Nhất Phẩm Giang Sơn

Quyển 6 - Chương 294: Cuộc chiến nơi bến cảng

Nhóm sĩ phu trong lĩnh vực chính trị luôn luôn theo đuổi vương đạo thống trị thiên hạ chính là dựa vào tinh thần nhân nghĩa này. Cái được gọi là cảnh giới cao nhất chính là “Ta hành Vương đạo, chư hạ quy thuận!”

Lúc này Đại Lý với danh nghĩa “Chư hạ” đã quy thuận, chẳng phải đã chứng minh nền chính trị nhân từ của triều đình Đại Tống đã thành công rồi hay sao? Phải chăng vương đạo đã đạt đến được cảnh giới cao nhất rồi? Chẳng phải đã chứng minh được quân thần Đại Tống xứng danh là rất nhân nghĩa hay sao?

Ban đầu bởi vì lại sinh ra khuê nữ nên Hoàng thượng luôn cảm thấy rầu rĩ không vui, nhưng sau đó đã gạt sạch được những phiền muộn trong lòng, trở nên hào hứng phấn chấn, đi tới thái miếu để cáo tế với tổ tông. Không những vậy, Hoàng thượng còn tự mình chủ trì nghi lễ bái tế ở ngoại thành, hướng lên trời cao để báo cáo tin tức tốt lành này. Tất nhiên không thể thiếu được việc hậu thưởng chúng thần, thăng quan ban tước... Tất cả các quan viên từ tứ phẩm trở lên, mỗi người đều được một mức ân huệ. Những người quan viên còn lại thì được ban cho ngân lượng tương đương với một năm bổng lộc.

Chỉ chừng đó những hoạt động chúc mừng thôi mà đã hao tốn tiền bạc lên đến một ngàn vạn quan, điều này nếu để cho Minh triều và Thanh triều biết được thì chắc chắn họ sẽ phải run rẩy sợ hãi trước Tống triều.

Đối với các công thần, tất nhiên sẽ phải hậu thưởng lớn hơn nữa. Triều đình đã nghe đồn, chỉ cần Vương Khuê vừa về tới kinh thành thì sẽ được tuyên khanh bái tướng, Phạm Trấn cũng như thế. Nhưng hai người này lại rất đáng ghét, Hoàng thượng cũng không muốn nhìn thấy ai trong hai người bọn họ, vì thế cho nên Hoàng thượng chỉ cho hai người bọn họ thăng quan tiến tước chứ không cho hai người bọn họ nhận chức quan nào trong kinh thành.

Điều này đã thể hiện ra rất rõ ràng việc có lợi của sự phân chia chức quan của triều Tống, cho dù ngươi là quan lại triều đình tại kinh thành hay là quan viên tại địa phương thì cũng sẽ không có chuyện “miếu nhỏ không chứa được Bồ Tát lớn” (Ý ở đây là: Cho dù ngươi là quan viên ở địa phương thì vẫn có thể lên cấp ngang với quan viên tại kinh thành).

Về phần Trần Khác, vị tân khoa Trạng nguyên do Hoàng thượng bổ nhiệm này vốn đã là nhân vật có tiếng. Mà bây giờ, hắn vừa thi đậu xong liền được lệnh đi sứ ngay, sau đó lại nhanh chóng vượt ngàn dặm đường trở về kinh thành, rồi lại tiếp tục khẩu chiến cùng các vị Tướng công trên cung vàng điện ngọc, cuối cùng đã thuyết phục được triều đình xuất binh. Tất cả câu chuyện về hắn được toàn thiên hạ đều biết. Dân chúng đều yêu mến vị thiếu niên anh hùng này, Hoàng thượng cũng vui mừng vì hắn đã cho mình thể diện thật lớn... Ban đầu Hoàng thượng chấm cho Trần khác đỗ bảng vàng Trạng Nguyên, đã phải ra sức gạt bỏ không ít những lời khuyên can của mọi người, không ít đại thần nghị luận, bàn tán sau lưng. Nguyên nhân chính là vì Trần Khác và Hoàng thượng có quan hệ họ hàng với nhau, điều này khiến cho Triệu Trinh há miệng nhưng không thể biện minh được.

Biết làm sao được, ai bảo Triệu Trinh đã có tai tiếng trong khoa thi trước? Năm đó ở khoa thi thứ hai Khánh Lịch, ban đầu Trạng Nguyên là Vương An Thạch, sau đó tại vì Vương An Thạch ”nói lời không cẩn thận” nên đã đánh mất chức Trạng Nguyên. Thực ra những người hiểu rõ nội tình đều có thể biết được, vấn đề căn bản không phải như vậy —— Chuyện là do Tào hoàng hậu thấy Dương Trí tuổi trẻ, khôi ngô tuấn tú nên đã muốn kén làm chất nữ tế. Vì muốn làm cho hôn sự này tăng thêm phần long trọng và cũng muốn “nước phù sa không chảy vào ruộng người ngoài” nên Triệu Trinh liền vung cán bút sắp đặt chức Trạng Nguyên cho Dương Trí.

Con người ta chỉ cần đã từng lấy trộm một lần thì ngày sau, lúc nào người khác cũng nghĩ hắn là kẻ trộm. Cho nên lần này cũng không tránh khỏi mọi người dị nghị về việc Hoàng thượng chạy cửa sau cho người nhà. Nên biết rằng miệng lưỡi của sĩ phu Tống triều rất lợi hại, làm tổn hại đến ai thì cũng mặc kệ, dù ngươi có là Hoàng đế hay là tướng quốc thì cũng như nhau cả thôi, huống hồ người được nói đến ở đây lại là Trần Khác, chỉ là một tân Khoa trạng nguyên mà thôi... Vì vậy hắn phải lập tức rời kinh, nếu không sẽ tránh không nổi việc bị người ta châm chọc, khiêu khích trong mọi tình huống.

Nhưng lúc này thì lại tốt rồi, Trạng Nguyên đã lập được kỳ công mở mang bờ cõi, điều này khiến cho những kẻ buôn chuyện phải hoàn toàn câm miệng lại, đồng thời cũng khiến cho Trần Khác trở thành một trong những nhân vật vĩ đại nhất của Đại Tống.

Mặc dù việc Hoàng thượng ban thưởng còn chưa công bố, nhưng tất cả mọi người đều hiểu rằng, tiểu tử kia vừa có thành tích khoa cử, vừa có quan hệ, lại lập được chiến công hiển hách này, tất nhiên sẽ được thăng chức rất nhanh, con đường làm quan sau này sẽ lên như diều gặp gió. Cho nên cũng không có gì khó hiểu khi văn võ bá quan Quảng Tây lại đi nịnh hót Trần Khác cả.

Huống chi Trần Khác lại còn rất biết điều, không hề quên ghi trong báo cáo tổng kết gửi triều đình về việc tây lộ Quảng Nam xuất binh hiệp lực cùng hắn, khiến cho bọn họ cũng trở thành công thần mở mang bờ cõi.

Cái đó gọi là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Trong bữa tiệc mừng, lão Vương Hãn cười tủm tỉm tặng cho Trần Khác hai món quà quý —— Một là, năm mươi ngàn dân phu hắn thu nạp từ số dân cư ít ỏi ở tây lộ Quảng Nam, rồi lại mượn thêm năm mươi ngàn quân từ vùng Hồ Nam, gộp lại là đủ một trăm ngàn dân phu mà Trần Khác cần.

Phần quà hậu hĩnh này giải quyết được công việc khẩn cấp trước mắt nên không cần phải nói thêm. Nói về phần quà thứ hai, Vương Hãn đem toàn bộ những nghệ nhân tay nghề giỏi trong Đô tác viện ở tây lộ Quảng Nam đến cho Trần Khác, đồng thời hứa rằng sẽ cung cấp tất cả các nguyên vật liệu cần thiết, toàn lực ủng hộ cho việc khai thông dòng chảy trên sông Hồng Thủy...

Phần quà này không hề kém phần hậu hĩnh so với phần quà trước, cần phải biết rằng Đô tác viện là đơn vị chế tạo quân khí và các vật tư quân sự để triều đình cấp cho các nơi. Nhất là tây lộ Quảng Nam chính là nơi biên phòng trọng yếu, hội tụ vô số những người có tay nghề giỏi, gần như có thể sánh ngang với toàn bộ các xưởng nam bắc thành Biện Kinh.

Khai thông lòng sông, loại bỏ đá ngầm, xây dựng đê đập... Tất cả những việc này đối với hậu thế cũng là những công trình lớn, huống hồ với điều kiện kỹ thuật chưa phát triển của Tống triều, nếu như không có quân đội trợ giúp thì thật sự là muôn vàn khó khăn.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Kẻ lõi đời hám lợi Vương Hãn này hào phóng dốc sức báo đáp như thế thì tất nhiên không phải chỉ vì Trần Khác biết điều với hắn. Sở dĩ Vương Hãn dốc sức ủng hộ cũng là vì có dụng ý riêng trong lòng... Vương Hãn mua chuộc Trần Khác không phải chỉ vì y muốn trông cậy vào Trần Khác, mà còn để cho con cháu của y có thể được hưởng phần thiện duyên này.

Đương nhiên điều quan trọng nhất mà Vương Hãn biết rõ chính là sông Hồng Thủy được khai thông sẽ có ý nghĩa vô cùng lớn đối với tây lộ Quảng Nam.

Quảng Tây nhiều núi, nhiều dân tộc thiểu số, có thể nói là nơi nghèo nhất trong Đại Tống. Mà Tống triều lại theo thể chế kinh tế khu vực, tức là các khu hành chính phải tự chịu trách nhiệm về việc làm ăn lời lỗ của mình. Đầu tiên thì tiền thuế nộp lên triều đình là không thể thiếu, trừ phần đó ra thì các địa phương tự chi tự tiêu, đương nhiên phần chi tiêu lớn nhất trong đó là quân phí và quan bổng thì vẫn do triều đình chu cấp.

Thấy tây lộ Quảng Nam bình định đã lâu, ngày sau triều đình sẽ tổ chức khảo sát văn võ bá quan Quảng Tây, tất nhiên sẽ có những chuyển biến về mặt chính trị đi theo hướng dân chính. Nhưng mà khuyến khích người dân nuôi tằm, tránh lãng phí, xóa bỏ đất hoang, gia tăng nhân khẩu, chăm lo thuỷ lợi, xây dựng trường học... Tất cả những hạng mục khảo sát này, có cái nào không buộc các quan viên địa phương phải bỏ ra cả đống tiền đâu?

Không có tiền thì không thể làm được gì cả, đến lúc đó thì bọn quan viên cũng sẽ không thể có được tiền đồ sau này. Vì vậy cho nên cả về việc công hay về việc tư thì Vương Hãn cũng phải cấp tài vật cho tây lộ Quảng Nam. Nhưng sau khi y nhìn bốn phía thì đành phải bất đắc dĩ cười khổ trong lòng, cái mà người ta vẫn hay gọi là vùng khỉ ho cò gáy chính là để chỉ vùng Quảng Tây này phải không?

Khốn khổ nhất chính là chuyện giao thông không thuận tiện. Quảng Tây cũng không phải hoàn toàn không có mặt nào tốt, ví dụ như các loại gỗ quý thì loại nào cũng có, chỉ cần vận chuyển được đến kinh thành một cây gỗ thôi thì cũng sẽ bán được giá thấp nhất lên đến hàng chục ngàn lượng. Nhưng các con đường tại Quảng Tây rất khó đi, rừng cây vô cùng rậm rạp, rất nhiều con đường nhỏ có khi ba đến năm ngày không có ai qua lại, trên mặt đất liền mọc ra vô số cây đại thụ. Ví dụ như một cây lương mộc vận chuyển đến kinh thành phải mất thời gian tám tháng, không biết phải tiêu hao bao nhiêu nhân lực, vật lực, vì vậy cho nên gần như không có người hỏi đến việc vận chuyển này.

Chính lúc Vương Hãn đang chán nản thì Trần Khác đã hoàn thành được việc ở Đại Lý, Đông Xuyên thành cũng sắp sửa xong. Công trình sông Hồng Thủy tiếp theo này mà xong, Đại Lý và nội địa Đại Tống sẽ được nối thông. Đại Lý là vùng mỏ bạc mỏ đồng, sản vật phì nhiêu, tài nguyên sẽ liên tục không ngừng được chuyển đến nội địa, các hàng hóa thương phẩm ở nội địa cũng sẽ được vận chuyển liên tục đến Đại Lý. Đương nhiên, hàng hóa của Quảng Tây cũng sẽ có thể đi nhờ xe, như vậy thì Quảng Tây không cần phải lo ngại về vấn đề vận chuyển nữa.

Tuy nhiên đầu óc kinh tế phong phú của quan viên Đại Tống không chỉ dừng ở những lợi ích ấy, điều khiến bọn họ động tâm chính là việc hàng hóa thường xuyên được lưu thông với số lượng lớn sẽ mang lại nguồn thuế vô cùng dồi dào!

Nhưng dù sao thì quan phủ cũng không thể giống như loại sơn tặc “Nếu muốn qua đường này, phải nộp lại tiền mãi lộ”, thương nhân sẽ không vì việc đi qua cửa nhà ngươi mà sẽ nộp thuế cho ngươi. Đương nhiên cũng có thể cưỡng ép trưng thu, nhưng thương nhân Đại Tống lại không phải là loại đèn cạn dầu, nếu như làm căng quá thì bọn họ sẽ thu thập tài liệu buộc tội nộp lên cho những tên Ngự sử cả ngày phát sầu vì không có việc, tự nhiên sẽ giống như một lũ chó dữ nhào cả lên.

Như vậy thì phải làm cách nào mới có thể thu thuế cho hợp pháp đây? Dựa theo pháp luật của Tống triều, hàng hóa phải nộp thuế ở nơi cảng đi, nơi chuyển vận và nơi cảng đến... Quảng Tây không phải là nơi cảng đi, cũng không phải là nơi cảng đến mà chỉ là chỗ chuyển vận.

Về lý, sau khi thuyền đồng xuất cảng xong, hoặc là đi theo Linh kênh về phương Bắc, hoặc là đi theo đường biển. Nhưng sau hàng ngàn năm vận hành, Linh kênh đã bị tắc nghẽn, nếu đào vét lên thì sẽ là cả một công trình lớn, hơn nữa so với vận chuyển đường biển thì vận tải đường kênh trong đất liền rất tốn thời gian, chi phí cao hơn, hiệu quả lại thấp. Cho nên vận chuyển đường biển là lựa chọn duy nhất.

Như vậy, cảng xuất phát đặt ở chỗ nào chính là mấu chốt. Theo lý mà nói thì Châu Giang chảy vào biển ở Quảng Châu, Quảng Châu lại là thành thị cảng lớn nhất của Đại Tống, còn có những cơ sở đóng thuyền chuyên nghiệp, như vậy thì nơi đây sẽ là sự lựa chọn số một.

Nhưng Trần Khác lại phái người xây dựng Khâm Châu cảng khiến cho Vương Hãn thấy được một tia hy vọng. Đến tận lúc này Vương Hãn mới được biết, hoá ra ở trong khu vực quản hạt của mình lại có một thế cảng đẹp đến như vậy, hơn nữa còn có đường sông nối thẳng với Châu Giang, hoàn toàn có thể tiết kiệm được một nửa quãng đường!

Dù sao cũng là lão tướng quân đã mang binh đánh giặc lâu năm, Vương Hãn nghĩ được là làm được. Y liền chuẩn bị phần quà hậu hĩnh này để chờ Trần Khác, hy vọng hắn có thể quyết định cảng rời bến sẽ đặt ở Khâm Châu cảng.

Nghe xong lời thỉnh cầu của Vương Hãn, Trần Khác từ chối trả lời, bình thản cười nói:

- Chúng ta hãy khảo sát thực địa trước đã rồi mới nói sau.

- Phải làm thế, nên làm thế.

Vương Hãn lập tức sai công vụ cùng hắn xuôi nam, chưa hết một ngày đã tới một cảng biển đơn sơ ở Quảng Tây - Khâm Châu - An Viễn thành. Liền thấy được một bến tàu làm bằng xi măng bê tông lặng lẽ đứng bên bờ biển Nam Hải sóng xanh trập trùng.

Bến tàu có thêm đoạn đê biển dài hơn mười dặm này chính là do Trần Khác sai người liên tục thi công tu sửa trong mười ngày không ngừng nghỉ để hoàn thiện. Sau khi tiếp nhận thêm vật tư quân nhu từ Giang Nam chuyên chở tới, nơi này đã trở thành cảng cung cấp quân nhu cho tây lộ Quảng Nam.

Do người quản lý và quân đội đóng trên bến tàu đã được thông báo từ trước nên bọn họ đã ra đón chào từ xa.

Trần Khác và Vương Hãn cưỡi ngựa đi dọc theo con đường bê tông lớn màu trắng hướng về bến tàu, hai bên đường là những cây dừa cao lớn, thỉnh thoảng còn có vài chú hải âu bay lướt qua đỉnh đầu, đưa ánh mắt tò mò ngó nhìn.

Khâm Châu cảng ở bên bờ biển thành An Viễn là một vịnh nước sâu. Phía trước cảng có một cửa vịnh hẹp bảo vệ toàn bộ vịnh nước Khâm Châu ở phía trong, khiến cho vùng biển bên trong vịnh luôn luôn được bình yên.

Đứng trên bến tàu, nhìn Khâm Châu vịnh sóng xanh vỗ bờ, trong lòng Trần Khác cũng gợn lên hàng ngàn hàng vạn con sóng. Kiếp trước hắn đã từng tới nơi này, nơi này từng được Tôn Trung Sơn quy hoạch trở thành cảng biển nước sâu tự nhiên lớn thứ hai phía nam, lúc ấy những chiếc tàu biển tải trọng hàng chục ngàn tấn, những chiếc cần cẩu lớn và vô số container chồng chất như núi đã để lại cho hắn ấn tượng vô cùng sâu sắc.

Lúc này hắn đang đứng trước một Khâm Châu cảng của ngàn năm trước, tự nhiên sẽ không thể thấy được bóng dáng của tàu lớn, máy móc cần cẩu, container, nhưng con đường lớn ngắn nhất theo phía tây nam dẫn ra biển hướng thẳng về Đông Nam Á này vẫn không hề thay đổi một chút nào. Mà chính mình sẽ tự tay sáng lập một Khâm Châu cảng ra đời trước một ngàn năm!

- Đây sẽ là bến cảng do ta sáng lập, là lịch sử do ta sáng tạo ra!

Trần Khác bóp chặt hai nắm tay, trong lòng thầm nói. Cảm giác “Ngàn dặm giang sơn làm bàn vẽ, tranh vẽ do tay vung bút lên” này thật sự làm cho người ta phải mê say!

- Đại nhân đang suy nghĩ gì đó?

Vương Hãn bước đến bên cạnh hắn hỏi.

- Ah...

Trần Khác định thần lại, cười nói:

- Nơi này có lưu vực rộng lớn, lượng cát lắng đọng ít, bờ bãi ổn định, dùng làm cảng lớn thật sự là quá thích hợp rồi.

- Đúng vậy.

Vương Hãn gật đầu cười nói:

- Phải nói là vô cùng khâm phục đại nhân, chúng ta ở đất Quảng Tây đã hơn mười năm rồi nhưng lại không có ai đi qua mà hiểu rõ được nơi này. Nếu như không có đại nhân nhắc nhở thì chúng ta cũng không biết đến nơi này lại có một cảng biển đẹp đến như vậy.

- Ta cũng chỉ ngẫu nhiên nghe nói mà thôi.

Trần Khác trả lời lấy lệ rồi nói:

- Nhìn kìa. Có thuyền tới kìa.

- Hả?

Vương Hãn cầm chiếc ống nhòm Trần Khác đưa, giơ lên trước mắt nhìn về phía mặt biển.

Trên mặt biển, một con thuyền thật lớn đang chậm rãi cập cảng. Chỉ thấy trên chiếc thuyền có hai cột buồm tam giác treo nghiêng, một chiếc lớn, một chiếc nhỏ, mũi tàu nhọn, đuôi thuyền có những thứ trang sức ngạc nhiên, cổ quái.

- Không phải là thuyền của người Tống?

Vương Hãn cảnh giác nói. Thuyền biển của Tống triều phần lớn đều có mũi tàu hình vuông. Nhưng chiếc thuyền biển này lại có đầu thuyền nhọn rất hiếm gặp. Đợi thuyền tới gần hơn, Vương Hãn lại phát hiện ra mũi thuyền còn sừng sững một hình thù kỳ quái đầu người thân cá.

- Đúng, không phải là thuyền của người Tống.

Tuy rằng Trần Khác không cầm ống nhòm trên tay, nhưng lúc này, thuyền đã tới gần, đủ để mắt thường cũng có thể thấy rõ được hình dáng.

- Mau mau ngăn nó lại!

Quân đội đóng trên bến tàu này cũng chưa từng gặp phải trường hợp như vậy, lập tức khẩn trương sai người đi thuyền tiến đến chặn lại. Khâm Châu không giống như Quảng Châu, Quảng Châu là nơi có cảng biển lâu năm với đội thủy quân được trang bị đầy đủ, còn nơi này thì tất cả mọi thứ đều mới được thành lập, cơ bản không có thủy quân bảo vệ cảng. nơi này chỉ có vài chiếc khoái thuyền được chuẩn bị sẵn để dùng khi nào cần thiết mà thôi.

Đôi khi người ta sẽ trở nên e sợ sự so sánh, mấy chiếc khoái thuyền của quân Tống khi tiến đến bên cạnh chiếc thuyền không rõ lai lịch bỗng trở lên nhỏ bé vô cùng. Điều này làm cho Vương Hãn lộ rõ vẻ bực bội trên mặt nói:

- Sau này nhất định sẽ chế tạo mấy chiếc lâu thuyền đặt ở Khâm Châu vịnh!

Thị vệ cũng đã nhìn ra mấy chiếc thuyền nhỏ của mình căn bản không thể ngăn cản được thuyền của người ta nên đã mau chóng tiến lại mời hai vị đại nhân rời khỏi bến tàu trước.

- Lui đi!

Vương Hãn đẩy tên thị vệ ra rồi nói:

- Thuyền của bọn chúng thì liệu chứa được bao nhiêu người? Chỗ này có hai ngàn binh sĩ, chúng ta phải sợ cái gì!

Quân đội đóng ở bến tàu có một ngàn binh lính, hộ vệ của hai người có thêm một ngàn binh lính nữa.

Tuy nhiên thoáng nhìn qua thì chiếc thuyền kia cũng không có ý đồ gì cả. Sau khí thấy quân Tống tiến tới cản đường, bọn họ liền từ từ dừng lại, đồng thời kéo lá cờ màu xanh lục lên.

- Lá cờ thật là lớn.

Trên bến tàu, tên quản sự tinh thông hàng hải bẩm báo nói:

- Xem ra, là một chiếc thuyền ngoại bang.

- Nói lời vô ích...

Vương Hãn trừng mắt nhìn tên quản sự một cái rồi nói.

Chỉ chốc lát sau, một con thuyền nhỏ của quân Tống đi vòng về, báo cáo rằng người trên thuyền kia tự xưng là sứ giả đến tiến cống lên triều đình, điểm đến ban đầu dự định là Quảng Châu, nhưng bởi vì gặp phải lốc lớn nên thân tàu đã bị tổn hại nặng, nghe nói nơi này mới mở cảng biển nên định cập bờ tại đây.

- Ha ha…

Vương Hãn cười nói:

- Không thể tin được Khâm Châu cảng lại nổi tiếng nhanh như vậy.

Nói xong gật đầu bảo:

- Cho bọn họ cập bờ đi.

- Đại nhân, Khâm Châu không có Thị Bạc Ti...

Lão quản sự cẩn thận nhắc nhở. Tổng quản Thị Bạc Ti tại Quảng Châu phụ trách bang giao, buôn bán đường biển với bên ngoài, Vương Hãn này làm như vậy là đã vượt quyền của Chuyển Vận Sứ Quảng Tây.

- Quyền hành cũng phải tùy thuộc theo hoàn cảnh, hiểu không?

Vương Hãn không thèm để ý, nói:

- Người ta đã bị hỏng thuyền rồi, làm sao có thể tiếp tục chạy đến Quảng Châu được nữa? Nếu như nửa đường thuyền bị chìm thì chẳng phải người ta sẽ chê trách chúng ta là Thiên triều máu lạnh hay sao?

Nói cho vui mà thôi, Khâm Châu chính là đang muốn đoạt lấy các mối mua bán của Quảng Châu!

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Được sự đồng ý của quan quân, chiếc thuyền kia bắt đầu chậm rãi cập cảng. Trần Khác chăm chú nhìn, chiếc thuyền này quả thật đã rất nát, nhưng không phải nát do bị phá, mà là cũ nát. Chắc chắn chiếc thuyền này không phải bị bão làm cho hư hại.

Sau khi buộc chặt dây thừng, đặt cầu vững vàng lên trên bến tàu, hơn mười tên võ sĩ thân hình cao lớn, màu da ngăm đen, thắt lưng đeo đao cong từ trên thuyền bước xuống. Mặc dù quân Tống trên bến tàu đông hơn rất nhiều so với bọn họ, nhưng mười tên võ sĩ này vẫn có thần khí vững vàng, vẻ mặt lạnh lùng, giống như những con sư tử đang chậm rãi bước đi trước mặt đàn trâu.

Chỉ có đội quân đã trải qua hàng trăm trận chiến mới có thể có được khí thế như vậy. Trên bến tàu, quân Tống bỗng nhiên cảm thấy căng thẳng hẳn lên.

Nhưng cảm giác căng thẳng này lập tức bị dẹp đi khi thấy người đàn ông mặc áo dài màu đen, lại khoác thêm một cái áo choàng cùng màu bên ngoài, chiếc khăn trùm đầu buộc trên mái tóc màu vàng rực rỡ, gã chậm rãi đi xuống cầu tàu, hướng về phía Vương Hãn và Trần Khác ở đằng xa hành lễ theo lễ tiết của người Ảrập, mở miệng nói quang quác.

Chờ gã nói xong rồi, bên cạnh lại xuất hiện thêm một tên thanh niên dị tộc, trên người mặc một chiếc áo dài giống gã, chiếc khăn trùm đầu buộc trên mái tóc màu đen. Người thanh niên dị tộc nói tiếng Hán, giọng cứng đơ:

- Thưa đại nhân của thiên triều tôn kính, chủ nhân của chúng ta là sứ giả Cổ Ba Nhĩ tới tiến cống lên Thiên triều, khẩn cầu được yết kiến Hoàng Đế Đại Tống bệ hạ.

- Ồ, vậy ư?

Vương Hãn nghe vậy vô cùng mừng rỡ... Như trên đã nói “Ta hành vương đạo, chư hạ quy thuận”, đối với lòng hư vinh mà nói thì triều đình Đại Tống coi trọng lớn hơn hết thảy, các nước chư hầu tới bái triều là điềm tốt lành không gì sánh bằng. Chỉ dẫn cho một vị sứ giả phiên bang vào kinh thành yết kiến chính là chiến tích vô cùng đáng khoe của một người quan viên địa phương, như vậy sẽ được ghi chép vào trong quốc sử.

Vả lại vừa lúc mượn cơ hội này để xin triều đình đồng ý cho Khâm Châu mở cảng, đúng là “ Đang buồn ngủ thì đã có người đưa gối kê đầu”!

Đương nhiên, đây cũng không phải là trò đùa, Vương Hãn phải kiểm tra quốc thư, văn điệp, ấn tín, thậm chí tất cả cống phẩm cho Hoàng đế Đại Tống của sứ giả, xác nhận xem có sai lầm gì không rồi mới dám cho đi. Nếu như chẳng may gặp phải bọn lừa đảo thì Vương Hãn sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ rồi...

Sau khi Vương Hãn nói cho người thông dịch ý tứ của mình, đối phương rất vui vẻ cung cấp một loạt bằng chứng. Vương Hãn tới cầm xem, tất cả đều là chữ viết khoa đẩu văn uốn khúc, nhìn qua đã thấy hoa mắt rồi, y tiện tay đưa cho Trần Khác nói:

- Trạng Nguyên học vấn uyên thâm, mau tới xem này.

- Ta xem cũng không hiểu.

Trần Khác cười đau khổ, lắc đầu nói.

Được rồi, người có học vấn cao thế này mà cũng không thể hiểu được thì đành phải mời đến chuyên gia hỗ trợ. Nhưng Khâm Châu lại không giống như Quảng Châu, tìm đâu ra tên thông dịch chuyên nghiệp bây giờ?

- Xem ra, đành phải đi tới Quảng Châu tìm người rồi.

Vương Hãn bảo thuộc hạ nói:

- Đi Quảng Châu tìm tên thông dịch tiếng Ba Tư, rồi lập tức đưa tới Quế Châu!

Có thủ lĩnh quyết đoán, dứt khoát, dĩ nhiên là có thuộc hạ nhanh như chớp, lập tức vung roi thúc ngựa xuất phát ra đi.

Vương Hãn bắt đầu cảm thấy hứng thú đối với “sứ giả triều cống”, nhưng tinh thần y chủ yếu vẫn đặt ở Trần Khác. Vì vậy Vương Hãn liền vẫy tay cho người đưa đoàn người sứ giả đi nghỉ ngơi.

Nhưng đối phương có ý muốn phải quay về thuyền, nói rằng đây là tập tục của bọn họ, Vương Hãn cũng chiều theo ý muốn của bọn họ.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Một lúc sau, Vương Hãn cùng Trần Khác tham quan hết một vòng bến tàu, sau đó trở lại doanh trại dùng trà nghỉ chân.

Chuyện trò qua quýt vài câu, Vương Hãn liền trở lại chủ đề chính nói:

- Thế nào, Trọng Phương, hãy trả lời chính xác cho ta đi.

- Khâm Châu có điều kiện rất tốt.

Trần Khác biết, lão quan này không thích quanh co lòng vòng, liền chậm rãi nói:

- Nhưng muốn cướp được mối làm ăn của Quảng Châu thì cũng gặp phải khó khăn không nhỏ.

- Có gì khó khăn?

Vương Hãn nhướn mày nói.

- Đầu tiên, Khâm Châu cảng không có Thị Bạc Ti, không có Dịch Vụ Các, nếu chỉ dùng để vận chuyển đồng thì còn có thể, chứ dùng để làm cảng thương mại thì..., không ổn rồi.

- Cái này dễ thôi, triều đình đã thiết lập được bốn Thị Bạc Ti, thì còn có thể thiết lập được thêm cái thứ năm!

Vương Hãn nói xong, cảm thấy lời này quá mức vẹn toàn, lại bồi thêm một câu nói:

- Cho dù không thiết lập được Thị Bạc Ti thì thiết lập Dịch Vụ Các cũng không thành vấn đề.

Dịch Vụ Các so với Thị Bạc Ti thì còn thấp hơn một bậc, tuy nhiên nó cũng có quyền thu thuế thông thương.

- Thứ hai, Khâm Châu không có Tiền Giam, nhưng Quảng Châu thì có.

- Cái đó càng đơn giản, Hạ Châu của tây lộ Quảng Nam có Tiền Giam, ta cho người dời đến đây là được.

Vương Hãn mồm năm miệng mười nói.

- Thứ ba, cũng là điều mấu chốt nhất.

Trần Khác thản nhiên nói:

- Đông lộ Quảng Nam sẽ có thái độ thế nào, Vương công có nghĩ tới không?

- Cái này...

Vương Hãn trước đó cũng đã từng nghĩ tới, cũng biết mình đang cướp thịt từ trong miệng hổ, nhất định sẽ gây thù chuốc oán với Quảng Đông, vì vậy y mới muốn cho Trần Khác gánh trách nhiệm thay mình... Y đã tính toán kĩ lưỡng, với thân phận tân Khoa trạng nguyên của Trần Khác, lại có công mở rộng bờ cõi, nếu Trần Khác đề xuất ra việc đặt cảng ở Khâm Châu thì Quảng Đông cũng đành phải nhẫn nhịn.

Nhưng không thể ngờ được Trần Khác lại đá quả bóng này ngược trở lại cho mình. Vương Hãn cười cười nói:

- Chắc hẳn là không thành vấn đề.

- Nói vậy thì Vương công dâng tấu lên triều đình thỉnh cầu đặt cảng ở Khâm Châu đi.

Trần Khác cười nói.

- Trọng Phương, để đại nhân nói thì tốt hơn.

Vương Hãn lúng túng nói:

- Quảng Đông và Quảng Tây vốn đối đầu với nhau từ lâu rồi. Ta mà nói thì... Quảng Đông chắc chắn sẽ tìm mọi cách để cản trở. Nhưng đại nhân thì lại khác, đại nhân không phải là người của hai tỉnh lộ này, đại nhân muốn làm lợi cho bên nào thì cũng chẳng có ai nói được điều gì.

Nói xong Vương Hãn cười khổ nói:

- Trọng Phương, bên Quảng Đông giàu nứt khố đổ vách, không thiếu ba cái thứ này đâu, Quảng Tây chúng ta chỉ biết trông vào Khâm Châu cảng để kiếm cơm mà thôi, coi như là giúp cho lão bá này thôi mà, hiền chất.

- Lão bá đã hiểu lầm rồi.

Trần Khác cười khổ nói:

- Không phải là ta không muốn giúp đỡ, nhưng thật sự là bởi vì việc này không phải do ta định đoạt.

- Làm sao lại như vậy được, quyền của đại nhân là đào mương mở cảng, đương nhiên việc này chính là do đại nhân định đoạt.

Vương Hãn nói có chút không vui, cứ ra sức khước từ như vậy thật sự là không đáng làm người.

- Thế nào, đại nhân có gì khó xử hay sao?

Vương Hãn tự nhủ trong lòng, đơn giản là ra giá, tiền trao cháo múc mà thôi.

- Đối với ta thì hoàn toàn không có vấn đề gì. Khâm Châu có đủ điều kiện cần thiết để có thể trở thành một cảng lớn.

Trần Khác nghiêm mặt nói:

- Nhưng loại quyết sách trọng đại như thế này, triều đình nhất định sẽ không để cho ta quyết định một mình. Các Tướng Công tất nhiên sẽ có suy nghĩ của riêng mình, ta chỉ có thể báo cáo phương án lên thôi, cũng có khả năng sẽ bị sửa đổi...

- Nghe Trọng Phương nói câu này dường như là có hàm ý khác...

Ánh mắt Vương Hãn ngưng trọng nói.

- Đúng vậy.

Trần Khác trầm giọng nói:

- Không giấu gì Vương Công, ta nghe nói tân nhiệm Tri Châu tại Quảng Châu đã đề cử Thị Bạc Ti một người họ Hàn tên Kha, năm sau sẽ nhậm chức.

- Hả?

Mặt Vương Hãn nhất thời biến sắc nói:

- Quả thật đã có việc này ư?

Hàn Kha thì cũng bình thường thôi, nhưng gã lại có một tên người anh tên là Hàn Kỳ...

- Ừm.

Trần Khác gật đầu.

- Ah...

Vương Hãn trầm ngâm, cái này thực sự là khó giải quyết. Hàn Kha là quan Ấm Phụ, thi mãi nhưng cũng không đậu được Tiến sĩ, bởi vậy con đường làm quan có phần không được thông thuận. Hiện giờ cho dù huynh trưởng của gã đang có địa vị cao sang, nhưng muốn đề bạt cho gã thì gã cũng phải có thành tích ưu tú mới được.

Tài chính Đại Tống khó khăn, Thị Bạc Ti tại Quảng Châu lại có điều kiện khá tốt, Hàn đại nhân đã để sẵn một cánh cửa, chỉ cần có kết quả thi xuất sắc nổi trội là sẽ được thăng chức hồi kinh, làm quan lớn trong Bộ đường. Lúc này, nếu như Khâm Châu cảng được thông thương thì Thị Bạc Ti tại Quảng Châu tất nhiên sẽ phải chịu ảnh hưởng, nếu như thuế khóa bị giảm sút thì... mộng thăng quan của Hàn Kha chắc chắn sẽ bị thất bại đến tám phần.

Nhưng đó cũng không phải vấn đề gì lớn, cho dù Hàn Kỳ có thế lực nhưng với quyền thế vững mạnh của Trần Khác bây giờ, chỉ cần hắn đưa ra được lý do thuyết phục, kiên trì với ý kiến của mình thì Hàn tướng công cũng không thể vì một tên Hàn Kha mà bỏ qua đề xuất của Trần Khác được. Đương nhiên, đường quan lộ sáng lạng của người ta vừa mới bắt đầu, cho nên Trần Khác không muốn đắc tội với Hàn tướng công cũng là chuyện có lí.

- Trọng Phương, ta biết việc này khiến đại nhân rất đau đầu.

Vương Hãn định tâm lại rồi nói:

- Nhưng nếu đại nhân thực sự không muốn nhận lời thì cũng đâu cần phải kéo ta tới Khâm Châu lần này.

Dừng một lát, Vương Hãn lại bình tĩnh nhìn Trần Khác nói:

- Đại nhân còn có yêu cầu gì khác thì cứ việc nói đi. Kể cả việc đó có làm được hay không thì ta cũng sẽ cố gắng hết sức hoàn thành!

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Trần Khác đương nhiên là muốn rời cảng biển đến Khâm Châu, nếu không thì lúc trước hắn đã không cho người xây dựng nên bến tàu này.

Hắn có một kế hoạch lớn liên quan đến vùng biển, không những chỉ liên quan đến đường lui của mình sau này, mà còn liên quan đến cả tương lai của triều đình Đại Tống. Quảng Châu tất nhiên là nơi đã có mọi thứ đầy đủ, nhưng vừa làm Thị Bạc Ti đệ nhất thiên hạ, vừa làm thủ phủ, là nơi xếp đặt nha môn Chuyển Vận Sứ thì sẽ trở thành điểm nóng trong mắt không ít người, rồi sau đó muốn tiếp tục làm cái gì cũng sẽ không tiện. Không như ở Khâm Châu này, trời cao Hoàng đế ở xa, làm gì cũng sẽ không có ai tới quản nên rất thoải mái.

Không nói lời ám chỉ trước mặt người sáng mắt, vì thế nên hắn cũng không khách khí với Vương Hãn nữa, ngay lập tức liền đề cập thẳng tới quyền bao thuế mười năm trong tương lai đối với Dịch Vụ Các của Khâm Châu cảng — Tức là hàng năm ngoài khoản thuế định mức phải nộp cho triều đình, toàn bộ doanh thu của bến tàu và thu nhập từ thuế sẽ do người bao thuế quản lý. Chế độ về thuế này thường được sử dụng ở bến tàu và chợ bán buôn nội địa, chứ chưa hề được áp dụng ở nơi bến cảng thông thương vùng duyên hải bao giờ.

Đó là do Tống triều chỉ áp dụng chế độ bao thuế này chủ yếu đối với các nơi không thuận tiện thu thuế, hoặc là nguồn thuế ít, nhằm làm giảm chi phí thuế vụ. Còn đối với những bến cảng thông thương có kim ngạch thương mại lớn như thế này thì hiển nhiên triều đình sẽ phải phái người đến để tự mình thu thuế.

Tuy nhiên Trần Khác cam đoan với Vương Hãn, hàng năm sẽ trả cho Quảng Tây tám mươi phần trăm tổng tiền số tiền thuế thu được của năm trước, chỉ chừa lại hai mươi phần trăm để làm phí bảo dưỡng bến tàu hàng ngày và trả công cho nhân viên. Đối với việc này, triều đình có thể phái uỷ viên chuyên môn đến giám sát thuế.

Vương Hãn quả thực không tin vào tai mình, trên đời này sao lại có thể có được chuyện tốt như vậy sao? Theo kinh nghiệm của Vương Hãn, bên bao thuế và quan phủ thường phân chia theo tỷ lệ năm năm, Trần Khác lại chia theo tỷ lệ hai tám, vậy thì quyền bao thuế nhập khẩu kia còn có ý nghĩa gì nữa?

Đối với loại người khôn khéo như Vương Hãn, đương nhiên Trần Khác phải giải thích cho rõ ràng, hắn thản nhiên cười nói:

- Kỳ thật thì có tiền hay không, không phải là điều ta phải lo nghĩ. Điều làm ta không yên lòng chính là sự phát triển của Khâm Châu cảng, đã không làm thì thôi, nhưng nếu làm thì phải làm cho thật hoành tráng, khiến cho Khâm Châu cảng trở thành đầu rồng kéo tất cả vùng tây nam phát triển lớn mạnh lên.

Nói xong Trần Khác nhẹ nhàng thở dài rồi nói tiếp:

- Nói to tát lên thì nếu để cho người khác làm việc này, ta không yên tâm chút nào. Nếu có thể, ta thật sự muốn dâng tấu xin triều đình điều đến Khâm Châu, chuyên môn phụ trách khu này. Nhưng mọi sự bên Đông Xuyên kia mới chỉ bắt đầu, ta không thể bỏ mặc được, vì vậy cho nên ta mới phải phân ra như vậy, xin Vương công chớ trách.

- Ôi, sao Trọng Phương lại nói thế, lão phu rất tán thưởng phần đảm đương này của đại nhân!

Chỉ cần nói rõ ràng ra, Vương Hãn tất nhiên là sẽ nghe theo thôi. Sau đó nhân thể Vương Hãn suy tính cho Trần Khác nói:

- Tuy nhiên, triều đình lại cấm quan viên kinh doanh, mặc dù chỉ là trên giấy tờ thôi nhưng nếu đại nhân làm như vậy thì sẽ bị muôn vạn dân chúng nhìn vào, không khỏi sẽ bị người ta bắt được nhược điểm này.

- Ừ.

Trần Khác vuốt cằm nói:

- Đó đúng là một vấn đề thật, hay là như thế này đi, ta cho vài thương nhân đáng tin cậy ra mặt, sau đó thành lập một hiệu buôn, các công việc ngày thường sẽ do bọn họ xử lý, còn ta chỉ ở phía sau chỉ đạo mà thôi.

- Như vậy cũng được.

Vương Hãn gật đầu cười nói:

- Đại nhân nói ra như vậy làm cho ta cũng phải động tâm rồi.

- Tâm động không bằng động tay, lão trượng có tiền nhàn rỗi không, lấy ra một phần đầu tư vào đó đi?

Trần Khác cười nói.

- Có thể xem xét.

Vương Hãn cười nói:

- Tuy nhiên lão phu cũng không thể lấy ra được nhiều lắm.

Tới tuổi này rồi, dù sao Vương Hãn cũng phải suy tính cho ngày sau, mua ruộng tậu đất quá mức nhiều thì sao có thể thoải mái ung dung như vậy?

- Không thành vấn đề, cái này ta làm chủ được.

Trần Khác lúc này đánh nhịp nói:

- Vương công xuất ra một ngàn quan là sẽ được một thành cổ phần rồi.

- Vậy sao được...

Vương Hãn nhăn mặt nói:

- Như vậy khác nào ta sẽ vớ được món hời của các người.

- Nếu như sau này được Vương công quan tâm nhiều hơn thì bọn họ cũng sẽ kiếm lại được món hời khác thôi.

Trần Khác cười ha hả nói:

- Cứ quyết định như vậy đi!

- Được, vậy thì ta cũng không khách khí nữa.

Mọi phiền não của Vương Hãn đều đã tiêu tan hết, trong lòng phấn khởi nói:

- Người đâu, mau bày tiệc rượu, lão phu cùng với tân khoa Trạng Nguyên phải uống thoải mái một phen!

- Nếu ta mà không hợp tác thì chắc vẫn còn đang phải đói bụng phải không?

Trần Khác cười khổ không ngừng nói.

- Ha ha ha...

Vương Hãn chỉ biết cười liên hồi.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Một lát sau, tiệc rượu đã được dọn lên. Quan viên Tống triều ăn uống rất cầu kì, cho dù đây là chốn thâm sơn cùng cốc thì cũng không thể qua loa được. Ngoài hai mươi tư món gồm có tám món khô, tám món tươi, tám món hoa quả, lại có mười hai món mặn nóng, tám món chay, lại thêm mười tám món hải sản…

Ở Biện Kinh, ăn hải sản là chuyện rất xa xỉ, nhưng ở Khâm Châu vịnh này thì hải sản lại dồi dào, hải vị cần gì có nấy, thành ra ăn uống no nê thoải mái. Nhìn những món hải sản trước mặt được chế biến tỉ mỉ, trình bày tinh tế, phối liệu phức tạp, hương thơm nồng đượm, Trần Khác không ngừng nhíu mày.

- Thế nào, Trọng Phương? Không quen ăn hải sản ư?

Vương Hãn thân thiết hỏi.

- Không phải, hải sản chính là sở thích của ta.

Trần Khác cười khổ nói:

- Nhưng những nguyên liệu này lại bị đầu bếp chế biến quá phức tạp khiến cho ta không khỏi có cảm giác tiếc của trời.

- Hả?

Vương Hãn cười nói:

- Trước đã nghe nói Trọng Phương có sở trường về tay nghề làm bếp, không biết có cao kiến gì?

- Bản thân hải sản vốn đã rất tươi.

Trần Khác cười nói:

- Đầu bếp vì muốn thức ăn nhìn trông thật đẳng cấp nên đã chọn dùng những phương thức chế biến phức tạp, lại dùng những mùi nhân tạo nên đã làm mất đi sự tươi ngon tự nhiên của hải sản. Đây chẳng phải giống như có lòng tốt mà lại làm chuyện xấu sao?

- Đúng thế. Ta đến Quảng Tây bao nhiêu năm nay nhưng tổng cộng chỉ ăn hải sản có vài lần, cũng là bởi vì cảm thấy mùi vị của nó toàn dựa vào các loại gia vị, bản thân ta không thấy có hứng thú gì.

Nghe Trần Khác nói có đạo lý rõ ràng, Vương Hãn cười nói:

- Trọng Phương đã nói như vậy nghĩa là thực lòng muốn nếm thử chút gì đó tươi ngon rồi.

- Chuyện này thì có gì khó?

Trần Khác cười nói:

- Để tên đầu bếp đi theo ta, ta sẽ ra tay làm vài món hải sản sở trường, lúc đó lão trượng sẽ biết lời nói của ta không giả.

- Được. Hôm nay lão phu được thơm lây nên có lộc ăn rồi.

Vương Hãn mừng rỡ nói:

- Mau mau phân phó xuống dưới đi.

Nguyên liệu nấu ăn đều đã có sẵn, chế biến hải sản lại cực nhanh. Vì vậy chỉ trong chớp mắt, người hầu đã bưng lên một món cá ban hấp, dùng lá sen tươi phủ lên trên, mặt trên cá có cẩu kỷ tử, táo đỏ và ngân nhĩ, chân giò hun khói các loại..., tuy rằng xem qua thì rất đơn giản nhưng thực ra cũng không tầm thường chút nào.

Vương Hãn vừa cầm đũa thử một miếng, quả nhiên vừa đưa vào miệng đã cảm thấy khác lạ, vị ngon vô cùng, y lại uống một ngụm rượu Tiên Lộ do Trần Khác mang đến, trong người liền có cảm giác như bao nhiêu công danh lợi lộc đều trở thành phù vân hết.

Vương Hãn khen không dứt lời, lại có người bưng lên món cá Tô Mai Tam Điệp, món này so với món trước thì phức tạp hơn một chút, người ta đem loại cá Tô Mai quý báu giết sống rửa sạch, sau đó lọc thịt từ hai mặt rồi cắt thành miếng dày hình chữ nhật. Sau đó chân giò hun khói, nấm hương cũng cắt thành hình dạng như miếng cá, xếp chồng lên cùng miếng cá thành ba hàng, cuối cùng cắt rời đầu cá và đuôi cá ra, đặt ở hai đầu, gắn lại thành hình một con cá hoàn chỉnh, nổi lửa to để hấp chín rồi mới lấy ra.

Khi bưng lên trông rất đẹp mắt, màu xanh, đỏ, đen, trắng phân ra rõ ràng, thịt cá trơn mềm, cùng vị đượm của chân giò hun khói và nấm hương, trở nên vô cùng tươi ngon hấp dẫn.

Ngoài món hấp, còn có nhiều món chế biến khác như xào, nướng, xiên…, so với món đun nhừ ban đầu thì phải ngon hơn gấp trăm lần. Ngoài cá, còn có sò hến, tôm cua, cách chế biến càng đơn giản hơn, chỉ nhúng vào nước sôi một lúc chấm vào nước gia vị tự tạo rồi ăn luôn, hương vị tươi ngon vô cùng.

Cuối cùng, đầu bếp bê lên một cái nồi đất đựng cháo còn đang sôi sùng sục, cho thêm một bát lớn nhím biển vào để làm thành món cháo nhím biển mà Trần Khác yêu thích nhất... Kiếp trước, khi hắn có chút gia sản cũng không dám ăn nhím biển như vậy, nhưng ở thời điểm hiện tại, người Tống triều không dám ăn nhím biển, vì vậy chi phí cho một nồi cháo nhím biển còn không bằng một đĩa thịt bò xào, cho nên cứ đến bờ biển thì Trần Khác nhất định phải cho người làm món này để ăn cho thật đã.

Người Tống ăn uống thanh đạm, không thích nhiều mỡ, hải sản chính là sở trường của Vương Hãn. Ăn xong, uống một bát cháo nhím biển thơm ngon bổ dưỡng, cả người cảm thấy vô cùng thoải mái. Vương Hãn say khướt nói:

- Hoá ra tiệc rượu không có ca múa cũng có thể làm cho người ta được thỏa mãn như thế này.

Quan viên Tống triều chú trọng hưởng thụ, đã là yến hội thì nhất định phải có ca múa, nếu không sẽ không trở thành tiệc rượu. Lần này điều kiện đơn sơ, không có ca múa, Vương Hãn vốn vẫn cảm thấy không vui trong lòng, nhưng đến lúc này, sau khi đã ăn một bữa tiệc hải sản đích thực, y đã quên hết tất cả, chỉ muốn ngủ một giấc thật ngon.

Thấy Vương Hãn đã say, bên ngoài trời cũng đã tối, Trần Khác liền cáo từ rời tiệc, chuẩn bị trở về chỗ ở nghỉ ngơi.

Vừa ra khỏi phòng, hắn liền bắt gặp một vầng trăng non treo trên mặt biển, đầy ắp một bầu trời sao dát bạc lên những con sóng, hơi mặn của gió biển đưa tới tiếng sóng vỗ nhịp nhàng.

Liễu Nguyệt Nga nhất thời bị cuốn hút bởi cảnh sắc hùng vĩ hấp dẫn này. Thực ra vào lúc ban ngày, khi lần đầu tiên nhìn thấy biển rộng, nàng đã cảm thấy rung động thật sâu, nhưng lúc ấy do chỉ chú ý đến sự an toàn củaTrần Khác nên nàng cũng không ngắm nhìn được nhiều.

- Đi dạo bên bờ biển một lát đi.

Trần Khác dịu dàng nói.

V