Ferdinand de Saussure (1857-1913): Nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ, viết bằng tiếng Pháp.
Nguyên văn: Catch, môn đấu vật tự do, được sử dụng tất cả các ngón đòn, miễn rằng không gây chết người.
Arnolphe, Andromaque: Các nhân vật trong bi kịch của nhà văn Pháp Racine (1639-1699).
Boxe, ta thường gọi là đấu quyền Anh.
Littré (1801-1881): Triết gia, nhà ngôn ngữ học, nhà từ điển học Pháp.
La Bruyère (1645-1696): Nhà văn, nhà đạo đức học Pháp.
Stanislavski (1863-1938): Diễn viên, nhà đạo diễn Nga.
Élisabeth đệ Nhị nước Anh, đăng quang năm 1952.
Marie-Antoinette (1755-1793): Hoàng hậu Pháp, vợ vua Louis XVI.
Chữ Latin trong nguyên văn, có nghĩa là trái lại .
From here to eternity: (tiếng Anh trong nguyên văn): Từ nay cho đến muôn đời. Cũng là: “Chừng nào còn có những con người”.
Living Room (tiếng Anh trong nguyên văn): Phòng khách , vở kịch của nhà văn Anh Graham Greene (1904-1991) xuất bản năm 1953.
Gaston Dominici, 75 tuổi bị kết tội giết chết Jack Drummond, người Anh cùng với vợ và con gái ông ấy vào năm 1952. Gaston thú nhận là vợ Drummond gạ gẫm lão làm tình, bị Drummond bắt quả tang… nên đã phạm tội bắn chết người. Nhưng Dominici nhiều lần phản cung.
Nền Cộng hoà đệ Tam trong lịch sử Pháp, từ 1870 đến 1940.
Maurice Genevoix (1890-1980): nhà văn Pháp, Viện sĩ Hàn lâm.
Nguyên văn: Êtes-vous allé au pont? – Allée? Il n’ya pas d’allée… Dominici nghe allé (đi) thành allée (đường đi trồng cây hai bên).
Frigoli (1867-1936): Diễn viên Italia, có tài biến đổi rất nhanh chóng.
Britonnie: tên gọi nước Anh thời chinh phục của La Mã; Nyassaland: một nước ở Trung Phi, nay gọi là Malawi.
Nhân vật chính trong vở kịch cùng tên (Don Juan , 1665) của Molière.
Ở trên, tác giả viết: mới mấy tháng tuổi.
Rừng Boulogne, nơi dạo chơi ở Paris.
Montesquieu (1689-1755): Nhà văn Pháp, tác giả Những bức thư Ba Tư (Les Lettres persanes. 1721).
Spellman (1889-1967): Hồng y giáo chủ Mỹ, nổi tiếng với tư tưởng chống Cộng.
Logos, Praxis: (in nghiêng trong nguyên bản): lý luận, thực tiễn.
Hòn đảo bí ẩn (L’Ile mystérieuse, 1874): Tiểu thuyết của Jules Verne.
Arthur Rimbaud (1854-1891): Nhà thơ Pháp, tác giả bài thơ Con tàu say (Le bateau ivre).
Huile (dầu), viết ở số nhiều là Huiles.
Nguyên văn: Appareil à sous, một thời có nhiều ở các quán ăn, các chốn cờ bạc. Đó là vở Bóng bàn (Ping-Pong), diễn lần đầu năm 1955.
James Brown (1933-2006): ca sĩ, nhạc sĩ Mỹ.
Antoine de Saint-Exupéry (1900-1944): Nhà văn, phi công Pháp.
Bouvard et Pécuchet: Tiểu thuyết của nhà văn Pháp Gustave Flaubert (1821-1880) xuất bản năm 1881 sau khi ông đã qua đời.
Joseph MacCarthy (1908-1957): Nghị sĩ Mỹ, nổi tiếng chống cộng sản.
La Locandiera hay Cô chủ quán xinh đẹp (1753): Vở kịch của nhà văn Italia Carlo Goldoni (1707-1793).
Nguyên văn: Commedia del Parte, loại hài kịch có nguồn gốc từ Italia.
Brankart người France, Bobet người France, Robic người Celte, Ruiz người Ibère, Darrigade người Gascogne.
Mécène (69-3 tr.CN): Hiệp sĩ La Mã, người nổi tiếng là hào phóng giúp đỡ văn nghệ sĩ.
Homère (thế kỷ IX tr.CN): Nhà thơ Hy Lạp, tác giả hai bản anh hùng ca Iliade và Odyssée .
Prométhée, Sisyphe: Các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Sisyphe phạm tội với Zeus, bị Zeus trừng phạt phải lăn một tảng đá lớn từ chân núi lên đỉnh núi; gần tới nơi Sisyphe kiệt sức, đá lại lăn xuống.
Francisco Franco (1892-1976): Tướng lĩnh Tây Ban Nha, sau khi đàn áp Mặt trận bình dân, lên làm quốc trưởng năm 1937.
Gôloa (Gaulois): Chỉ dân tộc Pháp, nước Pháp xưa có tên là xứ Gaule.
A priori: Chữ Latin trong nguyên văn, ở đây có nghĩa là tiên quyết .
Moulin-Rouge: Tiệm hát do Joseph Oller lập nên năm 1889 ở Paris,, khu Pigalle, quận XVIII, nổi tiếng với thoát y vũ.
D.S. đọc là Đêexơ, Déesse: Tiếng Pháp có nghĩa là Nữ thần.
Blaise Pascal (1623-1662): Nhà toán học, nhà triết học, nhà văn Pháp.
Jean-Paul Sartre (1905-1980): Nhà văn, triết gia Pháp.
Roberto Benzi (sinh năm 1937): Chỉ huy dàn nhạc, gốc Italia, sinh ở Pháp.
Nguyên văn: Continent perdu , vừa có nghĩa là Lục địa bị đánh mất , vừa có nghĩa là Lục địa xa xôi hẻo lánh . Roland Barthes muốn chơi chữ trong trường hợp này.
Ta bắt gặp ở đây một thí dụ hay về khả năng huyễn hoặc của âm nhạc: tất cả những cảnh Phật giáo đều kèm theo âm nhạc du dương ngọt ngào, bắt nguồn vừa từ tình ca Mỹ vừa từ lễ ca tương truyền do các giáo hoàng Grégoire đặt ra; đó là ca khúc một bè (ký hiệu của tính chất tu hành). (Chú thích của Roland Barthes).
Bandoeng: Thành phố ở Indonesia, nơi diễn ra hội nghị các nguyên thủ của thế giới thứ ba ngày 18-4-1855.
Goutte d’or: Khu vực ở phía bắc Paris, thuộc quận XVIII.
Phần lớn các dẫn văn đều trích từ cuốn sách của Poujade: Tôi đã lựa chọn cuộc chiến đấu . (Chú thích của Roland Barthes).
Tiếng Latin trong nguyên văn, nghĩa như phần đầu của câu.
Maurice Barrès (1862-1923): Nhà văn, chính khách Pháp.
Rubicon: Một con sông nhỏ ở miền bắc Italia. Thành ngữ “vượt Rubicon” có nghĩa là liều mình lao vào công việc gì.
Người ta sẽ nêu lên cả ngàn nghĩa khác của từ huyền thoại để bác lại tôi. Nhưng tôi đã tìm cách định nghĩa các sự việc, chứ không phải các từ ngữ (Chú thích của Roland Barthes).
Minou Drouet có tập thơ nhan đề Arbre mon am (Cây, bạn tôi ).
Lexis: Phong cách, cách thức.
Sự phát triển của quảng cáo, của đủ loại báo chí, của vô tuyến truyền thanh, của tranh ảnh minh hoạ, chưa kể đến vô số tàn dư của những nghi lễ giao tiếp, khiến cho việc thiết lập khoa học ký hiệu học trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong một ngày chúng ta bắt gặp bao nhiêu trường hợp thật sự không có ý nghĩa biểu đạt ? Rất ít, đôi khi chẳng có trường hợp nào. Tôi đang đứng ở đấy, trước biển khơi: dĩ nhiên nó chẳng mang thông điệp nào cả. Nhưng trên bãi biển, bao thứ mang tính ký hiệu học! Những lá cờ, những khẩu hiệu, những biển hiệu, những áo quần, kể cả une bruniture, đều là các thông điệp đối với tôi. (Chú thích của Roland Barthes).
Mấy thuật ngữ có cùng từ nguyên signe, le signifiant, le signifié, signifier, signification lâu nay có nhiều cách dịch khác nhau, giới ngôn ngữ học ở nước ta chưa thật thống nhất, tôi tạm dịch lần lượt là ký hiệu, cái biểu đạt, cái được biểu đạt, biểu đạt, sự biểu đạt .
Trong tiếng Pháp, ngoài từ “langue” chỉ ngôn ngữ nào đấy (chẳng hạn tiếng Pháp, tiếng Việt…) còn có từ “langage” chỉ hoạt động của lời nói, nhiều khi người ta cũng dịch là “ngôn ngữ”. Khi cần thiết, trong bản dịch tôi để nguyên ngữ trong ngoặc đơn.
Khái niệm từ ngữ (mot) là một trong những khái niệm bị tranh cãi nhiều nhất trong ngôn ngữ học. Tôi giữ lại khái niệm ấy cho giản tiện (Chú thích của Roland Barthes).
Tel Quel , II, tr. 191 (Chú thích của Roland Barthes).
Nguyên văn: alibi; thuật ngữ về luật, nghi phạm đưa ra chứng cứ là mình có mặt ở nơi khác khi vụ việc xảy ra.
Tôi nói: bên Tây Ban Nha, bởi vì ở Pháp, lớp tiểu tư sản đã làm nở rộ cả một nền kiến trúc “huyền thoại” về nhà gỗ xứ Basque (Chú thích của Roland Barthes).
Nguyên văn: arrêt, vừa có nghĩa là sự dừng lại, vừa có nghĩa là lời nghị án.
Trong tiếng Pháp, aimable là đáng yêu, aime là yêu.
Về phương diện đạo đức học, điều lấn bấn trong huyền thoại chính là hình thức của nó có lý do khơi gợi. Bởi nếu như có ngôn ngữ “lành mạnh”, thì đó là nhờ tính chất võ đoán của ký hiệu. Điều ngán ngẩm ở huyền thoại là phải nhờ đến một bản chất tự nhiên giả tạo, đó là cái xa xỉ của những hình thức biểu đạt, như trong những đồ vật kia chúng khoác cho sự hữu dụng của chúng vẻ bề ngoài tự nhiên, ý định cứ muốn làm cho sự biểu đạt thành nặng nề bởi cả sự bảo lãnh của tự nhiên gây nên thứ cảm giác ghê tởm: huyền thoại phong phú thái quá, và cái thái quá chính là lý do khơi gợi của nó. Sự ngán ngẩm ấy tôi cũng cảm thấy trước các loại nghệ thuật không muốn lựa chọn giữa cái physis và cái anti-physis , nên sử dụng cái trước như lý tưởng và cái sau như phần dành dụm. về phương diện đạo đức học mà nói, có một cái gì đê tiện khi chơi giỡn trên hai cái đó. (Chú thích của Roland Barthes).
Sự tự do vận dụng là vấn đề không thuộc lĩnh vực ký hiệu học; nó tuỳ thuộc vào tình huống cụ thể của chủ thể. (Chú thích của Roland Barthes).
Chúng ta tiếp nhận việc xưng danh của con sư tử như một thí dụ thuần tuý về ngữ pháp tiếng Latin, bởi vì, với tư cách những người lớn , chúng ta ở vào cương vị sáng tạo ra nó. Rồi tôi sẽ trở lại vấn đề giá trị của văn cảnh trong sơ đồ huyền thoại ấy. (Chú thích của Roland Barthes).
Thơ ca cổ điển, trái lại, có lẽ là hệ thống hết sức có tính huyền thoại, bởi vì nó áp đặt vào nghĩa một cái được biểu đạt bổ sung, đó là tính cân đối . Thể thơ alexandrin, chẳng hạn, có giá trị vừa như nghĩa của một diễn ngôn, vừa như cái biểu đạt của một tổng thể mới, đó là sự biểu đạt thơ ca của nó. Thành tựu, nếu có, là nhờ ở mức độ phối hợp rõ ràng của hai hệ thống. Như ta thấy, vấn đề hoàn toàn không phải là sự hài hoà giữa nội dung và hình thức, mà là sự thẩm thấu tài hoa của một hình thức vào một hình thức khác. Tôi hiểu tài hoa là sự phối hợp hết sức tài tình các phương tiện. Do một sai lầm đã có từ lâu đời mà giới phê bình lẫn lộn nghĩa (sens) với nội dung (fond). Ngôn ngữ (langue) xưa nay chẳng qua chỉ là một hệ thống các hình thức, nghĩa (sens) là một hình thức. (Chú thích của Roland Barthes).
Ta bắt gặp lại ở đây nghĩa , theo Sartre hiểu, như là tính chất tự nhiên của các sự vật, tính chất ấy ở ngoài hệ thống ký hiệu (Saint-Genet , tr. 283). (Chú thích của Roland Barthes).
Văn phong , ít ra theo như tôi đã xác định, không phải là một hình thức, nó không phụ thuộc vào một sự phân tích Văn chương về phương diện ký hiệu học. Thực ra, văn phong là một thực thể luôn luôn bị đe doạ hình thức hoá: trước hết, nó rất có thể thoái hoá thành lối viết: có một lối-viết-Malraux, và ở chính ngay Malraux. Và rồi, văn phong rất có thể trở thành một ngôn ngữ riêng biệt, ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng cho bản thân mình và cho chỉ riêng mình ; văn phong lúc đó là một thứ huyền thoại duy ngã, là ngôn ngữ mà nhà văn tự nói với mình; ta hiểu rằng ở mức độ đông kết ấy, văn phong đòi hỏi một sự giải mã, một sự phê bình sâu sắc. Các công trình của J.P. Richard là một thí dụ về sự phê bình cần thiết ấy đối với các văn phong. (Chú thích của Roland Barthes).
Hình thức giả định, bởi vì chính nhờ cách ấy mà tiếng Latin thể hiện “văn phong hoặc diễn ngôn gián tiếp”, công cụ giải hoặc tuyệt vời. (Chú thích của Roland Barthes).
“Chủ nghĩa tư bản bị lên án là làm giàu cho công nhân”, tờ Match nói với chúng ta. (Chú thích của Roland Barthes).
Từ ngữ “chủ nghĩa tư bản” không phải là điều cấm kỵ về phương diện kinh tế, nó là điều cấm kỵ về phương diện hệ tư tưởng: nó không thể xâm nhập vào từ vựng của những biểu hiện tư sản. Cần phải ở Ai Cập của Farouk mới có được phiên toà kết án đích danh một can phạm về “những âm mưu chống chủ nghĩa tư bản”. (Chú thích của Roland Barthes).
Giai cấp tư sản chẳng bao giờ dùng từ “giai cấp vô sản” là một huyền thoại nổi tiếng của cánh tả, trừ trường hợp có lợi khi hình dung giai cấp vô sản bị đảng cộng sản dẫn đi sai đường lạc lối. (Chú thích của Roland Barthes).
Đáng chú ý là những kẻ chống đối giai cấp tư sản về đạo đức (hoặc mỹ học) phần lớn vẫn dửng dưng, nếu không thậm chí gắn bó với những quyết định chính trị của giai cấp ấy. Ngược lại, những kẻ chống đối giai cấp tư sản về chính trị lại chẳng quan tâm lên án sâu sắc những biểu hiện của nó: thậm chí họ còn thường đi đến chỗ chia sẻ những biểu hiện ấy. Việc ngừng công kích này có lợi cho giai cấp tư sản, khiến nó có thể làm nhoà tên của nó đi. Vả chăng giai cấp tư sản lẽ ra chỉ được hiểu mình như sự tổng hợp của những quyết định và những biểu hiện của mình. (Chú thích của Roland Barthes).
Ở đây có thể có những hình tượng “hỗn loạn” của con người bị bỏ rơi (Ionesco chẳng hạn). Điều đó chẳng hề làm sứt mẻ sự yên ổn của các Bản chất. (Chú thích của Roland Barthes).
Kích thích điều tưởng tượng tập thể luôn luôn là mưu toan phi nhân, không những vì mơ mộng đem bản chất hoá cuộc sống thành số mệnh, mà còn vì mơ mộng thì cằn cỗi và vì nó bảo lãnh cho sự thiếu vắng. (Chú thích của Roland Barthes).
“Nếu mọi người và thân phận của họ hiện ra đảo ngược trong cả hệ tư tưởng như trong một buồng tối, hiện tượng ấy bắt nguồn từ quá trình sống lịch sử của họ…” Marx, Hệ tư tưởng Đức , I. tr. 157. (Chú thích của Roland Barthes).
Physis, anti-physis, pseudo-physis: Các khái niệm này, thường được in nghiêng trong văn bản, có thể tạm dịch là cái tự nhiên, cái phản-tự nhiên, cái giả-tự nhiên.
Có lẽ người ta có thể thêm nguyên tắc ánh sáng của nhân loại huyền thoại vào cái nguyên tắc nhục dục của con người theo Freud. Tất cả tính chất nhập nhằng của huyền thoại là đấy: ánh sáng ấy cũng sảng khoái (Chú thích của Roland Barthes).
Xem Marx và thí dụ về cây anh đào. Hệ tư tưởng Đức , I, tr. 161. (Chú thích của Roland Barthes).
Đáng lưu ý là chủ nghĩa Khrouchtchev tự xem mình không phải là sự thay đổi về chính trị, mà chủ yếu và duy nhất chỉ là sự chuyển đổi ngôn ngữ . Chuyển đổi cũng không trọn vẹn nữa, vì Khrouchtchev đã làm mất uy tín Staline, ông ta đã không giải thích Staline; ông ta đã không tái chính trị hoá Staline. (Chú thích của Roland Barthes).
Ngày nay chính người dân thuộc địa gánh chịu đầy đủ thân phận về đạo đức và chính trị mà Marx miêu tả là thân phận của người vô sản. (Chú thích của Roland Barthes).
Phần công chúng của báo căn cứ vào mức sống (Le Figaro , 12 tháng Bảy 1955): cứ 100 người mua, ở thành phố, thì 53 người có một chiếc ô tô, 49 người có một phòng tắm, v.v., trong khi mức sống trung bình của người dân Pháp như sau: ô tô: 22%, phòng tắm: 13%. Sức mua của độc giả tờ Match là cao, nghiên cứu công bố ấy về phương diện huyền thoại học cho phép tiên đoán điều đó. (Chú thích của Roland Barthes).
Marx: “… chúng ta phải quan tâm đến lịch sử ấy, bởi vì hệ tư tưởng rút lại, hoặc là quan niệm sai lầm về lịch sử ấy, hoặc là lờ hẳn lịch sử ấy đi .” Hệ tư tưởng Đức , I, tr. 253. (Chú thích của Roland Barthes).
Marx: “… điều khiến họ trở thành những đại diện cho giai cấp tiểu tư sản, là ở chỗ trí tuệ của họ, ý thức của họ không vượt khỏi các giới hạn mà giai cấp ấy tự vạch ra cho những hoạt động của mình.” (18 tháng Sương mù ). Gorki thì nói: kẻ tiểu tư sản, đó là kẻ đã cho mình là hơn cả. (Chú thích của Roland Barthes).
Nguyên văn: dégagées , đối lập với engagées (dấn thân).
Đó không phải chỉ là người ta tách ra khỏi công chúng, mà đôi khi cũng là tách ra khỏi chính đối tượng của huyền thoại. Để giải hoặc Tuổi thơ thi sĩ, chẳng hạn, có thể nói tôi đã phải thiếu tin tưởng ở cô bé Minou Drouet. Do cái huyền thoại khổng lồ người ta vây chặt lấy em, tôi đã phải coi như không biết khả năng có thể em là cô bé dịu dàng, cởi mở. Nói xấu một cô bé chẳng bao giờ là tốt. (Chú thích của Roland Barthes).
Đôi khi, chính ngay ở đây, trong các huyền thoại học ấy, tôi đã dùng mánh khoé: cứ phải nói mãi đến sự bay hơi của hiện thực, tôi đã tô đậm nó một cách thái quá, đã đem lại cho nó độ đậm đặc lạ lùng, thích thú đối với bản thân tôi, tôi đã tiến hành một số phân tâm học thực thể những đối tượng huyền thoại. (Chú thích của Roland Barthes).