dám trước mắt ta khua
môi múa lưỡi, tài mi ta đã biết rồi, tài ta ngươi cũng rõ được, nay ta có bày một trận
bên góc đông nam, như mi phá đặng trận ấy, thì ta liền về núi, xin Thủy Hoàng rút
binh, còn như ngươi phá không được thì phải trở về thiên Thai, dạy Chiêu Vương nạp
biểu xưng thần". Tôn Tẫn nghe rồi cười nói: "Lão tổ đã biết bày trận tôi tổ quày mao
khổng lấy tay chỉ, đi thẳng vào trong trận, Tôn Tẫn dừng trâu, đứng xem thất kinh
nói: "Rất lợi hại cho lão già này bày tận toan muốn dứt tình đồng đạo, trận này
chẳng những là người phàm vào không được mà thôi, dẫu đại la thiên tiên đi nữa,
cũng chẳng dám khinh dễ, song mình biết phép ngũ đôn che giấu sao bổn mạng ắt
không hại gì, song phải xu kiết tị hung, không nên vào trong lưới rập, vốn là trận
thiên địa tam tài hỗn ngươn nhất khí, trong ấy có mưu quỷ chước thần và phép di sơn
đải hải, ấy là phép tiên thiên mầu diệu làm sao mà phá nổi". Đang suy nghĩ chưa rồi,
Lão tổ xông ra nạt rằng: "Tôn Tẫn! Ngươi coi có hết trận ta chưa?". Tôn Tẫn cười và
nói: "Coi hết rồi". Lão tổ hỏi: "Ngươi biết tên rận ấy chăng?". Tôn Tẫn nói: "Vốn là
tam tài nhất khí hỗn ngươn trận, chớ có chi lạ mà hỏi". Lão tổ thất kinh nói thầm
rằng: "Thằng Cụt quả nhiên uẩn diệu rõ biết huyền cơ?". Rồi hỏi: "Ngươi biết tên
trận mà dám phá chăng?". Tôn Tẫn nói: "Hễ có bày thì có phá, nào khó chi đâu, nay
coi trận rồi xin trở về tính kỹ trong ba ngày đến phá". Lão tổ nói: "Ta hạn cho ba
ngày coi ngươi có tài chi mà phá đặng". Nói rồi ai về dinh nấy. Tôn Tẫn về đến đại
trướng, Mao Toại hỏi: "Tam ca, hôm nay coi trận thế nào?". Tôn Tẫn ủ mặt châu
mày đáp rằng: "Trận ấy mười phần dữ tợn, không phải như các trận khác đâu, trong
có tam tài, ngoài có bát môn nao hàm trời đất biến hóa vô cùng, không yêu thuật tà
phép mà dễ phá được, tôi e phải thông minh lanh lợi, lẽ nào không rõ biết đạo tử
sanh, hễ là xưa nay sống thác có mạng, giàu sang bởi trời, nếu quả tới số chết dầu
cho trốn ở trong nhà cũng không khỏi được, nếu mạng số chưa tuyệt dầu ó việc chi
đại hung, đại hiểm, ại họa, đại tai đi nữa lại sợ gì, vậy chớ anh có nhớ cái trận địa
liệt, trận âm hồn, trận tru tiên, ba trận ấy lợi hại dường ào, còn cái tản thiên tiễn lại
vừa gì, cũng qua khỏi được hay, nay sá chi Cái trận hỗn ngươn mà phải run lên phát
rén như vậy?".
Tôn Tẫn nói: "Hiền đệ phân tuy nhằm lý, ai ai cũng muốn xu kiết tị hung, người
bày trận ra lẽ nào mình có con mắt mà chun vào cho chết sao, để chậm rãi liệu toan
tự nhiên có chước phá được". Nói rồi trở vào hậu trướng, Mao Toại nghĩ thầm rằng:
"Lão cụt này chẳng khác chim kia bị bá, thấy vậy liền bay, chẳng luận là trận lớn
nhỏ chi, hễ thấy thì kinh hồn hoảng vía, chi bằng ta lén ra trận đánh với Hải Triều
một chuyến thử coi, vả lại từ khi xuống núi đến nay, cứ làm tên ăn trộm mà đi lấy đồ
cho người, chớ chưa từng giao chiến trận nào, nay cái trận này tam ca lại sợ không
dám phá, vây mình tới đó thoảng như thành công được, thì càng thêm rỡ tiếng, nếu
không thành công được thì mình vào trận coi hư thiệt đường sá thế nào, về nói lại
cho tam ca biết, cũng là một cái công của mình đó, còn như có rủi mà bị bắt thì mình
dùng phép ngũ độn, tam thuật, nó cũng không làm chi mình được". Tính rồi bước
xuống thanh sa sửa soạn ra sợ, tướng chẳng kiêng, vả trong trận nó tinh những thiên
thần, thiên tướng có ai mà sợ mình, nếu để tướng mình như vầy mà tới đó ắt phải bị
sát hại đi chăng, nghĩ lại tam ca ta là một vị tuần thiên đô úy của ngọc đế, Liễu nhứt
chơn nhơn, trrên quản ba mươi ba từng trời, dưới coi mười tám từng u mình địa phủ,
có ai mà không sợ người, thể diện người oai phong rất lớn, chi bằng ta biến hình
dạng người mà đi, thì ắt thành công đặng". Mao Toại về trướng miệng niệm chơn
ngôn, rùng mình biến thành Tôn Tẫn hình dung chẳng khác, đầu đội mão tam sa,
mình mặc áo đậu thanh bào, chân đi giày da cá, lưng cột dây đai, mặt như trăng rằ,
m, năm chòm rau xanh kịt. Mao Toại nghĩ rằng: "Hình dung biến đặng, chân cụt
thiệt khó làm". Rồi lấy hai cây củi đòn, miệng thổi tiên khí, tức thì biến gậy trầm
hương, còn hai cây bửu kiếm, thì hóa ra gươm thư hùng và lấy một tờ giấy vàng thổi
lên biến ra cờ hạnh huỳnh, các vật đều biến xong xuôi, còn thiếu con trâu, vật ấy
thiệt nên khó biến, nếu ta đi chân vào trận, e người coi kỹ thấu biết cơ mưu, ắt là
mang khốn, bèn nghĩ thầm rằng: "Con trâu còn ở ngoài trướng, nay ta đã giả mạo
tam ca, sao chẳng bắt lén con trâu của người, mà cỡi cho luôn thể". Mao Toại nghĩ
rồi tuốt lên đến ngoài trướng, thấy quân sĩ giữ trâu đang cho ăn cỏ, quân sĩ thấy Tôn
Tẫn tới, lật đật quỳ xuống nghinh tiếp, Mao Toại dạy thắng trâu cho mau, đặng ra
trận, quân sĩ chẳng dám chậm trễ, dinh quân giữ cửa quỳ xuống hỏi rằng: "Vương
gia đi đâu vậy? '. Mao Toại nói: "Ta đến phá trận". Quân nói với nhau rằng: "Thôi
chúng ta đi phất cờ gióng trống cho mau". Mao Toại khoát tay nói: "Ta đi một mình
chẳng cần dùng vật chi cả". Quân sĩ mở hoắc cửa dinh. Mao Toại ra cửa chạy dông
như bay, quân sĩ trong lòng hồ nghi nói với nhau rằng: "Vì cớ sao nay Nam Quận
vương ra trận tên quân, một con ngựa và cũng chẳng đem theo, lại không dùng người
lược trận". Còn đang hồ nghi xảy thấy Triển Lực, Triển Ngai, Ngô Năng, ba người
đi ngang cửa dinh, quân sĩ bẩm nói: "Khi nãy có Vương gia đơn thân độc mã, ra dinh
phá trận". Ba người nghe nói thất knh nói: "Nếu đánh trận sao chẳng dùng nhơn mã,
nay mình theo như có sơ sẩy điều gì, mình làm học trò chẳng là vô ích lắm, vậy mau
theo dõi lão gia, ngõ đặng gia công phụ đáp". Ba người lòng son dạ sắt, không tưởng
giả thiệt, vội vàng đề đao lên ngựa ra dinh, chạy theo như gió. Mao Toại đang đi
nghe tiếng ngựa reo vang, quay lại thấy ba con ngựa rượt theo. Mao Toại biết là
Triển Lực, Triển Ngai, Ngô Năng thì hỏi rằng: "Chúng ngươi tới đây làm chi?". Ba
người học trò chạy tới trước bẩm rằng: "Chúng tôi theo thầy phá trận". Mao Toại
nói: "Hiền đồ đã đến đây, thôi hãy theo ta". Nói rồi giục trâu tới trận, xem thấy mây
đỏ xoay vần, hào quang chói mắt, phía tả có lằn hắc khí xông lên.
Mao Toại nghĩ thầm: "Sao kêu rằng hỗn ngươn trận, mà Tôn Tẫn sợ lắm vậy,
tưởng chắc trong này có biến hóa lợi hại chớ chẳng không, ta đã tới đây lỡi rồi,
không lẽ trở về". Ngầm nghĩ một hồi, quay lại hỏi ba tướng rằng: "Có tên học trò
nào dám tới khiêu chiến chăng?". Triển Lực xin đi, liền xốc tới kêu lớn rằng: "Quân
nhơn mau vào báo cho chúa tướng bây biết, nói hay có Nam Quận vương đến phá
trận". Quân vào báo cho Vương Tiễn, Vương Tiễn vào bẩm cùng Hải Triều. Hải
Triều dạy Vương Tiễn rằng: "Ngươi ra dẫn thằng Cụt cho nó vào trận". Vương Tiễn
lãnh mạng xông ra ngoài trận, thấy Tôn Tẫn cầmgậy cỡi trâu, có ba tên học trò theo
sau, thì nạt rằng: "Thằng Cụt, mi đôi ba phen lượt khỏi chết là may, nay lại đến
muốn nạp mình sao? '. Tôn Tẫn giả nạt rằng: "Vương Tiễn, sao dám nói xàm, mi
chạy đâu cho thoát". Nói rồi hươi gậy đánh nhàu, Vương Tiễn cử mâu rước đánh.
Vương Tiễn vốn bị tôn Tẫn đánh nhiều lần, đà thất sắc như gà chạy mặt, đâu dám
chống cự cho lâu, nên đánh chưa đầy vài hiệp, thua chạy vào trận. Tôn Tẫn giả dẫn
ba tướng, ở sau rượt tới đánh đánh vào trong trận, chẳng thấy Vương Tiễn, bốn
phương tám hướng đá quăng cát liệng, sấm nổ vang trời, lửa cháy rầ rần, bốn phía
cứng như tường đồng vách sắt ba tướng kêu thầy mà nói rằng: "Trận này dữ lắm, bốn
phía nước lửa gió ầm ầm chúng ta ra cho mau". Mao Toại nói: "Ra không đặng đâu,
trận này ta coi giống là trận bát quái hồi hoàn đó, chúng ngươi chớ sợ, theo ta mà
đi". Mao Toại ngồi trên lưng trâu, bắt tay ra phép thần thông, nhắm phía tây cung
càn chạy sông như bay, ba tướng theo sau. Mao Toại xem thấy tòa cao đài mây
giăng mù mịt, bên tả có nhựt tinh, bên hữu cờ nguyệt ba, phía trước cò mao đều, phía
sau cờ thất tinh, và cờ nhị thập bát tú, cửu điện tinh quân.
Mao Toại nói: "Không xong, đây là trận thiên môn". Nói rồi phá vào giữa đài,
Hải Triều thấy Tôn Tẫn vào trận, bèn khoát tay, năm tên quân đánh lên, tức thì chớp
giăng sấm nổ, mặt nhựt tối đen cửa trời thần tướg áp lại, làm cho Mao Toại thất kinh
hồn bay ngàn dặm. Ba tướng kêu nói: "Thầy ôi! Mau phất hành huỳnh kỳ ngăn đỡ,
kẻo chết bây giờ". Mao Tọai nghĩ rằng: "Cờ hạnh huỳnh của mình là đồ giả, làm
sao ngăn đỡ cho đặng". Liền nói: "Không nhằm chỗ dùng, phải chạy xong hơn". Lúc
ấy thiên thần thiên tướng vây bịt bùng, giữa trời sấm dậy vang tai, xảy thấy cờ thất
tinh nam đẩu, thảy đều xao động. Mao Toại thất kinh dẫn ba tướng xông ra cửa thiên
môn, vốn Ngô Năng mạng số hết rồi, nên gặp phướng nhiếp hồn phất lên, té nhào
xuống ngựa, hôn mê bất tỉnh chết tươi giữa trận. Mao Toại qua khỏi cửa thiên môn
chẳng thấy Ngộ Năng, torng kinh sợ nói: "Người không theo ta chắc là bị chết trong
trận rồi, trận này rất lợi hại phải phá cho mau". Triển Lực nói: "Bốn phía đều khí tối
mịt mù, có đường đâu mà ra cho đặng". Mao Toại nói: "Để ta coi đã". Vốn con mắt
người tiên xem cho rõ, thấy có tòa pháp đài hào quang chiếu sáng, Thủy Hoàng ngồi
giữa, hai bên văn võ đứng hầu. Mao Toại nói: "đây này Tần Thủy Hoàng ở, không
có âm binh thần tướng chi cả, ta mau phá chỗ đó mà ra". Nói rồi Mao Toại dẫn hai
tướng xông tới, thấy sáu viên đại tướng chạy ra không giao chiến, cứ trước đài cày
đất mà thôi. Triển Lực nói: "Cày đất này làm chi, hay là nó mốnlấp đường mình đi
chăng". Triển Ngai nói: "Chớ hỏi đến việc người, phải mau chạy ra khỏi, chỗ này
không có thần tướng, bất quá Thủy Hoàng ngồi trên đài, chúng ta cỡi ngựa xông dễ
lắm". Lúc ấy vua tôi nhà Tần thấy ba người chạy tới trước đài, nhìn biết Tôn Tẫn.
Thủy Hoàng truyền đốt linh phù, chớ để thằng Cụt chạy thoát. Cam La lật đật đốt
bùa, xảy nghe giữa trời sấm nổ rền tai, bọn Triều Cao sáu người nghe tiếng sấm dậy,
liền đốt linh phù, tức thì bốn phía binh mã kéo tới đây đầy, Triển Lực bị sấm sét
đánh nhằm té nhào xuống ngựa, chúng tướng áp lại bắt trói khai đao.
Mao Toại thấy Triển Lực té xuống ngựa, chẳng dám tới cứu mãi lo xông pha tìm
đường mà ra. Triển Ngai nói: "Thầy ôi! Bốn phương tám hướng đều những gió lửa
nước sấm, núi cao muôn trượng, cây lớn sum suê, dày như vách sắt, biết chạy đường
nào bây giờ". Mao Toại xem thấy quả thiêt hung dữ, duy phía bắc tối đen như mực,
mà không sấm sét nước lửa chi cả, ngặt có núi cao ngăn cản. Mao Toại nói với Triển
Ngai rằng: "Ta phải ra chỗ mày mới đặng". Liền giục thanh ngưu nhắm phía bắc
chạy tới, xảy thấy một tòa cao đài, âm phong thăm thẳm, sát khí đằng đằng, mây
đen mù mịt chẳng khác âm ty địa phủ, cách mặt không thấy hình, giơ tay chẳng thấy
ngón, Triển Ngai nói: "Trời tối lắm, tìm đường chạy ra cho chóng". Mao Toại hỏi:
"Chạy ngả nào bây giờ, ta cũng không thấy đặng". Triển Ngai nói: "Lạ cho thầy, có
ba cuốn thiên thơ, lục giáp linh văn, lưng giắt hạnh huỳnh kỳ, sao không lấy ra mà
phất". Mao Toại nói: "Cờ này thiệt không dùng đặng, ta chẳng giấu chi ngươi, ta
không phải thầy của ngươi đâu, vốn là Kim nhãn Mao Toại đây". Triển Ngai nói:
"Thầy có chối mấy đi nữa tôi cũng không tin, vốn Mao sư bề cao ba thước, đầu beo
đít chuột, tôi dễ chẳng biết sao mà thầy lại gạt tôi". Mao Toại giận nói: "Đồ nghiệt
chướng, sao dám mắng ta, ta thiệt không phải thầy ngươi, vốn là Mao Toại biến ra
đó, còn con trâu này ăn cắp của thầy mi, cờ hạnh huỳnh kỳ, gậy trầm hương, vốn là
đồ giả, ta muốn phá giùm trận cho thầy ngươi, không dè bị khốn như vầy". Triển
Ngai nghe rồi thất kinh nói: "Nếu vậy thì ba anh em ta, đều bị hại mà chết hết".