Đó là sáu năm về trước, nhưng không những không bỏ cuộc, mà giờ bà còn có thể trở thành một trong những người ngoại quốc đầu tiên được đề cử làm trụ trì của một chùa Phật giáo Nhật: đó là chùa Daifukuji ở Koryo, cách Tokyo khoảng 230 dặm. Nhưng những chướng ngại mà bà phải vượt qua để thể hiện được nghiệp của mình có thể khiến những rào cản thương mại mà các doanh nghiệp phương Tây ta thán dường như quá nhỏ mọn…
Susan Noble, 36, sinh trưởng ở Oregon, Mỹ. Cô tu tập theo Thiền Phật giáo cho đến khi biết về hệ phái Shingon, mà cô cho là ít kén chọn và cởi mở đối với người bình thường hơn.
Hệ phái Shingon được thiết lập do một tu sĩ người Nhật, Kobo Daishi, vào thế kỷ thứ 9, sau một chuyến viễn du đến Trung Quốc. Hệ phái Shingon chủ yếu dựa trên việc tụng niệm và các nghi thức khác ở tu viện, hơn là phong cách ẩn dật, tĩnh lặng như bên Thiền tông.
Trong khoảng một trăm năm trở lại đây, các nữ tu bắt đầu được thọ giới chính thức và được tu học ở Mt.Koya. Ni chúng cũng phải giữ đủ các giới như bên Tăng.
Ở ni viện Mt.Koya, các nữ tu phải tự học, dưới sự hướng dẫn của vị trụ trì. Tuy nhiên, cũng có thời gian ngắn, họ được rèn luyện chung với các Tăng ở Viện Đào Tạo Tăng, là nơi được thành lập rất sớm. Giờ thì Ni viện có thể đón nhận khoảng 16 Ni sinh hàng năm đến tu học trong một cơ sở khang trang.
Người ngoại quốc đến Nhật để tu học Phật pháp thường được giới thiệu đến các thiền viện nơi có thể thỏa mãn các yêu cầu cá biệt của họ. Họ có thể tham gia các khóa tu thiền chuyên sâu ở các thiền viện mà không cần phải biết tiếng Nhật. Tuy nhiên, theo truyền thống của dòng Shington, thiền sinh bắt buộc phải đọc được các kinh bằng chữ Hán cũng như tiếng Sanskrit. Dầu đã có các Tăng người Tây Phương đến tu tập ở đây, tôi là người phụ nữ Tây Phương đầu tiên được thọ giới theo truyền thống của Shington, và cũng là người phụ nữ đầu tiên đã bước vào các chùa đào tạo Tăng hay Ni ở trên ngọn núi Mt.Koya. Khi tôi bắt đầu đến đây tu học, giới báo chí, truyền thanh đặc biệt chú trọng đến sự kiện này. Và điều đó đã mang đến cho tôi nhiều phiền toái ở thời điểm đó. Nhưng giờ nghĩ lại, tôi thầm cảm ơn họ, vì nhờ đó mà chúng tôi có các tài liệu quý báu về sự huấn luyện cổ xưa trong dòng Shington, và có thể sử dụng chúng để giới thiệu với tất cả những ai muốn muốn tìm hiểu về Shington.
Cảnh quan thiên nhiên của núi Mt.Koya hoàn toàn khác biệt. Trên cao thường có các chấn động khác thường, vì đó là một trong những nơi được coi là thánh địa ở Nhật. Theo truyền thống Phật giáo ở Á Đông, các ngọn núi thiêng với những năng lượng đặc biệt và các mỏ nam châm thường được dành làm nơi thờ phụng các đấng thần linh. Tôi được biết là các phi cơ không bay qua vùng núi Mt.Koya vì các chấn động trên núi làm ảnh hưởng đến hệ thống radar của phi cơ. Tôi rất hãnh diện được phép tu tập ở đó, dầu trường hợp của tôi có thể nói cũng chỉ là một trường hợp thử nghiệm, tôi vẫn thấy phải cố gắng hết sức mình. Tôi đã phải hứa là sẽ tuân theo mọi giới luật nghiêm túc, không có trường hợp ngoại lệ, dầu tôi không phải là người Nhật. Với những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ mà tôi phải đương đầu hàng ngày, đây quả là một thử thách lớn, nhưng ước muốn được trở thành một đạo sư (priest) theo truyền thống Shington là niềm mong ước lớn nhất của đời tôi. Kinh nghiệm tu tập ở đây dầu thật quý báo, nhưng xét về nhiều mặt, cũng gây nhiều trở ngại cho tôi.
Người ta thường lãng mạn hóa về cuộc sống trong một thiền viện tráng lệ trên một ngọn núi huyền bí, những giá trị tinh thần thực sự nằm trong liên hệ giao tiếp căng thẳng của cuộc sống chung đụng với mười lăm người phụ nữ khác.
Sự tu tập theo truyền thống Shington bắt đầu bằng nghi lễ xuất gia cho các cư sĩ: qua đó chúng tôi bắt đầu xuống tóc, nhận y áo, và thọ 10 giới luật. Khóa thứ nhất và thứ ba dành cho việc học các nghi thức lễ bái căn bản, tụng niệm các kinh mỗi sáng, chiều cũng như chuyên sâu vào các môn học. Chúng tôi học cách mặc y, cách ngồi, cách tụng, cách sống theo các điều lệ trong những tu viện Phật giáo Nhật Bản.
Khóa tu thứ hai bắt đầu khi chúng tôi thực hành các nghi lễ trang nghiêm trong hành thiền gọi là bốn giai đoạn chuẩn bị cho sự tu tập giải thoát. Đây là thử thách cam go của truyền thống Shington: một trăm ngày tu chuyên sâu về nghi thức gọi là “nghi quĩ” (Sadhana) thường được dùng trong Kim Cương thừa, gồm các bài chú về những phép tu thiền định đặc biệt (1). Phải thực hành viên mãn các nghi thức này rồi mới được truyền thừa Pháp, được coi như đã bước vào thứ bậc đầu tiên trong hàng giáo phẩm, và được thọ giới Tỳ kheo. Những thứ bậc cao hơn chỉ có thể đạt được sau nhiều năm học hỏi, thực hành chuyên sâu.
Bốn giai đoạn chuẩn bị cho sự tu tập giải thoát này được coi là rất cam go. Đó là quá trình thanh tịnh hóa thân tâm, cũng như quyết định xem người tu sĩ có căn duyên gắn bó với truyền thống Shington không. Nhiều giờ liên tục ngồi thiền khiến bao nhiêu vọng tưởng khởi dậy, phải đối mặt với sai lầm ta đã phạm phải trong quá khứ.
Chúng tôi thường thức dậy từ 2 giờ sáng và thực hành Nghi Quỹ từ 12 đến 15 tiếng mỗi ngày. Ngồi thiền trên gót chân theo lối của người Nhật trên mặt sàn gỗ cứng, chỉ được trải một lớp chiếu mỏng, đối với các bạn đồng tu người Nhật cũng đã khổ thân, huống gì là tôi. Phải chú tâm quyết liệt trong các nghi thức và thiền định theo nghi quĩ là một thử thách cam go về tâm đối với mọi người. Rồi lại còn những câu hỏi cứ khởi lên: “Không biết mình có qua được thử thách này không?” Trong 16 phụ nữ tham gia khóa tu lúc bắt đầu, đậu lại chỉ còn 11.
Theo chương trình tu tập, chúng tôi còn phải dự một cuộc hành hương chiêm bái cả ngàn cây số để viếng 88 ngôi chùa trên đảo Shikoku. Phải mất hơn 2 tháng nếu đi bộ, nhưng chúng tôi tổ chức đi bằng xe buýt với sự tham gia của các cư sĩ khắp mọi miền trên đất Nhật. Một chuyến đi giàu ấn tượng và rất cảm động, vì phần đông các Phật tử tham gia đã lớn tuổi, và đây là chuyến đi mà họ hằng ấp ủ suốt cuộc đời. Cuối chuyến đi ai cũng rơi lệ vì cảm xúc. Riêng tôi, lòng chánh tín của họ đã khích lệ tôi thêm tinh tấn, và cuộc hành hương để lại những kỷ niệm đáng nhớ trong quá trình tu tập của tôi. Căn duyên sâu xa nào đó đã mang tôi, một phụ nữ Mỹ, đến với nhóm phụ nữ Nhật hoàn toàn xa lạ. Thật là một kinh nghiệm hữu ích cho tôi và cả họ. Khiến chúng tôi phải nhìn lại mình, xét lại bao thành kiến sẵn có, để thay đổi bao cách nhìn, cách nghĩ của chúng tôi.
Chính phụ nữ là những người đầu tiên mang Phật giáo đến Nhật. Sự kiện này dù không được ghi trong sách vở, nhưng hầu như ai cũng biết. Vào khoảng 552 Tây lịch, có 3 phụ nữ Nhật gốc Triều Tiên đã từ Nhật trở về bán đảo Triều Tiên. Họ xuất gia ở đó rồi trở về dựng lên ngôi chùa Phật giáo đầu tiên trên đất Nhật, dưới sự bảo trợ của một gia đình quý tộc.
Khi Phật giáo được truyền từ Ấn Độ, về phía Bắc vào các nước như Trung Hoa, Triều Tiên rồi đến Nhật Bản, có nhiều quan điểm khác nhau về cách giữ các giới luật. Ngay như ở Ấn Độ, không lâu trước khi viên tịch, Đức Phật đã tuyên bố một số giới luật không quan trọng có thể được sửa đổi. Nhưng rõ ràng là ở Nhật, đã có rất nhiều thay đổi táo bạo.
Một bước ngoặt quan trọng về sự thay đổi các giới luật trong quá trình phát triển Phật giáo ở Nhật Bản do lão sư Saicho thuộc phái Tào Động khởi xướng. Saicho đã viết về các giới luật và cho rằng việc phải tuân theo 250 giới luật đã được tạo hình ở Ấn Độ là không thích hợp với người Nhật. Lý giải của Ngài không trái ngược với những lời dạy cuối cùng của Đức Phật cũng như đạo đức văn hóa của Nhật Bản, nên đã dẫn đến sự hình thành của các giới luật bố tát như đã được đề ra trong thời đại Heian (781-1191) trong dòng Tào Động và Chân Ngôn tông.
Vào năm 1224, Ngài Shinran, người đã sáng tạo ra Jodo Shinshu, một tông phái cho rằng phải hòa hợp giữa đạo và đời. Có nghĩa là không có sự khác biệt giữa đạo và đời. Do đó ông công khai lâp gia đình với một sư cô. Đó là một việc làm không được chấp nhận thời điểm đó. Từ đó mới có việc người tu sĩ vẫn lập gia đình. Và sau này hầu như các tôn giáo phái ỏ Nhật không còn giữ giới độc thân. Với cách giữ giới luật như thế của Phật giáo Nhật Bản dẫn đến các mâu thuẫn với các truyền thống Phật giáo khác, vì chúng quá khác biệt với những giới luật xuất phát từ Ấn Độ.
Cũng có lúc Phật giáo bị đàn áp ở Nhật Bản. Đó là lúc Hoàng đế Meiji ra sắc lệnh vào năm 1872 cho phép các tu sĩ Phật giáo ăn thịt, lập gia đình một cách chính thức, để tóc, giữ tên dòng họ và bãi bỏ truyền thống đi khất thực. Vào năm 1865 ở Nhật có hơn nửa triệu Tăng Ni. Năm năm sau con số đó chỉ còn lại 77.000. Chùa chiền bị đóng cửa, thường xuyên bị lục soát, kiểm tra và rất nhiều hình thức tôn giáo quan trọng bị sửa đổi. Việc nới lỏng giới luật là một phương cách hết sức khôn khéo nhằm đánh đổ sức mạnh của Giáo hội. Vì sự thay đổi đó, đa số Tăng Ni không thể tiếp tục cuộc sống ở tu viện, vì thế họ trở về đời sống thế tục. Khi giai đoạn đàn áp đã được xóa bỏ, nhiều chùa chiền lại được mở cửa. Các tu sĩ, thay vì từ bỏ vợ con, lại mang vợ con họ trở lại chùa. Do đó họ đã lập ra tiền tệ cho Phật giáo ở xã hội Nhật Bản sau này. Phần đông các chùa ở Nhật Bản, chính yếu là do cha truyền con nối.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển Ngữ theo Monastic Life, Woman & Buddhism, NXB Wisdom)