Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết

Chương 35

Một chuyến đi Nhật vào thời điểm này quả là một ý tưởng làm tôi thấy hứng thú. Dầu sao thì vào tuần sau, tôi cũng phải đi Los Angeles để làm việc về cuốn phim, như vậy tôi cũng đi một phần đường rồi. Và tôi cũng chiến đấu kịch liệt với Janelle đến độ tôi muốn nghỉ xả hơi một thời gian với nàng. Tôi biết rằng nàng sẽ coi việc tôi đi Nhật như một cách xúc phạm nàng và điều đó làm tôi hài lòng.

Vallie hỏi tôi sẽ lưu trú ở Nhật trong bao lâu và tôi bảo độ một tuần. Vẫn như trước giờ, nàng chẳng bận lâm mấy đến chuyện tôi đi hay ở. Thực tế là nàng cảm thấy nhẹ nhõm thư thái hơn khi tôi đi khỏi nhà. Nàng để nhiều thì giờ viếng thăm ông bà via và anh chị em, và đem theo các con về ngoại.

Khi tôi ra khỏi máy bay ở Las Vegas. Cully đón tôi với chiếc Rolls-Royce, ngay trên bãi đáp để tôi không phải đi bộ qua trạm đến. Điều ấy làm rung lên những hồi chuông báo động trong đầu tôi.

Một thởi gian lâu trước đây, Cully đã giải thích cho tôi lại sao thỉnh thoảng anh đón khách ngay trên bãi đáp. Anh làm điều đó để tránh sự giám sát bằng camera của FBI đối với mọi hành khách đến. Tại nơi mà mọi hành lang đồng quy về phòng đợi trung tâm của trạm đến, có một chiếc đồng hồ khổng lồ. Đằng sau chiếc đồng hồ đó, trong một cái hộp được thiết kế đặc biệt, là những camera ghi hình những đám đông các tay chơi hăm hở đổ về Las Vegas từ mọi nơi trên thế giới. Tối đến, đội trực của FBI sẽ quay lại bộ phim và kiểm tra đối chiếu các danh sách truy nã của họ. Những tay cướp nhà băng trót lọt, những viên chức biển thủ công quỹ rồi trốn đì, những "nghệ sĩ" làm bạc giả, những tên bắt cóc thành công và những tên tống tiền đều ngạc nhiên sửng sốt khi chúng bị tóm trước khi có cơ hội ném những đồng tiền phi nghĩa kia vào cuộc đỏ đen và những trò chơi sa đoạ khác.

Khi tôi hỏi Cully làm thế nào anh biết chuyện này, anh bảo tôi rằng tay trưởng ban an ninh hiện nay ở khách sạn của anh nguyên là một nhân viên cao cấp của FBI. Đơn giản là thế?

Bây giờ tôi để ý thấy rằng Cully tự lái chiếc Rolls-Royce. Không có tài xế. Anh lái chiếc xe vòng quanh trạm đến, hướng về khu hành lý, và chúng tôi ngồi trong xe lúc chờ hàng lý của tôi xuống cầu trượt. Trong lúc chờ đợi. Cully tóm tắt tình hình cho tôi nghe.

Trước tiên anh cảnh báo tôi đừng nói với Gronevell rằng chúng tôi sắp đi Nhật vào sáng hôm sau. Cứ làm bộ như tôi đến để vui chơi, đánh bài một hai hôm. Rồi anh cho tôi biết về sứ mạng của chúng tôi, về số hai triệu đô-la quy ra tiền yên mà anh sẽ phải bí mật đem ra khỏi Nhật và những bất trắc đi kèm với vụ đó. Anh nói rất thành thật:

- Xem này, mình không nghĩ là có gì nguy hiểm, nhưng có thể cậu không cảm nhận giống như mình. Do đó nếu cậu không muốn đi, mình hoàn toàn thông cảm.

Anh biết rằng tôi không có cửa nào từ chối. Tôi mang ơn nặng của anh; thực tế là tôi chịu ơn anh đến hai lần. Một là anh đã cứu tôi khỏi tù. Lần kia là đã trao lại chơ tôi số tiền ba mươi ngàn đô-la cất giấu khi mọi chuyện rắc rối đã qua đi. Anh đã trả lại cho tôi trọn số ba mươi ngàn đô-la bằng tiền mặt và tôi đã gửi số tiền đó vào trương mục tiết kiệm ở Vegas. Câu chuyện để bao che là tôi đã được bạc số tiền đó; Cully và người của anh đã được chuẩn bị để hậu thuẫn cho mọi chuyện đó. Nhưng chúng tôi đã lo quá xa vì chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra. Toàn bộ vụ bê bối ở Quân dự bị năm nào đã chìm xuồng trong quên lãng từ lâu.

- Tôi vẫn mong được Nhật du một chuyến. Không phiền gì khi làm vệ sĩ cho anh đâu, tôi có cần mang súng không?

Cully phát hoảng:

- Bộ cậu muốn bọn mình bị giết hay sao?

- Ngộ như có kẻ muốn cướp đoạt số tiền ấy cứ để họ lấy.

- Sự bảo vệ tốt nhất cho chúng ta là giữ bí mật tuyệt đối và di động cực nhanh. Tôi đã điều nghiên kỹ rồi.

- Vậy thì tại sao anh còn cần tôi?

Tôi hỏi tò mò và cũng hơi mệt mỏi, nên chỉ hỏi vậy thôi chứ chuyện này cũng chẳng có ý nghĩa gì mấy.

Cully thở ra:

- Hành trình đến Nhật Bản thật là diệu vợi. Mình cần có người bầu bạn. Chúng ta có thể đánh bài, tán gẫu với nhau trên máy bay và khi đến Tokyo cùng đi du hí, bù khú với nhau. Vả chăng cái tướng to lớn dềnh dàng của cậu cũng làm cho những tên cướp giật cò con ngán ngại phần nào?

- OK! - tôi nói, dù tư tưởng chưa thông cho lắm.

***

Đêm đó chúng tôi ăn tối với Gronevelt. Trông ông không được khoẻ lắm, nhưng ông vui vẻ kể chuyện về những ngày khởi nghiệp ở Vegas. Bằng cách nào ông tạo nên cơ đồ, tránh né được thuế, trước khi chính quyền liên bang gửi cả một đội quân gián điệp và kế toán đến Nevada.

- Người ta phải biết làm giàu trong bóng tối, - Gronevelt nói.

Ý tưởng đó như con ong ở trong mũ ông ta, đập cánh vù vù mãi chẳng khác nào ám ảnh về giảí Nobel văn học đối với Osano. Mọi người trong xứ này, nếu muốn làm giàu, đều phải làm giàu trong bóng tối. Từ những cửa hàng con con, những doanh nghiệp nhỏ cho đến các công ty lớn, tất cả đều phải tạo ra một cánh đồng bóng tối pháp lý.

- Nhưng không có nơi nào lại đầy cơ hội như ở Vegas. - Gronevelt bóc một điếu xì-gà Havana và nói với vẻ thoả mãn. - Đó là điều khiến cho Vegas rất mạnh. Ở đây người ta có thể làm giàu trong bóng tối dễ dàng hơn là bất kỳ nơi nào khác. Đó là thế mạnh của cái kinh thành giữa sa mạc này.

Cully nói:

- Merlyn chỉ ở lại đây đêm nay. Con nghĩ là sáng mai mình sẽ đi Los Angeles với cậu ta để mua ít đồ cổ. Và con có gặp một vài người ở Hollywood về chuyện nợ nần của họ với mình.

Gronevelt rít một hơi dài từ điếu Havana:

- Ý tưởng hay đấy, - ông nói - Ta đang hết quà tặng rồi. - Ông cười. - Con có biết từ đâu ta nảy ra ý tưởng tặng quà không? Từ một quyển sách xuất bản năm 1870 về cờ bạc. Giáo dục đúng là điều diệu kỳ.

Ông thở ra và đứng lên, một dấu hiệu để chúng tôi từ biệt. Ông bắt tay tôi rồi lịch sự đưa chúng tôi tới cửa dãy phòng ông. Khi chúng tôi bước ra khỏi cửa, Gronevelt nghiêm trang nói với Cully:

- Chúc thượng lộ bình an.

Bên ngoài, trên thảm cỏ xanh giả của sân thượng tôi đứng với Cully trong ánh trăng sa mạc. Chúng tôi có thể thấy dãy phố Thoát y vũ với vô vàn ánh đèn xanh đỏ, những dãy núi đen xẫm, bao quanh sa mạc ở xa xa.

- Ông ấy biết bọn ta sắp đi? - tôi nói với Cully.

- Nếu ông ấy biết thì ông ấy cứ việc biết! - Cully nói. - Hãy gặp mình để dùng điểm tâm vào lúc tám giờ sáng. Chúng ta phải khởi hành sớm.

Sáng hôm sau, chúng tôi bay từ Las Vegas đến San Francisco. Cully mang theo một chiếc vali khổng lồ bằng da nâu, các góc được bọc bằng đồng thau với các nẹp bằng đồng vàng khung lại với nhau. Ổ khoá trông rất nặng nề, chắc chắn. Trông hơi cồng kềnh nhưng vững chãi vô cùng.

- Và dễ dàng để theo dấu khi nhận hành lý. Một món đồ cổ mình sưu tập được ở Las Vegas đấy, - Cully nói đầy tự hào.

Chúng tôi tót lên chiếc Japan Airlines 747 đúng mười lăm phút trước khi máy bay cất cánh. Cully đã tính toán thời gian rất sát. Trên chuyến bay dài, hai chúng tôi chơi bài gin với nhau để giải trí và khi hạ cánh xuống Tokyo, tôi thắng anh sáu ngàn đô. Nhưng Cully không tỏ vẻ gì bận tâm; anh chỉ vỗ vào lưng tôi và nói:

- Tở sẽ lột lại cậu sạch sẽ trên chuyến về.

Chúng tôi kêu xe taxi từ phi trường về khách sạn ở Tokyo. Tôi nôn nao được nhìn thấy tận mắt lần đầu tiên cái thành phố hoang đường của miền Viễn Đông này. Thế nhưng nó giống một New York nhưng tồi tàn hơn và nhiều bụi khói hơn. Dường như nó cũng nhỏ hơn về tầm cỡ con người thì lùn hơn, các toà nhà đơn điệu hơn, đường chân trời là một sự thu nhỏ của đường chân trời quen thuộc và đường bệ của New York. Khi vào trung tâm thành phố, tôi thấy hầu như mọi người mang mặt nạ màu trắng, khiến họ trông có vẻ bí hiểm đáng ngại. Cully bảo tôi rằng người Nhật ở các khu trung tâm thành phố mang những mặt nạ đó để tự bảo vệ chống lại sự tổn thương phổi do không khí bị ô nhiễm nặng.

Chúng tôi chạy qua những toà nhà và cửa hàng hình như làm bằng gỗ, như thể chúng được dựng lên làm cảnh để quay phim. Xen kẽ với chúng là những toà nhà chọc trời hiện đại và những cao ốc văn phòng.

Các đường phố đầy người mà phần lớn trang phục theo Tây phương, một số khác chủ yếu là phụ nữ, mặc kiểu kimono. Một bức tranh cắt dán nhiều phong cách lai tạp.

Khách sạn càng làm chúng tôi thất vọng. Tân thời, theo kiểu Mỹ. Đại sảnh trải thảm màu chocolate với những chiếc ghế bành da, màu đen. Những người Nhật lùn, trong các bộ comple doanh nhân màu đen kiểu Mỹ ngồi trên các ghế đó, tay nắm chặt vali. Trông không khác mấy cảnh khách sạn Hilton ở New York.

- Đông phương là đây ư? - tôi hỏi Cully.

Cully lắc đầu một cách sốt ruột:

- Chúng ta đang cần một đêm cho ngon giấc đã. Ngày mai mình đi lo công việc và tối mai mình sẽ chỉ cho cậu Tokyo thật sự được tạo nên bởi những gì và cậu tha hồ vui thích. Đừng lo.

Chúng tôi lấy một phòng lớn hai giường. Chúng tôi mở vali ra và nhận thấy rằng Cully có rất ít hành trang trong lòng quái vật khổng lồ của anh ta. Cả hai chúng tôi đều mệt mỏi do chuyến bay dài, và mặc dầu mới sáu giờ chiều ở Tokyo, chúng tôi cũng lên giường ngủ.

Sáng hôm sau Cully đánh thức tôi dậy. Bình minh vừa ló dạng bên ngoài cửa sổ.

Anh gọi mang bữa điểm tâm vào phòng. Tưởng gì lại trứng với thịt muối, vài bánh nướng xốp, cà phê và nước cam vắt. Có khác gì ở New York hay Vegas.

Khi uống càphê tôi hỏi anh:

- Chương trình thế nào?

- Một ngày đẹp trời để dạo phố, - Cully nói. - Chúng ta tản bộ ngắm cảnh và mình sẽ cho cậu biết.

Tôi hiểu rằng anh không muốn nói trong phòng. Anh sợ có thể bị nghe trộm.

Chúng tôi rời khách sạn.

Còn sáng tinh mơ, mặt trời mới vừa lên. Chúng tôi quẹo qua một đường phố nhỏ và bỗng dưng tôi lọt vào Phương Đông. Những căn nhà nhỏ, thấp lè tè và những đống rác khổng lồ cao ngất ngưởng làm thành một bức tường.

Đường phố còn thưa người. Bỗng đâu hai người mặc quần soóc bằng kaki, áo sơ-mi kaki, mặt nạ trắng trùm kín mặt, bất chợt xuất hiện trước chúng tôi. Tôi giật mình lùi một bước thủ thế và Cully bật cười khi hai người kia quẹo sang đường khác.

- Lạy chúa, - Tôi nói - Mấy cái mặt nạ đó coi đáng ngại quá.

- Rồi cậu sẽ quen thôi, - Cully nói - Bây giờ, nghe kỹ đây. Tôi muốn cậu biết rõ mọi chuyện sắp xảy ra, để cậu đừng phạm sai lầm nào.

Trong lúc tản bộ dọc theo bức tường rác, Cully giải thích cho tôi rằng anh sắp đem số tiền yên trị giá hai triệu đô-la ra khỏi Nhật và rằng chính quyền nước này có những đạo luật rất khắt khe về việc xuất khẩu tiền tệ quốc gia.

- Nếu bị phát hiện, mình sẽ phải vào tù, - Cully nói. - Trừ phi Fummiro có thể hối lộ được để dàn xếp cho êm.

- Thế còn tôi? - Tôi hỏi - Nếu anh bị bắt, tôi lại không bị bắt sao?

- Cậu là một nhà văn tiếng tăm, - Cully nói - Người Nhật rất kính trọng văn hoá. Do đó, cậu sẽ chỉ bị trục xuất thôi. Vấn đề là cậu biết kín miệng.

- Vậy tôi chỉ có một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng nơi đây, - tôi nói.

Tôi biết Cully chỉ nói trở thế thôi và tôi muốn anh biết rằng tôi biết điều đó.

Rồi một chuyện khác nảy ra trong đầu óc tôi:

- Làm cách nào chúng ta lọt qua hải quan ở Mỹ, - tôi hỏi - Không có chuyện đó, - Cully nói - Chúng ta mang đến Hongkong và đổi tiền ở đó - Đây là một cảng tự do. Những người duy nhất phải qua hải quan ở đó là những ai du hành bằng passport của Hongkong

- Lạy Chúa, - Tôi kêu lên. - Bây giờ anh nói với tôi chúng ta đi Hongkong. Rồi sau đó chúng ta đi đâu? Qua Tây Tạng huyền bí chắc?

- Hãy nghiêm túc, - Cully nói - Đừng phát hoảng. Một năm trước đây mình đã làm chuyện này, với một số tiền nhỏ, để thử nghiệm. Và đã êm xuôi trót lọt.

- Tìm cho tôi khẩu súng, - tôi nói - Tôi có một vợ ba con, anh nhớ cho điềủ ấy. Ít ra cũng cho tôi có cơ hội chiến đấu.

Nhưng tôi cười. Cully đã thật sự trói tôi rồi. Nhưng Cully không biết tôi đang đùa:

- Cậu không thể mang súng theo được, - anh nói - Mọi tuyến hàng không của Nhật đều thực hiện kiểm tra an ninh điện tử hành khách và hành lý. Và phần lớn đều rọi X-quang trên các hành lý. - Anh ngừng một lát rồi nói - Hãng hàng không duy nhất không rọi X-quang để kiểm tra hành lý là hãng Cathay.

- Vậy nếu có chuyện gì xảy ra cho mình, cậu biết phải làm gì.

- Tôi chỉ có thể mường tượng tình huống một mình ở Hongkong với hai triệu đô, - tôi nói. - Tôi thà nhận một triệu lưỡi búa vào cổ còn hơn.

- Đừng lo, - Cully nói dịu dàng - Chẳng có gì xảy ra đâu. Chúng ta có sách lược cả rồi.

Tôi cười nhưng vẫn hơi lo:

- Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra thì tôi phải làm gì ở Hongkong?

Cully nói:

- Hãy đến ngân hàng Futaba và xin gặp phó chủ tịch. Ông ta sẽ nhận số tiền và đổi sang đô-la Hongkong. Ông ta sẽ cho cậu một biên nhận và có lẽ sẽ tính chi phí mất hai mươi ngàn đô. Rồi ông ta sẽ đổi đô-la Hongkong sang đô-la Mỹ và tính chi phí mất năm mươi ngàn đô. Số đô-la Mỹ sẽ được gởi sang Thuỵ sĩ và cậu lãnh được một biên nhận khác. Một tuần sau đó khách sạn Xanadu sẽ nhận một hối phiếu từ Thuỵ Sĩ trị giá hai triệu đô-la trừ đi số chi phí cho ngân hàng ở Hongkong. Cậu thấy chuyện quá ư đơn giản không?

Tôi nghĩ về chuyện này trong lúc chúng tôi quay về khách sạn. Cuối cùng tôi trở lại câu hỏi cơ bản:

- Vậy tại sao anh cần tôi theo làm gì?

- Đừng hỏi tôi thêm câu nào nữa, và hãy làm những gì tôi dặn cậu, Cully nói - Cậu nợ mình một ân huệ, đúng không?

- Đúng. - tôi đáp. Và tôi không hỏi thêm câu nào nữa.

Khi chúng tôi về lại khách sạn, Cully làm vài cuộc gọi nói bằng tiếng Nhật, rồi bảo tôi anh sắp phải ra ngoài.

- Nhưng cũng có thể trễ hơn một chút. Hãy ở lại phòng này đợi mình. Nếu tối nay mình không quay về, sáng mai cậu vù ngay lên chuyến bay về Mỹ. Nghe rõ chứ?

- Rõ, - tôi đáp.

Trong phòng ngủ, tôi cố đọc sách để giết thời giờ và rồi nghe tiếng ồn ở phòng khách, tôi đến đó để ngồi đọc. Tôi gọi đem bữa trưa vào phòng và sau khi ăn xong, tôi gọi điện thoại về Mỹ. Chỉ trong mấy phút, đường dây được nối. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi đã nghĩ phải mất cỡ nửa tiếng.

Vallie bắt máy lên ngay và giọng nàng vui khi nghe tôi gọi.

- Đông phương huyền bí ra sao? - Anh đang vui chứ? Anh đã đến kỹ viện Geisha chưa?

- Chưa, - tôi nói - Cho đến bây giờ anh mới thấy được đống rác ban sáng ở Tokyo. Từ lúc đó đến giờ anh phải đợi Cully. Anh ấy đi lo công việc. Anh đã thắng anh ấy sáu ngàn đô-la khi ngồi trên máy bay đánh bài với nhau.

- Tốt, - Vallie nói - Vậy anh nhớ mua cho em và mấy đứa nhỏ vài bộ Kimono nhé. À, nhân tiện, hôm qua có người gọi anh từ Vegas bảo là bạn anh. Ông ấy nói chờ gặp anh ở đó. Em bảo là anh ở Tokyo.

Tim tôi ngừng lại một lát. Rồi tôi nói, cố lấy giọng bình thường:

- Ông ấy có cho biết tên không?

- Không, - Vallie nói - Đừng quên quà cho em và các con nhé.

- Anh không quên đâu.

Suốt buổi chiều đó tôi lo lắng. Tôi gọi hãng máy bay, dành một ghế trở về Mỹ vào sáng mai. Bỗng dưng tôi không chắc rằng Cully sẽ trở về. Tôi kiểm tra phòng ngủ của anh. Chiếc vali to đùng không có ở đó.

Bóng đêm đã bắt đầu buông xuống khi Cully bước vào dãy phòng. Anh xoa tay, phấn khởi và rạng rỡ.

- Mọi chuyện đều ổn cả, - anh nói - Không có gì phải lo. Tối nay chúng ta vui chơi và ngày mai chúng ta thu xếp hành trang. Ngày mốt chúng ta đến Hongkong.

- Tôi gọi vợ tôi, chúng tôi nói chuyện rất vui. Vợ tôi bảo có người gọi từ Vegas, hỏi tôi đang ở đâu Nàng bảo ở Tokyo.

Chuyện đó làm anh lạnh mình. Anh suy nghĩ rồi nhún vai.

- Có vẻ giống như Gronevelt, - Cully nói. - Để rà lại linh cảm của ông ấy là đúng. Ông là người duy nhất có số phôn của cậu.

- Cậu có tin tưởng Gronevelt trong một vụ như thế này không? - Tôi hỏi Cully. Và ngay lập tức tôi biết rằng mình đã vượt qua lằn mức.

- Cậu muốn ám chỉ cái gì vậy? - Cully hỏi, hơi gay gắt. - Từ bao năm trời nay, ông ấy đối với tôi chẳng khác nào một người cha. Ông đã tạo ra con người tôi hiện nay. Tất nhiên là tôi tin cậy ông hơn tất cả mọi người khác, kể cả cậu.

- Được rồi, - tôi nói. - Vậy tại sao anh không cho ông ấy biết chuyện chúng ta đi? Tại sao anh lại nói trở với ông, bịa ra chuyện đi mua đồ cổ ở Los Angeles?

- Bởi vì đó là cách ông dạy tôi khi hành sự, - Cully nói. - Đừng bao giờ nói với ai về bất kỳ chuyện gì mà người đó không cần phải biết. Ông sẽ tự hào về tôi vì chuyện đó, dù rằng ông cũng phát hiện ra. Tôi làm như thế là đúng bài bản đấy. - Rồi anh dịu đi, vẻ thoải mái. - Này lên bộ đẹp nhất vào đi. Tối nay cho cậu biết mùi lạc thú nhất dạ đế vương theo kiểu Đông phương, cho cậu cả đời còn xuýt xoa mỗi lần nhớ đến nhé.

Vì một lý do nào đó mà lời anh nói khiến tôi nhớ lại lời của Eli Hemsi.

Giống như những ai đã từng xem các bộ phim về Đông phương tôi cũng từng phóng tưởng về đêm nơi kỹ viện Geisha: những cô nàng tài sắc tận tuỵ hiến mình cho lạc thú của bạn. Khi Cully bảo tôi rằng chúng tôi sắp được các nàng Geisha chiều chuộng hết ý tôi mong đợi sẽ được dẫn đến một trong những căn nhà trang trí vui mắt mà tôi từng thấy qua phim ảnh. Vì thế tôi hơi ngạc nhiên khi chiếc xe dừng lại trước một nhà hàng nhỏ trên một đường phố chính ở Tokyo. Trông cũng giống bất kỳ khu phố Tàu nào ở vùng hạ Manhattan. Nhưng một viên quản lý dẫn chúng tôi đi qua nhà hàng đông đúc đến một cánh cửa đưa vào một phòng ăn riêng.

Căn phòng được trang hoàng theo kiểu Nhật. Những lồng đèn đủ màu sắc được treo từ trên trần; một bàn tiệc dài chỉ kê cao hơn sàn nhà khoảng một bộ, được trang trí với bát đĩa màu sắc thanh nhã, những cốc uống rượu nhỏ nhắn, những đũa ngà. Có mặt bốn người đàn ông Nhật Bản, tất cả đều mặc kimono. Một người trong số họ là ông Fummiro. Ông ta và Cully bắt tay nhau, mấy người kia cúi đầu nghiêng mình cung kính thi lễ. Cully giới thiệu tôi với mọi người. Tôi từng thấy Fummiro đánh bạc ở Vegas nhưng chưa từng hội kiến ông ta.

Bảy nàng geisha tiến vào phòng với những bước chạy lúp xúp. Họ mặc rất đẹp với những bộ kimono kim tuyến thêu hoa lá nhiều màu rực rỡ. Mặt họ đang trang điểm kỹ với một lớp phấn trắng dày. Họ ngồi trên những chiếc ghế quanh bàn liệc mỗi cô phục vu cho một vị khách.

Theo sự hướng dẫn của Cully tôi ngồi một trong những chiếc gối để quanh bàn tiệc. Những người phục vụ mang vào các đĩa lớn cá và rau thơm. Mỗi nàng geisha hầu việc ăn uống cho người khách của mình.

Nàng geisha của tôi ngồi thật sát vào người tôi, tựa thân hình vào người tôi, với một nụ cười duyên dáng và cử chỉ vồn vã khẩn thiết, mời tôi ăn uống.

Nàng liên tục rót đầy cốc cho tôi với rượu sakê. Rượu thật tuyệt nhưng món cá sống không hợp khẩu vị tôi mấy, cho đến khi họ mang vào món thịt bò lúc lắc Kobe chấm với một thứ nước sốt rất ngon.

Sau bữa ăn, các cô gái lần lượt biểu diễn các trò vui tiêu khiển cho khách. Một cô chơi loại nhạc cụ giống như sáo. Cô khác ngâm thơ. Mọi người vỗ tay, còn tôi tơ lơ mơ chẳng hiểu gì nên "vô tri bất mộ", chẳng biết hay ở cái chỗ nào để mà khen? Vả chăng lúc này tôi cũng đã uống tới bến nên lại càng khó có khả năng thưởng thức những gì quá thâm thuý cao xa. Họ còn bày ra nhiều trò vui khác nhưng tôi đã gục xuống đống gối và nàng geisha của tôi đong đưa đầu tôi trong lòng nàng, lau mặt cho tôi bằng khăn nóng ướp hương thơm.

Điều tiếp theo tôi còn nhớ là tôi ở trong xe với Cully. Chúng tôi chạy qua những đường phố tối tăm và rồi xe dửng trước một căn nhà ở ngoại ô. Cully chỉ dẫn chạy qua cổng và cửa nhà mở ra như do ma thuật.

Và rồi tôi thấy chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà Đông phương thật sự. Căn phòng trống trơn trừ mấy chiếc nệm để ngủ. Tường thật ra chỉ là những cánh cửa trượt bằng ván mỏng.

Tôi nằm xuống trên một tấm nệm. Tôi chỉ muốn ngủ. Cully quỳ xuống bên tôi.

- Chúng ta qua đêm ở đây, - anh thì thầm. - Sáng mai, mình sẽ đánh thức cậu. Cứ ở đây, ngủ đi. Sẽ có người lo cho cậu.

Phía sau anh, tôi mơ hồ thấy khuôn mặt tươi cười của Fummiro. Tôi nghe giọng Fummiro nói:

- Bạn anh cần có bầu bạn.

Tôi lại buông người xuống nệm. Tôi đã quá say! Say không còn biết chi đời. Mặc kệ đất trời nghiêng ngả. Tôi quẹo đầu và ngủ.

Tôi không biết tôi đã ngủ bao lâu. Tôi được đánh thức bởi tiếng kéo cánh cửa trượt, rất khẽ khàng.

Trong ánh sáng lờ mờ của những chiếc đèn lồng tôi thấy hai cô gái Nhật mặc kimono màu xanh dương và vàng đi qua bức tường vừa được mở ra. Họ mang một thùng gỗ sơn màu đỏ đựng đầy nước nóng. Họ cởi hết quần áo tôi ra và tắm rửa cho tôi từ đầu đến chân, dùng các đầu ngón tay cào nhẹ lên khắp người tôi xoa bóp từng cơ bắp. Trong khi họ đang làm như vậy, cái "năng cử khí quan" của tôi bật dậy như lò xo bung ra, khiến hai cô ả khúc khích cười và một cô lấy tay tát yêu thằng bé "Hư thế. Không được hỗn. Đợi lát nữa sẽ có người cho bé bú sữa nhé!" Sau đó họ lấy khăn lau khô người tôi. Rồi họ mang cái thùng gỗ đựng nước đi và biến. Tôi cảm thấy thư thái hẳn ra, hơi tỉnh người lại.

Thế rồi cánh cửa trượt lại mở ra. Lần này chỉ có một cô gái - một cô mới, và chỉ vừa nhìn thấy cô, tôi đoán được ngay chức năng của cô.

Cô mặc một chiếc Kimono xanh mỏng, bóng mượt nửa che nửa khoe một thân hình thật hấp dẫn.

Mặt cô thật đẹp và nổi bật với cách trang điểm khá đậm. Mái tóc đen mượt óng ả của cô được búi cao lên đầu và cài lại bằng một chiếc trâm bằng bảo thạch.

Nàng đến bên tôi và trước khi nàng quỳ xuống, tôi kịp nhìn thấy đôi bàn chân trần của nàng, nhỏ nhắn và xinh xắn. Các móng chân được sơn màu đỏ sậm. Ánh đèn lồng hình như lung linh mờ ảo hơn, và bỗng nhiên xiêm áo biến đâu rồi, nàng phô diễn cả tấm thân kiều diễm, long lanh một màu trắng tinh tuyền như sữa đông tuyết đọng, đôi vú nhỏ nhưng đầy đặn, nhô thẳng ra phía trước, đôi núm vú hồng nhuận sáng tươi như được thoa son. Nàng nghiêng người xuống bên tôi, vươn tay lên rút chiếc trâm cài ra khỏi mớ tóc và lắc đầu. Những dòng tóc đen dài đổ xuống bất tuyệt trên người tôi, che phủ cả bán thân trên và mơn man làn da tôi, và nàng bắt đầu hôn và liếm khắp người tôi đầu nàng lắc nhẹ, mái tóc đen mượt và dày của nàng quét nhẹ trên hai đùi tôi. Tôi nằm ngửa cứng người. Miệng môi nàng ấm áp, lưỡi nàng hơi ráp. Khi tôi cố động đậy một chút nàng ấn tôi xuống, để nằm yên. Khi nàng kết thúc, nàng nằm xuống bên tôi và để đầu tôi gác lên ngực nàng. Vào một lúc nào đó trong đêm tôi thức giấc và làm tình với nàng. Nàng lấy hai cẳng chân nàng kẹp cứng hai cẳng chân của tôi và siết chặt quyết liệt như một cuộc giáp chiến giữa hai sinh thực khí của chúng tôi. Một cuộc giao cấu cuồng bạo, dữ dội và khi cả hai cùng đạt đến tột đỉnh khoái lạc nàng để thoát ra mấy tiếng kêu nhỏ và chúng tôi rơi ra khỏi nệm. Rồi chúng tôi nằm ngủ trong vòng tay nhau.

Bức tường mở ra lại đánh thức tôi dậy. Căn phòng tràn ngập ánh sáng sớm mai. Cô gái đã ra đi. Nhưng qua bức tường mở, nơi phòng kế bên, tôi thấy Cully đang ngồi trên chiếc vali khổng lồ. Mặc dầu anh ở cách khá xa, tôi vẫn có thể thấy anh đang mỉm cười.

- Này Merlyn ơi, dậy đi thôi, - Anh nói - Sáng nay chúng ta bay qua Hongkong.

Chiếc vali nặng đến độ Cully không vác nổi và chính tôi phải mang nó ra xe. Không có tài xế, đích thân Cully lái. Khi chúng tôi đến phi trường, anh bỏ chiếc xe lại bên ngoài trạm đến. Tôi mang chiếc vali vào trong, Cully đi trước dẹp đường và dẫn tôi đến bàn kiểm tra hành lý. Tôi vẫn còn chuếnh choáng vì dư vị rượu sakê và hai đầu gối còn hơi run run lảo đảo vì hai cuộc xuất kích ào ạt tối qua, và chiếc vali to đùng với những cái nẹp bằng đồng thỉnh thoảng đập vào xương ống quyển tôi đau điếng. Ở bàn kiểm tra, cuốn hoá đơn được đặt lên vé của tôi. Tôi nghĩ là cũng chẳng có gì khác biệt, vì thế tôi không nói gì khi Cully tỏ vẻ chẳng để ý chi điều ấy.

Chúng tôi đi qua cổng vào bãi phi đạo để đến máy bay. Nhưng chúng tôi chưa lên vội. Cully còn đợi cho đến khi chiếc xe tải nhỏ chở hành lý đến gần máy bay. Chúng tôi có thể thấy chiếc vali to tướng nẹp đồng thau của chúng tôi để ở trên cùng. Chúng tôi trông chừng cho đến khi người bốc xếp đưa chiếc vali đó vào bụng máy bay. Rồi chúng tôi lên tàu.

Từ Tokyo đến Hongkong phải mất hơn bốn giờ bay. Cully có vẻ nôn nao bối rối và tôi thắng anh thêm bốn ngàn đô-la nữa khi hai đứa chơi bài gin. Trong lúc đánh bài, tôi hỏi anh vài câu.

- Anh đã bảo tôi ngày mai bọn mình mới đi cơ mà, - tôi nói.

- Vâng, tôi đã nghĩ như thế, - Cully nói - Nhưng Fummiro đã gom sẵn tiền sớm hơn tôi dự kiến.

Tôi biết anh nói xạo.

- Tôi thích bữa tiệc với các nàng geisha đó, - tôi nói.

Cully cười nhăn nhở. Anh ta làm bộ nghiên cứu các quân bài, nhưng tôi biết đầu óc anh đang ở đâu đâu.

- Đám geisha đó trông như những xác ướp Ai cập, chán bỏ mẹ. Tôi thích các nàng rồng lộn ở Vegas hơn.

- Thế à? Tôi nghĩ bữa tiệc cũng vui đấy chứ. Nhưng tôi phải công nhận rằng món khoản đãi sau đó ngon hơn nhiều.

Cully quên mất những nước bài của anh.

- Món nào?

Tôi nói với anh về các cô gái xuất hiện trong đêm nơi phòng tôi. Cully cười toét miệng:

- Sáng kiến của Fummiro đấy! Cậu hên lắm. Trong khi đó mình phải chạy lo công việc suốt đêm. - Anh ngừng một lát. - Vậy là cuối cùng cậu cũng ngã. Tôi dám cá rằng đây là lần đầu cậu phản bội ngôi sao của cậu ở Los Angeles.

- Vâng, Nhưng rồi sao nào. Cái gì xảy ra cách ta hơn ba ngàn dặm thì không đáng kể.

Khi chúng tôi đáp xuống Hongkong, Cully nói:

- Cậu đến khu hành lý chờ lấy vali. Tôi bám theo máy bay cho đến khi họ lấy hết hành lý trong khoang bụng máy bay ra. Sau đó tôi theo dõi chiếc xe tải hành lý.

Làm như vậy để yên chí không có tên trộm nào ra lấy được.

Tôi đi nhanh qua trạm đến, hướng về chỗ trả hành lý. Trạm đến đông người, nhưng các khuôn mặt đều khác ở Nhật dù phần lớn vẫn là dân châu Á.

Băng chuyển hành lí bắt đầu quay và tôi nhìn chằm chặp vào cái vali nẹp đồng thau của chúng tôi trôi xuống cầu trượt. Sau mười phút, tôi thắc mắc tại sao Cully chưa xuất hiện. Tôi liếc nhìn chung quanh, thầm cảm ơn la không có ai mang mặt nạ; ba cái thứ quỷ đó đã làm tôi ơn ớn. Nhưng tôi không thấy ai có vẻ đáng gờm hay nguy hiểm.

Rồi chiếc vali đồng thau nhảy ra khỏi máng trượt. Tôi chộp lấy nó khi nó chạy ngang qua. Vẫn còn nặng như thường. Tôi kiểm tra để biết chắc nó không bị nạy ra hay cắt rạch nó để moi ruột. Khi làm như vậy, tôi nhận thấy một mảnh giấy bìa cứng hình vuông để ghi lên, gắn vào lay cầm. Nó mang cái tên huyền thoại - John Merlyn, - Và dưới cái tên đó là địa chỉ nhà tôi và số hộ chiếu của tôi. Cuối cùng tôi hiểu ra tại sao Cully thỉnh mời tôi đi Nhật du hí với anh. Nếu chẳng may có kẻ nào phải vào tù, kẻ ấy sẽ không ai khác hơn là thằng tôi ngốc này!

Tôi ngồi trên chiếc vali và khoảng ba phút sau Cully xuất hiện. Anh rạng ro hân hoan khi thấy tôi.

- Tuyệt. - anh nói, - Tôi kêu taxi rồi. Chúng ta đi đến nhà băng đi.

Và lần này anh nhấc chiếc, lên và mang nó ra khỏi trạm đến không có gì khó khăn.

Chiếc taxi chạy len lỏi giữa các phố nhỏ đông người. Tôi không nói gì. Tôi đã nợ Cully một ân huệ lớn và bây giờ tôi đã san bằng tỷ số. Tôi cảm thấy tổn thương vì anh đã lỡm tôi và phơi tôi ra trước mối nguy cơ lớn như vậy, nhưng Gronevelt có lẽ sẽ tự hào về anh. Và cũng từ truyền thống đó, tôi quyết định không nói với Cully những gì tôi biết. Hẳn anh cũng đã dự kiến rằng tôi sẽ phát hiện ra. Chắc là anh cũng đã có sẵn một câu chuyện để biện minh.

Taxi dừng lại trước một cao ốc cũ kỹ trên một con phố chính. Cửa sổ có dòng chữ mạ vàng đề "Ngân hàng quốc tế Futaba". Ở hai bên cửa sổ có hai nhân viên đồng phục với tiểu liên trên tay.

- Căng thật, cái thành phố Hongkong này, - Cully nói, vừa gật đầu chào hai nhân viên bảo vệ.

Anh tự tay mang chiếc vali vào nhà băng.

Bên trong, Cully đi xuôi theo hành lang và gõ vào một cánh cửa, rồi chúng tôi đi vào. Một người lai Âu Á nhỏ thó với hai hàng ria con kiến cười rất tươi khi gặp mặt Cully và vồn vã bắt tay. Cully giới thiệu tôi và ông ta với nhau, nhưng cái tên của ông ta là một kết hợp lạ lùng giữa các âm nên tôi không nhận ra được. Rồi người Âu Á dẫn chúng tôi đến một phòng rộng mênh mông với một bàn hội nghị dài. Cully ném chiếc vali lên bàn và mở khoá. Tôi phải thừa nhận rằng việc mục kích cảnh đó thật ấn tượng. Chiếc vali được nhét đầy tiền Nhật mới cứng, in bằng mực đen trên giấy xanh-xám.

Tay Âu-Á nhấc điện thoại và xổ ra một tràng lệnh bằng tiếng Quảng Đông. Vài phút sau căn phòng lố nhố các thư ký ngân hàng. Khoảng mười lăm người, tất cả đều đồng phục comple den bóng, bu quanh chiếc vali tiền. Phải mất hơn ba tiếng để cả bọn đếm và cộng tiền và kiểm lại. Rồi tay Âu-Á dẫn chúng tôi trở lại căn phòng ông ta, ghi một số chứng từ, rồi ký tên đóng dấu và đưa cho Cully. Cully nhìn lướt qua các chứng từ rồi bỏ chúng vào túi. Tổng kết các chứng từ là một tờ biên nhận nhỏ.

Cuối cùng chúng tôi đứng nơi đường phố ngập ánh nắng chiều bên ngoài ngân hàng. Cully phấn khởi tột độ:

- Phi vụ đã hoàn tất, - anh reo lên. - Giờ đây chúng ta có quyền thơ thới hân hoan trở về nhà

Tôi lắc đầu:

- Làm sao anh lại chấp nhận một nguy cơ đến như vậy? - tôi hỏi - Đó là một cách điên rồ để xử lý một số tiền như vậy.

Cully cười với tôi:

- Chứ cậu nghĩ chuyện điều hành một casino ở Vegas là một loại hình kinh doanh nào? Đều may rủi cả thôi! Mình làm một công việc đầy tính chất hên xui may rủi. Và trong chuyện này mình thường có một tỷ lệ may mắn nhiều hơn.

Khi chúng tôi ngồi vào trong taxi, Cully bảo tài xế đưa chúng tôi đến phi trường.

- Lạy chúa, - tôi nói - Chúng ta bay qua nửa vòng trái đất, vậy mà iôi không được cả một bữa ăn Tàu ở Hongkong sao?

- Đừng ép vận may của chúng ta quá, - Cully nói - Có thể một kẻ nào đấy nghĩ bậy rằng chúng ta còn mang tiền trong người. Hãy vù ngay về pháo đài của chúng ta là an toàn nhất. Lúc đó chúng ta đếch còn phải sợ mặt nào và an tâm tận hưởng thành quả của chiến thắng, tha hồ ca vang khúc khải hoàn?

Trên chuyến bay dài quay về Mỹ, Cully lại may mắn thắng bảy ngàn trong số mười ngàn đô-la anh nợ tôi. Có lẽ anh sẽ gỡ lại hết nếu tôi không bỏ cuộc.

- Nào, hãy cho mình cơ hội để gỡ hoà chứ. Chơi đẹp đi!, - anh nói.

Tôi nhìn thẳng vào mắt anh.

- Không, - tôi nói - Tôi muốn khôn hơn anh, ít ra là một lần, trong cuộc hành trình này.

Câu đó làm anh hơi dội và anh để tôi ngủ yên trong phần còn lại của hành trình hồi quy về Los Angeles. Tôi còn nấn ná bầu bạn với anh trong khi anh chờ chuyến bay đi Vegas. Trong khi tôi ngủ, anh đã suy nghĩ về những chuyện vừa qua và llẳn là anh đã hình dung chuyện tôi thấy cái biển tên trên vali.

- Nghe này, - anh nói, - Cậu phải tin mình mới được. Nếu vạn nhất cậu gặp rắc rối trong chuyến đi này, thì mình với Gronevelt và Fummiro sẽ chạy cho cậu ra. Nhưng mình vẫn đánh giá cao những gì cậu đã làm cho mình. Mình đã không thể làm cuộc hành trình này nếu không có cậu, thần kinh mình đã không đủ độ thép để làm.

Tôi cười:

- Anh còn nợ tôi ba ngàn đô-la tiền cờ bạc đấy, - tôi nói. - Hãy đưa số đó vào phòng thủ quỹ của Xanadu và tôi sẽ dùng nó để chơi baccarat.

- Được thôi. - Cully nói. - Nghe này. Có phải cách duy nhất để cậu lừa dối các em và cảm thấy an toàn, là khi cách xa họ ba ngàn dặm? Thế giới không đủ rộng lớn để lừa dối thêm hai lần đâu!

Chúng tôi cùng cười và bắt tay nhau trước khi anh bước lên máy bay. Anh vẫn là bạn thân của tôi, Chàng Cully láu cá. Tôi biết rõ chân tướng của anh và tôi chấp nhận tình bạn của anh. Làm sao tôi lại nổi giận khi anh trung thực với nhân cách của mình?

Tôi đi qua trạm đến ở Los Angeles của Westem Airlines và ghé vào trạm điện thoại. Tôi phải gọi cho Janelle và nói với nàng tôi đang ở thành phố này. Tôi tự hỏi tôi có nên cho nàng hay tôi đã đi Nhật hay không, nhưng rồi tôi quyết định là không. Tôi sẽ hành động theo truyền thống Gronevelt. Và rồi tôi nhớ đến chuyện khác. Tôi chẳng có món quà Đông phương nào cho Vallie và các con mình.