Phương cách chính của Sid trong việc truyền đạt Phật giáo là áp dụng những giáo lý cốt lõi của Phật giáo vào các môi trường làm việc ở Mỹ. Từ năm 2001, Sid đã viết tám quyển sách về kinh doanh dựa trên quan điểm của một người Phật tử và chia sẻ các tư tưởng Phật giáo mà không cần phải nhắc đến Phật giáo, về các đề tài như phối hợp lãnh đạo và cách giải quyết các vấn đề.
-Kinh doanh/thương mại có những vấn đề và thách thức gì?
-Giáo lý và phương cách thực hành nào của Phật giáo có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp –và doanh nhân trong đời sống kinh doanh- giải quyết các vấn đề và đối phó với các thách thức?
-Các giải pháp của Phật giáo tương ưng thế nào với các quan điểm kinh doanh hiện hành?
-Phật giáo có thể mang các phẩm chất độc đáo nào đến cho những thách thức trong một đời sống kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, có ích lợi cho xã hội?
Đây là những vấn đề mà tôi quan tâm với tư cách là một Phật tử, đồng thời cũng là một doanh nhân trong suốt mười lăm năm qua.
Phật giáo, đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc và một cuộc sống hòa thuận trong chính kiếp sống này, có rất nhiều điều có thể cống hiến cho thế giới doanh nghiệp ngày nay, một thế giới đầy khó khăn và rối rắm. Định nghĩa
hiện đại của cá nhân tôi về phương cách thực hành Phật giáo, dựa trên sự nghiên cứu để tìm những nối kết chung trong 2600 năm của Phật giáo toàn cầu, là sống trong tỉnh thức và tự tại, là cho phép tình thương yêu và trí tuệ chảy tràn trong tôi, vươn đến những nỗi đau và niềm vui của cả thế giới, đưa đến sự hàn gắn và phát triển đầy sáng tạo. Khi tư vấn hay khi dạy về doanh thương, tôi không sử dụng các ngôn ngữ của Phật giáo như thế này. Nhưng tôi nhận thấy là có nhiều doanh nhân rất muốn và có thể huân tập sự tỉnh thức và tự tại. Doanh nhân cũng muốn giải quyết các vấn đề, giống như ta muốn diệt bỏ khổ đau. Khi cùng nhau thực hành như thế, chúng ta sẽ thay đổi được cách ta sống trong đời sống kinh doanh, tạo được một không gian sống bớt những khổ đau, và thêm niềm vui.
Khổ Diệt là cốt lõi của những lời dạy đầu tiên của Đức Phật trong Tứ Diệu Đế. Những lời dạy này hay kinh này được sắp xếp như một toa thuốc. Đầu tiên giáo lý đó nêu lên tất cả các bệnh trạng, các rối loạn –tất cả những khổ đau- chứ không chỉ một loại bệnh nào. Tứ diệu đế nói rằng khổ có mặt ở khắp mọi nơi, rằng nó có căn do, rằng nó có thể được chữa trị, và rằng có phương thuốc chữa trị nằm trong sự thực hành tỉnh thức và tự tại.
Khổ trong doanh nghiệp là như thế nào? Xin thưa người làm kinh doanh cũng khổ đau giống như mọi người khác. Sau đây là một vài thí dụ:
-Kinh doanh thất bại; người ta phải chết.
-Một số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, làm tổn hao thời giờ và tiền bạc; một số người phải mắc bệnh.
-Một số môi trường kinh doanh đầy mâu thuẫn; một số người và gia đình cũng thế.
-Doanh nghiệp thường có những sản phẩm hay dịch vụ tuyệt vời, nhưng không sản xuất ra được trên thị trường; người ta cũng thường có những giấc mơ tuyệt vời, nhưng không thể biến chúng thành hiện thực.
Danh sách này có thể dài bất tận. Vài năm gần đây, nền kinh tế Mỹ đã nhìn thấy cái giá của lòng tham trong các hoạt động của những công ty như Enron, Comcast và Adelphia. Tôi đã chứng kiến hệ quả khủng khiếp của lòng sợ hãi đối với các doanh nghiệp –nhất là ở thành phố New York- sau trận khủng bố ngày 11 tháng 9, 2001. Để đối phó với những vấn đề rất nghiêm trọng này, các doanh nghiệp cần có định hướng rõ ràng, cũng như uyển chuyển, thích ứng với hoàn cảnh. Sự tự tại, trầm tĩnh giúp doanh nhân có định hướng và uyển chuyển, giống như khi nó giúp vận động viên.
Giáo lý và phương cách tu tập trong Phật giáo đều có ích trong kinh doanh. Điểm mấu chốt là tất cả chúng ta –doanh nhân hay không- đều ôm ấp các vấn đề của mình, không biết giải quyết chúng. Phương cách của Phật giáo là chánh niệm về các vấn đề này và nói “đây là khổ, và có phương cách chữa trị khổ”. Sau đó chúng ta bắt tay vào việc –với phương cách rõ ràng, có phương hướng và vô hại- để thỏa hiệp các bất đồng, giải quyết các vấn đề và đạt đến mục tiêu. Đó là ngôn ngữ trong kinh doanh. Ngôn từ trong Phật giáo để diễn tả cùng một khái niệm là thực hành chánh niệm và tự tại, thăng bằng (trung đạo) để diệt khổ.
Có một số tư tưởng căn bản trong Phật giáo rất giá trị đối với doanh nghiệp. Chuyển đổi các từ ngữ Phật học này sang ngôn từ dùng trong kinh doanh, thương mại rất ích lợi:
Các trạng thái khổ (các vấn đề, các tranh cãi, và các bất đồng kéo dài). Trong Phật giáo, các vấn đề này được bao gồm trong Thánh Đế Đầu Tiên.
Chúng ta có thể giải quyết các vấn đề, chấm dứt các khổ. Trong Phật giáo, đó là Thánh Đế Thứ Ba.
Có sự liên hệ giữa hành động của chúng ta và hậu quả mà chúng ta phải hứng chịu, khi nói chung về khổ, cũng như trong kinh doanh. Trong Phật giáo, đó gọi là nghiệp. Trong kinh doanh, đó gọi là nguyên nhân và hậu quả, và đó cũng là chìa khóa giúp ta khám phá ra nguyên do để giải quyết vấn đề. Nếu chúng ta thay đổi nguyên nhân, thì vấn đề (khổ) sẽ được giải quyết.
Tỉnh thức trong hành động, ý nghĩ và cảm nhận của mình, sẽ giúp ta thay đổi được chúng. Nhờ đó ta sẽ bớt khổ và đạt được kết quả tốt hơn. Trong Phật giáo, đó là mục tiêu của công phu hành thiền và quán chiếu bản thân.
Việc tôi áp dụng Phật giáo vào doanh nghiệp đã giúp tôi tìm ra được phương cách để chia sẻ các tư tưởng này với doanh nhân. Thí dụ, đây là một số khái niệm phổ biến trong kinh doanh có thể giúp mở ra cánh cửa đưa đến những môi trường làm việc lành mạnh và hiệu quả hơn.
Làm việc theo Nhóm (team work). Chúng ta có thể tập làm việc với nhau, điều đó sẽ mang đến kết quả tốt. Phật giáo đã có 2600 năm kinh nghiệm hình thành các hình thức nhóm có tổ chức, phù hợp với văn hóa địa phương. Từ ngữ để chỉ các nhóm, cộng đồng này trong Phật giáo là Tăng đoàn (Sarigha).
Giảm căng thẳng. Căng thẳng quá gắt gao và xung đột trong những nơi làm việc tạo ra nhiều vấn đề cho cá nhân và cho cả công ty, trong khi có những việc chúng ta có thể tìm ra tiếng nói chung. Lợi ích đầu tiên mà thiền có thể mang đến cho ta là sự thư giãn; kế đến là ý thức về các nguyên do đưa đến căng thẳng, giúp ta phân tích vấn đề, đưa đến một giải pháp hiệu quả.
Hiệu quả của cá nhân và nhóm. Những ai có ý hướng muốn thay đổi để đạt được kết quả sẽ cởi mở hơn trong việc quan sát chính các hành động của mình. Phật giáo, nhất là trong truyền thống thiền, đã có một lịch sử lâu dài trong việc cùng nhau phân tích vấn đề, cùng nhau giải quyết vấn đề, để đạt được các mục đích qua sự lãnh đạo và làm việc trong nhóm một cách hiệu quả.
Tránh một môi trường làm việc có quá nhiều xung đột. Luật pháp cũng như các điều lệ trong các công ty hiện nay nghiêm cấm sự đối xử phân biệt đối với phụ nữ, người thiểu số và các nhóm thuộc những nguồn gốc văn hóa khác biệt. Sự có mặt của một môi trường làm việc có nhiều xung đột hay phân biệt đối xử có thể gây nhiều mất mát, tổn hại cho các doanh nghiệp. Do đó, đã có nhiều công ty bỏ ra kinh phí cho những lớp huấn luyện để thay đổi hành vi của các công nhân. Phật giáo đã có các phương tiện giúp phát triển nhân cách từ 2600 năm trước. Trọng điểm của các lớp huấn luyện đó là sự ý thức về hậu quả của các hành vi của mình đối với tha nhân. Trong ngôn ngữ Phật giáo, đây là hai phương cách tu tập cốt lõi: ý thức về thân, về vị thế và nghiệp.
Đạo đức trong kinh doanh. Tất cả mọi người đều đã chịu ảnh hưởng vì những xì-căng-đan của các doanh nghiệp lớn được phát hiện vào năm 2001. Luật pháp đã phải được chỉnh sửa, và câu hỏi là làm thế nào để thay đổi văn hóa trong doanh thương là một đề tài nóng bỏng hiện nay. Thực hành theo Phật giáo là phương tiện giúp cá nhân cũng như đoàn thể hành động một cách có đạo đức trong cuộc sống cũng như ở các môi trường kinh doanh. Thương trường tạo ra đau khổ, đồng thời cũng chịu khổ. Thí dụ: Khi một công ty dịch vụ không thành công, khách hàng, công nhân, chủ nhân hay những người mua chứng khoán của công ty cũng bị thua lỗ. Khi một doanh nghiệp không được điều hành tốt, người làm việc ở đó không thể thấy thoải mái. Và khi một doanh nghiệp đi sai đường, nó góp phần vào việc làm tăng theo khổ đau trên thế giới. Ứng dụng Phật giáo vào trong doanh thương, theo tôi, là huân tập vung trồng chánh niệm về khổ và vui, về nguyên do của khổ, vui, trong thương trường. Khi những người làm kinh doanh trở nên ý thức về các hành động của mình, cũng như hậu quả của các hành động đó, thì những điều sau đây sẽ trở nên hiển nhiên:
-Doanh nghiệp sẽ thành công
-Doanh nghiệp đem lại lợi ích cho khách hàng
-Môi trường làm việc ở các doanh nghiệp này lành mạnh, thoải mái, tốt đẹp
-Nhận ra được những tiêu cực mà doanh nghiệp có thể mang đến cho mọi người chung quanh, để bắt đầu thay đổi.
Chăm Sóc Bản Thân
Chăm sóc bản thân là điều quan trọng bậc nhất mà tôi thực hiện để chia sẻ phương cách tu tập và các giáo lý rút tỉa từ Phật giáo để áp dụng trong thương trường. Tôi thực hành chánh niệm –đặc biệt là chánh niệm và quán sát- để tôi có thể duy trì chánh niệm cả ngày. Tôi thực hành tự tại, định tĩnh, để tôi không bị xao động, không sa vào các thói quen của tâm trong việc phát khởi bực tức, sân hận, nói lời hằn học, thô lỗ. Tôi cũng không để tâm trạng của người khác ảnh hưởng đến mình, rồi lại truyền sự bực bội đó lên người khác nữa. Nếu tôi duy trì được chánh niệm và định tĩnh, thì Trí tuệ và tâm Từ bi rộng lớn sẽ tự nhiên tràn chảy trong tôi. Dòng chảy đó sẽ hóa giải mọi chướng ngại –đầu tiên là trong bản thân tôi, rồi lan sang người khác. Và như thế là mỗi ngày giáo lý Phật giáo đều được ứng dụng vào thương trường qua thân và tâm của tôi.
Suốt 20 năm qua, tôi đã phát triển sự thực hành nghiêm mật bao gồm hành thiền, quán tứ niệm xứ và thể dục nhịp điệu, tất cả đều được thực hành trong chánh niệm. Chúng ta có thể học tập nghệ thuật tĩnh tọa theo truyền thống Phật giáo. Các thể loại khác như yoga, t’ai chi, và qi gong (khí công), tất cả đều có thể tập tốt hơn với chánh niệm về thân. Những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy rằng cơ bắp sẽ phát triển nhanh nhất khi ta chú tâm đến chúng trong khi luyện tập. Tất cả các thể loại tập luyện này giúp đem tâm đến thân, tập trung tỉnh thức vào ngay đây và ngay giây phút này. Từ đó việc luôn có mặt trong hiện tại sẽ trở thành một thói quen, không chỉ trong khi thực hành, mà suốt ngày, và không chỉ riêng cho bản thân tôi, mà cho tất cả những ai tôi tiếp xúc, phục vụ.
Theo tôi, chỉ có các buổi thực tập nghiêm chỉnh không thì chưa đủ. Để có thể có mặt một cách hiệu quả, có nghĩa là tỉnh thức (là Phật) trong từng giây phút suốt cả ngày. Để vung trồng sự thực hành liên tục tâm Phật, tôi gom cả ba yếu tố:
-Thực hành bài bản, như đã trình bày ở trên.
-Những sự gián đoạn, như dừng lại và thở mỗi khi tôi thay đổi việc đang làm, mỗi khi tôi nhìn thấy người mới đến, hay mỗi khi tôi dùng điện thoại.
-Sự thực hành ‘ngẫu hứng’, không chính thức, như là thực tập chánh niệm khi viết, khi soạn thư hay suy tư về một vấn đề.
Cần phải nói thêm về những sự gián đoạn, vì chúng mang đến lợi ích lớn lao mà không cần nhiều công sức. Tôi thích sử dụng mọi gián đoạn hay sự thay đổi môi trường như là một cách để dừng lại, quán thân, rồi thở vào, thở ra.
Thí dụ, nếu tôi sắp mở một cánh cửa, tôi sẽ dừng lại và thở. (Thử nghĩ xem bạn sẽ có bao nhiêu cơ hội để thư giãn khi đi từ chỗ gửi xe đến văn phòng làm việc). Nếu điện thoại reo, tôi sẽ dừng lại và thở. Nếu có ai bước vào văn phòng, tôi sẽ dừng lại và thở. Dĩ nhiên tôi làm việc này một cách kín đáo, khó ai nhận biết. Điều mà người ta có thể nhận thấy là, khi tôi trả lời điện thoại hay chào hỏi ai, tôi thực sự có mặt với họ.
Sử dụng các phương cách của sự tự quán chiếu, sự chăm sóc bản thân, và sự tỉnh giác, để đối phó với các trạng thái tâm, lắng đọng hay lao xao và thân, tôi đặt tất cả thân tâm mình vào chánh niệm, để những vấn đề và quan điểm chưa được thông suốt của tôi không trở ngại đến việc Trí tuệ và Tình thương trong sáng, rõ ràng, có thể có mặt trong môi trường làm việc.
Phối hợp sự thực hành nghiêm túc, với những gián đoạn và sự thực hành không chính thức, tôi hướng đến việc được tỉnh thức và tự tại trong từng giây
phút, để tôi có thể thực sự có mặt trong từng hoàn cảnh.
(…)
Lắng Nghe
Trên phương diện tâm linh, tôi nghĩ lắng nghe là biểu hiện quan trọng nhất của sự tu tập của chúng ta. Con người rất thông minh. Khi chúng ta lằng nghe chăm chú, người nói cũng sẽ chú tâm đến điều họ nói. Dầu chúng ta chỉ gợi ý nhẹ nhàng cho họ, người được ta lắng nghe cũng sẽ tự tìm được giải pháp cho bản thân, và đó thường là một giải pháp thực dụng và khôn ngoan. Vì đó là giải pháp họ tự nghĩ ra, họ sẽ tin tưởng vào đó. Và vì tin tưởng vào giải pháp, người đó sẽ khiến nó thành sự thật.
Trên phương diện kinh doanh, tôi nghĩ đó là một kỹ năng quan trọng nhất nhưng lại ít được rèn luyện nhất ở những nơi làm việc. Bạn có tìm được khóa học nào ở trung học hay đại học dạy về nghệ thuật lắng nghe không? Có nhiều lớp giúp người ta đọc, viết, hay nói, nhưng chẳng bao giờ có lắng nghe. Nhưng tôi nhận thấy rằng, trong một phòng họp mà có nhiều người biết lắng nghe, thì ta dễ khám phá ra nhiều sáng kiến để chia sẻ.
Người biết lẳng nghe sẽ nghe với lòng kiên nhẫn, và không có thành kiến. Là người biết lắng nghe, ta sẽ bắt đầu bằng tâm trống rỗng, không biết. Chúng ta gạt qua một bên mọi nhu cầu muốn bày tỏ ý kiến của mình (ít nhất là chờ một lát sau), và cố gắng giúp người nói cảm thấy tự tin để khai triển ý tưởng và bộc bạch chúng. Chúng ta cũng có thể lặp lại ý kiến của người nói, để xác nhận là chúng ta đã hiểu đúng. Tôi nhận thấy rằng kỹ năng biết lắng nghe là phương cách ngăn ngừa sự xung đột rất hiệu nghiệm. Hầu hết các xung đột bắt nguồn từ hiểu lầm, và lắng nghe tạo nền tảng cho thông cảm, hiểu biết.
Khi dạy các kỹ thuật để động não (brainstorming), tôi đặt trọng tâm vào việc tạo ra một không gian cho việc biết lắng nghe. Tôi dùng ẩn dụ này: Chỉ hỗn hợp nước và bột, không ai ăn nổi. Nhưng nước, bột, bột nổi, muối và đường sẽ làm ra những chiếc bánh thơm ngon. Cũng thế, chỉ có con người và vấn đề sẽ đưa đến tranh cãi. Nhưng nếu ta thêm vào thời gian, không gian và sự tập trung, chúng ta sẽ có những buổi động não rất hữu hiệu. Thời gian và không gian được tạo ra bằng cách tổ chức những buổi họp không gián đoạn. Sự tập trung được tạo ra bằng cách mổ xẻ vấn đề thấu đáo và lắng nghe nhau. Lúc đó con người, cũng giống như bột bánh, nở ra theo hoàn cảnh. Lúc đó chúng ta không chỉ giải quyết các vấn đề, mà còn tạo dựng một môi trường bền bĩ cho lòng tin và hợp tác.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Trích dịch theo Buddhism For Business, 2009)