- Công tử lại không sợ cảm thấy có lỗi nữa sao?
Đỗ Thanh Sương giễu cợt nói.
- Bởi vì đã không còn cảm thấy có lỗi nữa rồi.
Trần Khác áp sát vào, thanh âm trầm thấp nói:
- Thời gian giống như một cây đao sắc bén, đã loại bỏ hết những ý tưởng dơ bẩn đi. Nó còn giống như một cái lưới tinh lọc, những gì đã lắng đọng xuống dưới thì không cách nào vứt bỏ đi được. Thanh Sương, ta loại bỏ chính là vô sỉ, hư vinh, dục vọng với nàng. Đối với tình cảm dành cho nàng thì lại lắng đọng xuống dưới…
- Không phải công tử nói chỉ là một lần kích động thôi sao?
Đỗ Thanh Sương cắn chặt môi, mặt đỏ bừng nói.
- Mỗi một chuyện lúc bắt đầu thì chúng ta đều không thể dự đoán được kết cục. Bất luận mọi biến hóa đều khiến nó phát sinh sự thay đổi. Nếu không có một lần đó, ta cũng không dám hy vọng có thể nhúng chàm Thanh Sương. Nhưng nếu như ta đã đi trên con đường này, chúng ta không chỉ làm một đôi tri âm, còn có thể làm một đôi tiên lữ một đời. Đây thực sự là tâm nguyên của tiểu sinh, không biết Thanh Sương có đoái thương không.
- Thanh Sương cũng không phải tiên tử. Thanh Sương chỉ là một gốc cây cỏ hèn hạ trong hồng trần.
Thân thể mềm mại của Đỗ Thanh Sương bị những lời tâm tình nóng bỏng của Trần Khác làm cho dần dần ấm áp lại. Hai tròng mắt của nàng như muốn rơi lệ nói:
- Công tử quá đề cao thiếp rồi, Thanh Sương không đảm đương nổi.
- Ta không hề đề cao nàng, mà là nàng quá coi thường mình. Nàng quá để ý mọi việc. Thật ra nàng là một nữ tử cơ khổ, rơi vào hồng trần, không thể tự chủ được, mặc cho người khác định đoạt. Chân chính thể hiện nàng là người như thế nào chính là thời điểm nàng ở đây, giữ sự trong sạch tự cao, giữ gìn trinh tiết. Điều đó đã nói lên hết thảy mọi việc.
Nói xong, Trần Khác nhẹ nhàng giữ vòng eo nhỏ nhắn của Đỗ Thanh Sương lại, dịu dàng nói:
- Thanh Sương, nàng là một cô gái tốt nên được mọi người thương tiếc. Để ta theo đuổi nàng thêm một lần nữa đi.
- Công tử đã quá lời rồi.
Đỗ Thanh Sương vốn đã bị những lời tâm tình của hắn làm cho say mê rồi. Nhưng nghe đến câu nói sau cùng của hắn, lại nhẹ nhàng và khéo léo né người ra ngoài, cười nói:
- Lần này Thanh Sương đã có kinh nghiệm, không phải có thể dễ dàng tới tay như vậy.
- Nói như vậy là ta tự mua dây buộc mình rồi hả?
Trần Khác gãi đầu, cười ha ha nói:
- Tuy nhiên, mong Thanh Sương chỉ cho môt đường sáng. Tại hạ cũng không quá thành thạo việc này.
- Loại chuyện này, Thanh Sương cũng không thành thạo đâu.
Đỗ Thanh Sương một tay che miệng cười nói:
- Phải xem thành ý của công tử thế nào.
- Được rồi, bắt đầu từ ngày mai. Cứ có buổi biểu diễn của nàng. Ta nhất định sẽ cho người tặng hoa.
Trần Khác cười nói.
- Công tử không sợ người khác biết sao?
Đỗ Thanh Sương lưu chuyển đôi mắt đẹp nói.
- Ta chính là muốn cho bọn họ biết.
Trần Khác cất tiếng cười to nói :
- Đỗ Thanh Sương là người của Trần Tam Lang. Ai cũng đừng mong đoạt được !
Mặc dù Trần Khác rất muốn hôn lên khuôn mặt của nàng, nhưng hắn lại mạnh miệng nói khoác. Dùng cơm chiều xong, lại nói thêm một lát, nói chuyện xong đành phải rời đi. Bất quá đối với nơi thành Biện Kinh không có đêm này mà nói, ngày hôm nay vẫn thật sự còn rất sớm…
Tối nay, trong thành Biện Kinh, các tửu lầu đều bị các sĩ tử khoa này chiếm lấy. Nhóm người này đều bị vây giữa những nữ tử đầy thanh xuân, động lòng. Cuối cùng sau một hành trình dài, bất kể là thi đậu hay thi rớt đều tới chung một nơi. Hôm nay có kết quả, giá trị của những sĩ tử đoạt giải này đã tăng lên gấp trăm lần, cần phải khoe với mọi người. Còn những người thi rớt bảng vàng thì uể oải vô cùng. Tương phản to lớn khiến cho bọn họ phải đi tìm người khác phái an ủi. Vì thế tình hình kinh doanh trong tửu lâu, kỹ viện đều rất náo nhiệt, quang cảnh nghênh đón khách nhân bận rộn.
Cũng may thành Biện Kinh này vô cùng phong lưu, đâu chỉ có một ngàn nơi trăng hoa? Chu Tước môn ở phía đông ngõ Mạch Kiệt, ở phía Tây ngõ Sát Trư; Trạng Nguyên lâu ở bên ngoài Bảo Khang phố; Cự Tào môn ở bên ngoài Tả Nhai phố, Ngưu Hành phố, Mã Hành phố, Liêu Nhi Thị Đông, Tây Kê ngõ còn có Tiền Chi Đào Hoa động ở trước Cảnh Đức Tự, xa hơn là sau ngõ Chi Khương Hành. Tất cả đều là những nơi trăng hoa nổi danh trong kinh. Trong lúc oanh oanh yến yến đâu chỉ mấy vạn? Cũng không đếm được có bao nhiêu u phương, ngõ nhỏ, yên quán ca lâu, vô cùng vô tận… Trải rộng mỗi nơi bên trong thành Biện Kinh.
Ngoài trừ những quán chỉ có riêng kỹ nữ, tửu lâu cũng là nơi hoạt động chủ yếu của kỹ nữ. Trước cửa lớn của các khách sạn trong kinh thành đều treo màu sắc rực rỡ chúc mừng. Màn đêm buông xuống, ánh đèn rực rỡ sáng lên. Ánh đèn huỳnh hoàng từ trên xuống dưới cùng chiếu sáng. Thường xuyên có mấy trăm danh kỹ đứng dựa vào lan can, nhìn các nàng uyển chuyển giống như thần tiên, đưa tay chỉnh lại dung nhan, sống mắt lưu chuyển, cười khanh khách khéo léo, chờ đợi khách nhân uống rượu gọi tên.
Còn có những kỹ nữ hạ đẳng, từ trước đến này không cần gọi tên, tự đi vào tiến cử với khách nhân trước, trước tiên hát vài khúc rồi cùng ngồi uống rượu, càng nhiều vô số kể.
Khoa trương nhất chính là, ngay cả Hoàng Thành Tuyên Đức lâu… Tương đương với bây giờ, những du học sinh bên Tây về đi làm kỹ nữ, giờ phút này cũng đang ở mở tiệc vui vẻ Bất Dạ Thiên (ngày không đêm).
Một hồi lại một hồi, một đoạn lại một đoạn, từ Tần tửu lâu thanh âm cười đùa mua vui trong miệng truyền ra. Tiếng cười vui của người dân, tiếng đàn sáo, âm thanh uống rượu sảng khoái. Không ngờ lại truyền qua bầu trời đêm, truyền vào thâm cung, truyền đến bên tai hoàng thượng.
Vừa mới ngồi điều tức, làm long thể Hoàng thượng bình phục không ít. Mà việc ăn đan dược khiến cho Triệu Trinh luôn cảm thấy khô nóng, bởi vậy Triệu Trinh luôn thích tản bộ trong cung lúc ban đêm. Triệu Trinh cảm thấy gió kia lạnh nhưng có thể khiến người tỉnh tảo, cũng có thể khiến người bình tĩnh.
Lúc này, Triệu Trinh đi đến trước cửa ngân đài, nghe được tiếng nhạc truyền đến, không kìm được hỏi:
- Đây là nơi nào đang mua vui vậy?
- Theo lão nô biết.
Hồ Ngôn Đoái nhẹ giọng đáp:
- Đây là âm thanh mua vui của tửu lâu dân gian.
- Ha ha, gọi những kỹ quán bên ngoài hoàng cung đến đây.
Triệu Trinh cười rộ lên nói.
- Ngày mai nô tài sẽ nói với phủ Khai Phong diệt trừ bọn họ.
Hồ Ngôn Đoái hạ giọng nói.
- Tại sao phải diệt trừ?
Triệu Trinh lắc đầu nói:
- Bọn họ cũng không làm phiền quả nhân. Hơn nữa, còn có thể khiến thâm cung vắng ngắt này có chút cảm giác náo nhiệt.
Xong lại chỉ ngân đài nói:
- Đi lên đó xem một chút, nhìn một chút cảnh tượng ngoài cung như thế nào.
- Hoàng thượng, ban đêm rất lạnh.
Hồ Ngôn Đoái nói.
- Đưa áo choàng cho quả nhân là được.
Hoàng thượng vẫn kiên trì đi lên ngân đài, liền thấy được đêm Biện Kinh đèn đuốc sáng trưng. Tưởng tượng sự sống về đêm muôn màu muôn vẻ của các con dân, trong lòng Triệu Trinh không khỏi cảm thán mình ở trong cung vắng ngắt, hâm mộ những việc náo nhiệt bên ngoài. Nhưng chung quy Triệu Trinh vẫn không phải là một vị vua phong lưu mất nước, không làm ra việc ‘đêm xuất cung đến cửaa tìm danh kỹ.’
Với vị Hoàng thượng này mà nói, đối với sự phồn hoa phía bên ngoài Hoàng cung, cũng chỉ có thể hâm mộ… và tự hào.
- Có đôi lúc, lão nô cảm thấy Hoàng thượng thật oan khuất.
Hồ Ngôn Đoái cũng cảm khái nói:
- Các triều đại đổi thay, đều là toàn bộ người trong thiên hạ hâm mộ Hoàng đế mỗi đêm ca múa. Nào có ai như người vậy? Hoàng đế lại đi hâm mộ cuộc sống của dân chúng…
- Lão Hồ à.
Triệu Trinh vỗ lên vai của Hồ Ngôn Đoái, cười nói:
- Hoàng đế và dân chúng, làm gì có lúc nào cũng sung sướng? Ngươi xem những hiền quân từ xưa đến nay, đều phải kham khổ tự giữ lấy mình. Như vậy mới có thể gánh vác được việc thiên hạ, mới có thể khiến dân chúng thiên hạ được hưởng dân sinh. Ngược lại, nếu Hoàng đế chỉ biết chính mình hưởng thụ, để cho người trong thiên hạ phụng dưỡng. Dân chúng ăn không no, thì lúc đó làm gì có việc sung sướng đáng nói? Ngươi nói quả nhân làm sao có thể cười vui được? Sao bằng cả thiên hạ này cùng nhau vui mừng được?
- Ôi, Hoàng thượng, người quả thật rất ủy khuất.
Đôi mắt Hồ Ngôn Đoái ướt át nói.
- Không ủy khuất.
Triệu Trinh hiếm khi được vui sướng, cười nói:
- Ngươi xem thành Biện Kinh phồn hoa này, vạn dân sung sướng bao nhiêu thì quả nhân sẽ được bấy nhiêu sung sướng!
Đáng tiếc là Hoàng thượng không được nhìn thấy những phong cảnh mỹ lệ, kiều diễm xinh đẹp của thành Biện Kinh…
Thành Biện Kinh nổi danh nhất chính là các nữ tử, nổi tiếng nhất chính là các danh kỹ, cũng không phải những kỹ nữ ồn ào huyên náo trong quán. Bên trên mặt sông thịnh vượng mới có thể tìm được các hoa thơm.
Nhất là trên sông Biện, từ cầu Kim Lương đến cầu Châu. Lại kéo dài đến cầu Tướng Quốc Tự, vùng sông quanh co khúc khuỷu nhưng lại thành một vùng Thủy Môn, một nhà lại sát một nhà. Đó là nơi ở của những danh kỹ Biện Lương xinh đẹp vô cùng.
Ở đó những danh kỹ này gọi là hà phòng, cũng xưng là Hà lâu. Phượng Các, Loan Lâu đều có cấu trúc cực kỳ tinh xảo hoa lệ, bức tranh hòa điêu lan, trướng treo cửa bằng tơ lụa. Ban đêm đèn dầu thắp sáng lại được mặt nước phản chiếu, rực rỡ mê ảo như chốn tiên cảnh. Vùng Hà lâu nổi danh này có mấy chục nhà, mỗi nhà đều có một vị hoặc vài vị tiểu thư xuất sắc vô cùng.
Trong đó, danh tiếng nhất có hơn mười nhà. Chủ nhân đều là danh kỹ sắc nghệ song toàn, tài nghệ trấn áp cả những kỹ nữ hoa thơm cỏ lạ. Cho dù người là vương tôn công tử, nhà quyền quý, muốn đến thăm cũng phải hẹn trước. Còn phải xem tâm tình của các danh kỹ như thế nào.
Tuy nhiên, phần lớn thường là nhóm danh kỹ này chủ động mời đón. Trước mắt thấy tháng sau sẽ mở Hoa bảng, cho dù danh kỹ bình thường có danh khí lớn như thế nào, cũng không dám phớt lờ đại hội Hoa bảng này. Tất cả đều ra một cái giá, gửi phần lớn thiệp mời, đem những Vương tôn danh chấn kinh thành, bụng đầy kinh văn, những kim chủ bạc triệu, tất cả đều được mời đến yến hội của mình.
Tựa như Trần Khác vừa có danh vừa có tiền, lại có tài, đương nhiên trở thành bánh trái thơm ngon trong mắt các danh kỹ. Vào ban ngày, các nàng đều giống như Khởi Mị Nhi vậy, tự mình đến mời hắn. Nhưng đêm nay Trần Khác phải phó ước với Đỗ Thanh Sương, bởi vậy nhịn đau từ chối tất cả.
Ai ngờ lúc này mới đến giờ hợi mà hắn đã bị đuổi đi. Về nhà ngủ thì quá sớm, suy nghĩ một chút, buổi chiều Lý Giản đã mời mình đi dự tiệc cổ động, nhưng bị mình cự tuyệt, sau đó còn chửi mình trọng sắc khinh bạn. Trần Khác liền cho xe ngựa hướng về phía sông Biện đến Thính Vân hiên. Nơi đó là Tích Hoa lâu.
Lúc Trần Khác đến, yến hội đã bắt đầu được hơn phân nửa. Hắn đưa ra thiệp mời, hai Lục sự vội vàng mời hắn đi vào.
Cái gọi là Lục sự, vốn là tên chính thức của chức tổng chưởng quỹ ghi chép sổ sách lục văn. Bởi vậy, quản lý tửu lệnh khi uống rượu cũng gọi là ‘Lục sự’. Nguyên nhân là do kỹ nữ bồi rượu thường phụ trách giam rượu. Dần dần ‘Lục sự’ này liền biến thành danh xưng nhã nhặn của kỹ nữ. Làm cho khi xưng hô lẫn nhau, cũng bớt đi được nhiều sự xấu hổ.
Sau khi đi vòng qua bình phong, liền thấy trong thính đường vô cùng náo nhiệt. Bốn bàn vuông được xếp gọn trong thính đường không được lớn. Trên bàn đây món ngon rượu ngon. Bên cạnh bàn ngồi đầy những hào khách đến đây cỗ vũ, bên cạnh mỗi người đều có một kỹ nữ bồi rượu, còn có vũ đạo, kịch ca múa, đàn hát, không khí rất náo niệt.
Nói thật ra, tràng diện này nhìn thì náo nhiệt, nhưng đẳng cấp lại không cao. Tuy nhiên đó cũng là bình thường, ở đây đứng đầu chính là Hồng tỷ, quan hệ căn cơ của nàng với cái đại quan trong kinh thành vẫn còn thấp. Cho nên khách nhân được mời tới chủ yếu chính là các thương nhân.
Cho nên vừa thấy Trần Khác đến đây, Cổ Tích Tích và tất cả khách nhân đều cảm thấy thụ sủng nhược kinh, tất cả đều đứng dậy chào đón. Lý Giản ngồi ở chủ vị, mặt mày hồng hào nói:
- Thế nào, ta nói đúng không. Trần tướng công nhất định sẽ tới mà! Giao tình giữa chúng ta rất tốt.
Nói xong kéo mạnh hắn ngồi lên ghế trên.
- Đồ thì có thể ăn bậy, lời thì không thể nói bậy.
Trần Khác khiêm tốn một phen, liền ngồi xuống bên cạnh Lý Giản cười nói:
- Tướng công là cách xưng hô của những người quan to.
- Ôi, lần này ngươi đậu Tiến sĩ, sớm muộn gì cũng làm Tướng công thôi.
Lý Giản cũng chẳng để ý cười nói:
- Hiện tại xưng hô sớm một chút cũng không phải là quá đúng không??
- Ngươi nằm mơ đi, đừng có hại ta.
Trần Khác trừng mắt nhìn gã một cái nói:
- Đừng nói tướng công, ta hiện tại đến cả Tiến sĩ cũng không phải.
- Đều như nhau, đều như nhau.
Lý Giản vỗ mông ngựa, ngượng ngập cười. Cổ Tích Tích bên canh vội vàng hòa giải cho gã nói:
- Quy củ của quan trường đúng là có rất nhiều. Đại nhân cũng phải suy nghĩ cho công tử a.
Xong lại cười cười nói:
- Ví dụ hoa lâu trên sông Biện này, ngày sau chỉ đến ngày lễ tết công tử mới có thể đến một chút.
- Làm sao bình thường lại không cho đến?
Lý Giản lấy làm lạ nói:
- Ta thấy đám sĩ tử kia giống như hận không thể được ở luôn trong thanh lâu?
- Sĩ tử là sĩ tử, tiến sĩ là tiến sĩ.
Cố Tích Tích giải thích nói:
- Đại Tống triều không cấm sĩ tử vào thanh lâu. Nhưng sau khi lên làm quan thì không thể nào tùy tiện. Quan viên triều đình liên quan đến thể diện quốc gia, đương nhiên là cấm tới thanh lâu.
Nàng nũng nịu rót rượu cho Trần Khác nói:
- Tuy nhiên, tết Nguyên Đán thì ngoại lệ. Đám quan viên cũng phải nghỉ ngơi nha.
- Cũng không chính xác lắm.
Lý Giản không cho là đúng nói:
- Khi ta ở Thành Đô, thấy đám quan lại ra vào kỹ viện so với nha môn còn chịu khó hơn.
- Đất Thục là nơi trời cao Hoàng đế xa, làm sao có thể giống với chỗ dưới chân thiên tử này?
Trần Khác cười nói:
- Nói vậy tiểu quan ở kinh thành thì phải kham khổ sao?
- Tuy nhiên cũng may công tử vừa đoạt giải thì đã ra ngoài rồi.
Cố Tích Tích an ủi hắn nói:
- Quan viên ở các địa phương, trong yến hội có thể gọi Lục sự trợ hứng. Ngự Sử cũng không xen vào.
- Làm sao có thể so sánh được với thành Biện Kinh?
Lý Giản cũng không cho là đúng nói:
- Ta xem làm quan như vậy cũng không quá vui vẻ.
- Đại quan nhân nói đùa rồi.
Cố Tích Tích cười nói :
- Quan viên Đại Tống triều ta lương bổng nhiều. Quan viên cho dù không thể đến thanh lâu, cũng có thể nuôi cơ thiếp trong nhà mà. Trong kinh này, có vị đại nhân nào mà không có một đoàn nhạc nữ ở trong nhà? Nói về bộ dáng tài tình, nhân vật phong lưu, cũng không kém chút nào so với hoa lâu.
Trần Khác gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Hắn ở trong nhà Âu Dương Tu nhìn thấy ca kỹ, tố chất cao hơn nơi này không ít.
Trong khi mấy người đang nói chuyện, đại thương nhân Hầu Nghĩa lại đây mời rượu. Lý Giản thật ra chỉ là một tiểu cổ đông, nhưng người ta là chủ của cả một sản nghiêp, luận về của cải, luận về lực ảnh hưởng thì Lý Giản không thể so với y. Cho nên hôm này Hầu nghĩa tới đây có nghĩa là đã nhìn vào mặt mũi của hắn.
Tuy nhiên có thể nhìn ra, Hầu viên ngoại thực sự rất coi trọng Trần Khác, còn muốn hơn Lý Giản nhiều lắm. Y bưng rượu cười chân thành với Trần Khác, biểu đạt sự chúc mừng nhiệt tình nhất.
- Những ngày nay Viên ngoại chắc cũng không tốt lắm a.
Trần Khác cảm thấy y có chuyện muốn nói, liền cho kỹ nữ bên cạnh đứng dậy. Mời Hầu Nghĩa ngồi xuống một bên nói:
- Cần ta giúp đỡ việc gì, ngươi cứ việc nói.
- Đúng là không có gì giấu diếm được công tử.
Hầu Nghĩa cười khổ nói:
- Ai nói tại hạ làm sao lại xui xẻo như vậy đây?
Hầu Nghĩa có sản nghiệp mậu thương ở biên giới rất lớn. Y và người của Nhất Tứ Nhạc Nghiệp kết giao, cũng vì vậy mà hiệu buôn của y hàng năm vận chuyển một số lượng lớn vật tư đến Tây Thùy, thông qua các con đường bán cho người Tây Hạ. Sau đó lại thu mua muối thanh và ngựa mang về Biện Kinh buôn bán. Hai thứ này đều là bảo bối, ngựa thì đương nhiên là khỏi phải nói rồi, còn muối thanh là đặc sản của Hà Sáo. Mùi vị của muối này gần giống với muối ăn kiếp trước của Trần Khác. Ở thời đại này, muối vừa thô vừa đắng, cho nên muối ngon như vậy đương nhiên sẽ được các nhà giàu hoan nghênh, còn có thể xem như là tiền lưu thông.
Hầu Nghĩa ở giữa buôn qua bán lại phát tài lớn, trở thành một siêu cấp thương buôn trong Tống triều. Nhưng năm nay, việc buôn bán của y bỗng nhiên phải ngừng lại… Bởi vì triều đình cắt đứt quan hệ qua lại với tất cả các thành thị của Tây Hạ.
Nguyên nhân gây ra sự kiện này phải nói đến tên Tư Mã Quang. Lúc lễ mừng năm mới ấy, cả nhà Âu Dương Tu quây quần xong, những người có danh tiếng lớn đều tụ hội. Có người liền hỏi, làm sao mà Tư Mã Quang lại không có mặt ở đây?
Có thể khẳng định mà nói, nếu Tư Mã Quang lúc đó ở kinh thành thì Âu Dương Tu nhất định phải mời gã đó. Bởi vì nhân duyên của Tư Mã Quang rất tốt… Hơn nữa thanh danh cũng rất cao, còn cao hơn cả thanh danh của Vương Anh Thạch. Không có biên pháp, người ta đã sớm nổi danh từ lâu rồi. Bảy tuổi đập vại đã dương danh thiên hạ, trở thành thần đồng được mọi người truyền tụng, lúc đó Vương An Thạch chỉ có năm tuổi. Chính mà một tiểu tử còn mặc quần yếm đi tiểu lung tung.
Hơn nữa, gã cũng không phải là cái loại thánh hiền cổ quái. Lời nói và việc làm của gã tuyệt đối có thể nói là mẫu mực của các sĩ phu. Không giống như Vương An Thạch không nói lý, không thông tình đạt lý.
Nhưng lúc này Tư Mã Quang không ở kinh thành, gã đang ở biên cương. Lại nói tiếp, đây cũng là một việc chua xót, tuyệt đối không phù hợp với con đường làm quan đã được trù tính sẵn của Quang Quang ca. Cha của gã là Tư Mã Trì, đứng đầu Ngự Sử, là quan lại cao cấp Tam Ti Phó Sứ. Con đường làm quan của Tư Mã Quang so với người khác đương nhiên là thuận lợi hơn nhiều.
Hơn nữa, quả thật gã cũng không chịu thua kém. Khi bảy tuổi đã nghiêm nghị như người lớn, yêu thích giảng văn “Tả thị xuân thu”. Thường giảng cho người nhà nội dung chính. Tất nhiên là thích sách đến nỗi không biết đói khát, không biết nóng lạnh… Người ta bảy tuổi đã có thể giảng “Xuân thu” cho người trong nhà rồi. Trần Khác mười tuổi dưới hình thức gian dối mới có thể chỉ cho người nhà đầu cơ vào quán ăn. Quả thật người so với người thì tức chết.
Có tài nhưng thành đạt muộn bình thường đều là rất chuyên tâm. Còn chân chính là ngưu nhân tất nhiên là ngưu từ đầu đến đuôi. Quang Quang ca là một ngưu nhân như vậy, hai mươi tuổi đã đậu Tiến sĩ. Mọi người đều biết rõ, con đường làm quan của gã đã được dọn sẵn. Hơn nữa thường thường là người bình thường không thể nhìn ra được.
Khi Quang Quang ca đậu tiến sĩ còn thuộc hạng cao, hơn nữa còn là một một cái mầm giống tốt. Các đồng sự của cha gã, các lão lãnh đạo cực kỳ coi trọng gã. Muốn ngoại lệ cho gã làm Phụng Lễ Lang trong kinh thành… Đây là một sự ưu ái cực kỳ, bởi vì thời Tống có điều lệ, sau khi đậu tiến sĩ đều phải đi ra ngoài địa phương làm việc.
Không quản ngươi có phải là Trạng Nguyên hay không, cũng phải đi xuống địa phương rèn luyện một vài năm. Cho nên đa số con đường làm quan đều là từ ngoài vào trong. Nhưng Quang Quang ca ngay từ đầu đã có thể làm trong kinh, thật sự là rất đáng ghen tị.
Nhưng gã cũng không nhận, chủ động yêu cầu đến Hàng Châu… Hàng Châu lúc này cũng không phải là thiên đường giống như đời sau, mà là thuộc một khu vực xa xôi. Lý do đưa ra rất cảm động, lão cha làm Thái Thú Hàng Châu đã bệnh rồi. Sau này gã sẽ phụng dưỡng lão phụ đến khi qua đời. Trong lúc giữ tang thì lại càng “Chấp tang luy niên, hủy tích như lễ”. Suýt nữa thì đã bởi vì bi thương quá độ mà chết.
Sau khi đã qua thời gian giữ tang, Quang Quang ca mới trở lại kinh thành nhậm chức.
Chúng ta cũng không biết nguyện vọng lúc đầu của Quang Quang ca là như thế nào. Nhưng gã quả thật đã thông qua chuyện này, thể hiện với mọi người trong thiên hạ, mình là một người “Chí hiếu”. Tại thời đại này “Không hiếu thì không phải là trung thân”, đây chính là tư cách của gã. Vả lại gã cũng không phải là người đầu tiên làm như vậy, hai mươi năm trước, Bao Chửng làm còn hoàn hảo hơn so với gã. Người ta thi đậu tiến sĩ nhưng mười năm không ra làm quan chỉ vì tận hiếu, khi vừa ra làm quan thì đã một bước lên trời. Bởi vậy mới được gọi là Bao Thanh Thiên!
Cũng không biết phụ tử Quang Quang ca có học hỏi kinh nghiệm đó hay không.
Lúc sau này, gã lại biểu hiện ra một việc quan trọng cực tốt, nhưng lại không thích hợp với việc tuyên dương phẩm chất ưu tú bốn phương. Đó chính là hoàn toàn không hề gìn giữ sự trung thành với lãnh đạo. Nhưng lãnh đạo này, không phải Hoàng đế mà là Bàng Tịch.
Quang Quang ca không có vận khí tốt như lão Bao. Sau khi hồi kinh, gã cảm thấy lòng người thật dễ thay đổi. Hóa ra khi gã ra ngoài, trong quá trình chịu tang. Lão đồng sự của phụ thân gã, lão thượng cấp, người thì rời khỏi, người thì ra ngoài, tất cả đều rời khỏi kinh thành, lại không ai nắm giữ miếng bánh thơm trái ngon như gã.
Đợi cả nửa ngày, cũng chỉ được đưa cho một chức tri huyện ngoài ngoại thành. Cũng may rất nhanh gã đã được trở về kinh thành, lên làm Bình Sự Đại Lý Tự… Vì vậy công tác của gã không có chút lực ảnh hưởng gì, chẳng những thế cũng không có tiền đồ gì.
Trong khoảng thời gian này, Quang Quang ca cũng rất buồn khổ. Nhưng cũng may, vận may của gã cũng đến. Lão Bàng Kinh là đồng sự của cha gã năm xưa cũng được hồi kinh, đảm nhiệm chức Xu Mật Phó Sứ. Sau này lại làm đến Tể Tướng. Tư Mã Quang ngay lập tức đi bái kiến Bàng Tịch, cùng lão ôn lại những ký ức chuyện xưa của lão và Tư Mã Trì, từ nay về sau liền tôn kính và kính trọng Bàng Tịch giống như phụ thân.
Bàng Tịch rất ưa thích Quang Quang ca, đương nhiên dày công vạch kế hoạch cho gã, muốn đề cử gã đi Quán Các đảm nhiệm một chức quan trong trường học… Đây là con đường phải đi qua của quan lại cao cấp, nhưng phải có Tể Tướng phê chuẩn. Tuy nhiên hai năm sau, Bàng Tịch chính thức trở thành Tể Tướng, chuyện thứ nhất chính là đề bạt Quang Quang ca. Từ đó Quang Quang ca như diều gặp gió, lên làm Thừa Sự Đại Lý Tự, cũng kiêm luôn trực giảng Quốc Tử Giám, thực quyền và tương lại cùng phát triển.
Nhưng mà ngày vui thường ngắn ngủi. Bàng Tịch sau này đấu tranh trong cung bị thất bại. Người Tây Hạ và Liêu quốc lại kết minh, muốn mưu đồ Đại Tống. Hoàng thượng sợ hãi cho nên phái Bàng Tịch đi Tây Bắc phòng Tây Hạ.
Bàng Tịch không nỡ bỏ Quang Quang ca, muốn dẫn gã cùng đi tới Tây Bắc. Tư Mã Quang rất bất đắc dĩ, nhưng lại không hề biểu hiện ra ngoài chút nào. Nếu không phải gã đã viết một bài “Khổ Hàn Hành”, nói “Cổ nhân hữu vi tri kỷ tử, Chích khủng đống cốt mai biên định”, Hoàng thượng còn thật sự tưởng rằng là gã cam lòng đi rồi.
Bất quá gã cũng biết, đây là việc thăng quan tốc hành. Bao gồm cả Bàng Tịch bên trong, Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ và một đám trọng thần, tất cả đều làm lên từ Tây Bắc. Tuy nhiên điều kiện tiên quyết là phải được điểm danh đến.
Sau đó tên này đã gây ra họa lớn…
Bàng Tịch dẫn Tư Mã Quang tới Tây Bắc, cũng không phải có yêu thích gì đặc biệt, mà là thật tâm thật ý muốn bồi dưỡng y, coi trọng y. Cho nên vừa tới Tịnh Châu Bàng Tịch liền bảo y độc chắn một mặt, đi Lân Châu chỉ huy quân vụ.
Người ở thời đại này xem ra tự mình chỉ cần đọc thông kinh điển Nho gia, thì có thể nắm mọi thứ đại quyền, không gì không làm được. Tư Mã Quang bảy tuổi thì có thể giảng “Tả truyện”, tới bây giờ ba mươi mấy tuổi, kinh thư trong bụng cũng nhiều hơn người khác. Chính như vậy y cũng cho rằng mình văn có thể trị quốc, võ có thể an bang, chỉ là vẫn không có cơ hội phát huy.
Trời đất bao la của Tây Bắc chính là nơi hảo nam nhi tạo dựng sự nghiệp. Cuối cùng Tư Mã Quang có thể thể hiện thân thủ, tất nhiên xoắn tay áo lên thề phải làm một trận ở Lân Châu, giống như chư vị tướng công xây dựng sự nghiệp, sớm ngày tuyên ma bái tướng.
Vừa tới Lân Chân, y liền khẩn cấp đi tiền tuyến tuần tra. Khi đó hai nước Tống Hạ lấy sông Khuất Dã làm ranh giới, Hà Đông là của triều Tống, Hà Tây là của Tây Hạ. Nhưng sau khi tới tiền tuyến, Tư Mã Quang phát hiện, đến bình nguyên Hà Bắc Bạch, mấy chục dặm không có vết tích giặc cướp, cũng chính là không thấy binh Tây Hạ.
Lúc này cái đầu ních đầy tri thức đó của Quang Quang, lập tức hiện ra tin tức tương ứng _ Khuất Dã Hà Tây, từng là đất ruộng của Đại Tống, sản lượng đậu rất nhiều. Sau này quân Tống vô năng, mảnh đất này bị Tây Hạ cướp lấy, thành đất chăn nuôi của người Đảng Hạng. Đồng cỏ phì nhiêu, dê bò thành đàn, quả nhiên là một chỗ bảo địa.
Hôm đó Quang Quang nhìn Khuất Dã Hà Tây rất lâu, trong lòng toan tính nhanh như bay... Nếu có thể đoạt lại vùng lãnh thổ này, chính là lập nên một kỳ công cho Đại Tống, với thân là Nho giả lập quân công bất thế, trên đời còn có chuyện nào vui hơn?
Sau khi trở về Tư Mã Quang liền viết thư kiến nghị Bàng Tịch, thừa dịp kẻ địch rời khỏi xây dựng hai tòa thành vùng phía tây sông Khuất Dã. Sau đó mộ dân lập thôn làng, giảm bớt thế cục khó khăn đó là Hà Đông lương thực đắt mà phải ỷ lại Biện Kinh cung cấp. Đề nghị này rất là mê người, nhưng đối với một Bàng Tịch lấy ổn định làm chủ thì rất không hợp, cho nên lão tướng công vô cùng do dự.
Bên phía Lân Châu, không chờ được hồi báo của cấp trên, quyết định phát động một lần thử thăm dò bạo gan, cho cấp trên thêm tự tin quyết sách... Tư Mã Quang liền cùng mấy người Tri Lân Châu Võ Kham, Giám quân Hoạn quan Hoàng Đạo Nguyên, Kiềm hạt Quách Ân hợp kế, quyết định phái quân đội lấy danh nghĩa tuần biên lén qua sông, tiến tới Khuất Dã Hà Tây trinh sát tình hình địch. Nếu không có vấn đề, thì chuẩn bị xây dựng xuất trận địa trước, sau đó chờ đại quân đuổi theo.
Kết quả Hoàng Đạo Nguyên và Quách Ân khinh địch làm bừa, ở chốt tác chiến phòng ngự Đoạn Đạo bờ phía tây gặp quân Tây Hạ bao vây, toàn quân bị diệt. Hoàng Đạo Nguyên bị bắt giữ, Quách Ân không chịu đầu hàng mà tự sát. Chiến dịch này một ngàn bốn trăm người ngựa này của quân Tống, không một ai thoát về cảnh nội, một nữa bị giết, một nữa bị bắt. Trong số người đầu hàng, có một tiểu quan quân tên Lý Thanh, sau này thành nhân vật cực kỳ quan trọng giữa hai nước Tống Hạ, đương nhiên là nói sau.
Thảm bại lớn như vậy, là lần đầu từ khi hai nước Tống Hạ ngừng chiến cho tới nay. Còn thủ quân Lân Châu không có quân lệnh, loạn kỷ vọng động, tang sư nhục nước, vua dân tức giận, tất nhiên muốn điều tra tới cùng. Ngự sử Trương Bá Ngọc vâng lệnh đi tới điều tra, vừa đến Trịnh Châu liền lập tức giải trừ binh quyền của Bàng Tịch, yêu cầu lão giao ra tất cả tài liệu quân sự.
Bàng Tịch biết mình nhất định xong rồi, trong lòng tất nhiên cực kỳ trống trải. Nhưng lão biết, Tư Mã Quang tuy đánh giặc không linh động, nhưng tài hoa ở chỗ khác, tương lai nhất địch có thể thành tài, hà tất phải cùng liên lụy y? Chi bằng giữ lại cho con cháu một đoạn thiện duyên.
Thế là đốt thư và báo cáo của Tư Mã Quang gửi đến, tự mình gánh chịu tất cả trách nhiệm.
Loại Ngự sử như Trương Bá Ngọc, chơi không lại lão quân đầu Bàng Tịch này, cuối cùng đành phán cho lão hai tội danh, chỉ huy sai lệch, che dấu tài liệu. Sau đó kiến nghị lên triều đình, Bàng Tịch đã già, nên lui ở tuyến hai. Kết quả Bàng Tịch bị giáng chức Tri Thanh Châu, đến tận giờ không khởi sắc, không lâu thì bệnh chết.
Còn Tri phủ Lân Châu Võ Kham cũng bị đày đi Giang Châu.
Chỉ có Tư Mã Quang chẳng những không sao, còn được điều về kinh thành làm Thái thường Bác sĩ. Nhưng Quang Quang không nhận, vô cùng cảm thấy hổ thẹn, làm y liên tục dâng thư, nghiêm chỉnh yêu cầu triều định “độc trị thần tội, xin chịu hình phạt”. Nhưng mọi người đều không tin lời nói của y, cho rằng y là thể hiện, thậm chí có người nói y là “mượn cớ mua danh chuộc tiếng”, giả vờ tranh lấy mỹ danh.
Khác biệt lớn nhất của Tư Mã Quang và Vương An Thạch chính là ở chỗ “quân tử có độ”. Thấy mình ba lần dâng sớ thỉnh tội, đều không có người đáp ứng, càng không nói nhiều nữa, cho phép mặt dày trở lại kinh thành đi làm... Y đối với Bàng Tịch tất nhiên lòng mang áy náy, viết mấy phong thư cho lão, biểu thị áy náy của mình, nhưng Bàng Tịch đến chết cũng không có xem qua một chữ của y.
Trận chiến chốt tác chiến phòng ngự Đoạn Đạo, không chỉ làm bờ sông Khuất Dã thêm hơn ngàn bộ xương khô, làm một vị danh thần xuất tướng nhập tướng tuổi xế chiều khó giữ, phá hủy mộng quân công của ngôi sao hy vọng, càng làm mậu dịch biên giới giữa hai nước lẳng lặng mà đứt.
Đây là một thủ đoạn trừng phạt của triều Tống với Tây Hạ, vì việc dựa vào mậu dịch của hai nước là nghiêm trọng không giống nhau. Đại Tống vật bảo thiên hoa, ngoại trừ ngựa thì cái gì cũng không thiếu. Chặt đứt chợ lẫn nhau, đơn giản chính là ăn chút muối thô, đổi thành cưỡi lừa mà thôi. Nhưng người Tây Hạ không có lá trà, vải vóc, nồi sắt, ngay cả cơm cũng không ăn được.
Hơn nữa lúc này đây, mức độ chấp hành đặc biệt tàn nhẫn, không chỉ đóng tất cả các nơi họp chợ, còn cấm tuyệt chợ tư. Phàm là người Tây Hạ xua đuổi ngựa, bò tới khu vực biên cảnh trao đổi lương thực và vật phẩm khác, sau khi bị binh lính triều Tống bắt được, thì chém đầu răn chúng. Dưới tình hình giới nghiêm như vậy, ngoại trừ bí quá hóa liều đi buôn lậu ra, hai nước cả một chút giao dịch qua lại cũng không có.
Thương gia buôn bán biên giới lớn như Hầu Nghĩa là không thể dính vào buôn lậu. Thậm chí triều đình vừa hạ “tuyệt thị lệnh” y lập tức dừng lại tất cả mậu dịch với Tây Hạ, bằng không nhất định phải bị xử lý điển hình trong án ngược gió này.
Cho nên trận này làm y buồn bực, tóc cũng trắng đi nhiều. Thông qua tin tức tai nghe mắt thấy, y đối với đầu óc thương nghiệp của Trần Khác từ lâu đã khâm phục tới sát đất. Hôm nay đến tham gia tiệc rượu, chính là muốn gặp mặt hắn, xem thần núi này có thể chỉ ra con đường sáng không.
Hai người qua loa phân tích tình hình, Trần Khác nói:
- Ta thấy mấy năm nay, mua bán của Tây Bắc là làm không được.
- Cũng không phải sao.
Hầu Nghĩa giận dữ nói:
- Hơn nữa ta cũng thật sự không muốn mua bán với địch quốc này. Bị bắt thì bị người ta mắng là Hán gian, đổi lại ai cũng không chịu nổi.
- Vậy thì đổi nghề đi.
- Làm cả đời mua đi bán lại.
Hầu Nghĩa cười khổ nói:
- Cái khác ta thật sự là không làm được.
- Vậy thì đổi thương lộ khác.
Trần Khác nói:
- Tây Bắc không được, Đông Bắc thế nào.
- Mua bán của Liêu quốc cũng không nên làm. Năm ngoái, triều đình cấm biên quân buôn bán, lập tức việc mua bán cũng trở nên khó khăn.
Hầu Nghĩa lắc đầu nói:
- Đám Vương Bát Cao tử của Tiêu Thiên Dật, bây giờ còn chạy thẳng tới Đại Tống ta để nhập hàng. Trong tay bọn họ có chiến mã, ngay cả chư vị tướng công đều muốn hòa đồng vui vẻ. Vừa trong vừa ngoài này, chúng ta sao đấu lại bọn chúng?
Nói xong lặng lẽ cười:
- Hơn nữa, Liêu quốc không phải là địch quốc sao? Không biết chừng ngày nào đó cũng xảy ra như vậy, ta chỉ có thể nhảy sông Kim Thủy.
Cố Tích Tích cười hỏi:
- Làm gì phải nhảy sông Kim Thủy chứ? Sông Kim Thủy là một con sông thông tới hoàng cung.
- Ác tâm ác tâm, các tướng công không để ý sống chết của chúng ta.
Hầu Nghĩa cười nói, làm mọi người cười to một trận.
Cười xong, Trần Khác nói:
- Vậy suy nghĩ qua trên biển chưa? Gần có Nhật Bản, Cao Ly, xa có Nam Dương. Một chuyến thì đủ ông làm một năm đấy.
- Trên biển?
Thời đại này, người Tống ở đất liền vẫn có sợ hãi vô cùng đối với biển cả, luôn cảm thấy sóng biển mênh mông nuốt chửng hết tất cả. Cho nên rất ít có thương nhân của Biện Kinh giao dịch trên biển, nhiều nhất chính là làm một gian thương trung gian. Hầu Nghĩa cũng không thể ngoại lệ, y liếm liếm môi, ngượng ngùng nói:
- Bốn cái chân, vẫn là trên đất liền vững chắc. Xuống nước, ta sợ chết đuối.
Lại cười phá lên một trận.
- Ta nói này lão Hầu.
Lý Giản cũng không nhịn được nữa, cười nói:
- Ông chần chừ như vậy, vậy thì cái gì cũng đừng làm, dù sao ăn chơi đàn điếm cả đời, cứ trôi qua như vậy đi.
- Nói bậy.
Hầu Nghĩa cười nói:
- Như vậy không tới mấy năm, ta phải quy tiên rồi.
Nói xong nhìn Trần Khác nói:
- Công tử, không có cách khác sao?
- Việc này... Trần Khác ung dung nói:
- Ta đúng là còn một thương lộ, hơn hẳn mậu dịch trên biển, độ khó và nguy hiểm phải ít hơn nhiều, tiềm lực cũng chưa từng mở phát ra.
- Ở đâu?
Hầu Nghĩa mở to mắt nói.
- Ở Tây Nam.
Trần Khác cũng không gạt y, cười nói:
- Đại quan nhân biết.
- Là Trà Mã thông tới Thổ Phiên sao?
Lý Giản nghĩ ngợi nói.
- Không phải, cái đó người chạy trốn quá nhiều, hơn nữa lợi nhuận cũng quá ít.
Trần Khác cười nói.
- Như vậy...
Lý Giản nghĩ một vòng nói:
- Chẳng lẽ là Thân Độc Đạo?
- Thông minh.
Trần Khác gật đầu cười nói.
- Thân Độc Đạo?
Hầu Nghĩa nói:
- Sao không có nghe nói qua?
- Vì chưa từng nghe nói qua, một là huynh đọc sách ít, một là huynh cách Tứ Xuyên quá xa.
Trần Khác cười nói:
- Đây chính là một thương lộ, có thể thông tới Mayanmar, Ấn Độ. Ở thời Hán Đường, tính quan trọng có thể không thua gì con đường tơ lụa phía Bắc. Nhưng tới triều Tống, vì nguyên nhân hấp thụ “Đường vong bởi Hoàng Sào Nam Chiếu, mà căn họa bởi Nam Chiếu”, đối với nước Đại Lý mang thái độ coi như kẻ thù, cấm tuyệt thông cống, cắt đứt con đường thương nghiệp này, lâu ngày, lại không ngờ người Trung Nguyên không biết.
- Ý của công tử là...
Hầu Nghĩa trầm ngâm nói:
- Phải khôi phục con đường thương nghiệp này?
- Thật ra sớm đã khôi phục rồi. Thương nhân đất Thục chúng ta rất nhiều lần lén chạy con đường này. Chỉ là người Trung Nguyên các lão huynh không biết mà thôi.
Lý Giản cười nói:
- Nói trắng ra, chính là buôn lậu, nhưng nước Đại Lý vô cùng lo lắng triều đình sẽ vì vậy tiến công bọn họ, cho nên cấm rất nghiêm, do đó vẫn không có thành tựu.
- Nếu ai có thể làm nước Đại Lý mở rộng thương lộ, ta dám bảo đảm, không tới mấy năm thì có thể làm giàu ngang một nước.
Lý Giản vỗ vỗ vai Hầu Nghĩa, vẻ mặt bát giới nói:
- Suy nghĩ đi, đó chính là đi khắp nơi cũng đều là đất nước ngà voi, vàng bạc, đá quý đó!
- Ừ ừ...
Hầu Nghĩa liên tục gật đầu, nhưng trong lòng tự nhủ, sao nghe không đáng tin như vậy không?
- Như vậy đi, sau khi thi đình, ta muốn xin nghỉ về quê lấy vợ, lão Hầu chi bằng đi cùng.
Trần Khác cười nói:
- Một là nể mặt tiểu đệ, hai là cũng có thể khảo sát đường đi một chút. Nếu cảm thấy không được, còn có thể xem như giải sầu.
- Được.
Cuối cùng Hầu Nghĩa động ý rồi, cười to nói:
- Đại hôn của công tử, đương nhiên ta phải tham gia náo nhiệt rồi!
Vật đổi sao dời, canh bốn trống vắng, tiệc vui các nơi Biện Kinh dần dần yên lặng. Các khách nhân hoặc kê cao gối ngủ, hoặc khoác sao về nhà chuẩn bị ngủ một giấc say tới khi mặt trời ngã về hướng tây, sau đó tiếp tục thức dậy tầm hoan hưởng lạc.
Trần Khác thuộc loại người sau, hắn tuy thích tầm hoa vấn liễu, nhưng không thích ngủ trong kỹ viện, không có cảm giác nhà, hắn ngủ không được. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng hắn chần chừ không chịu dọn ra ngoài ở.
Lúc về tới nhà, Trần Hi Lượng đã thức dậy, chuẩn bị ăn xong điểm tâm đi thượng triều. Trần Hi Lượng muốn hỏi xem hôn sự của Ngũ Lang thế nào, liền đi tiền sảnh hỏi han. Trần Hi Lương liếc nhìn hắn nói:
- Cơ thể dù có tốt, cũng không thể hai ba ngày chơi thâu đêm.
- Nhiều nhất cũng cách ba năm ngày, nào có ba ngày hai lần.
Trần Khác đặt mông ngồi xuống, Lan Bội bây giờ đã làm di nương mang cho hắn một chén canh trần bì giải rượu.
Trần Khác nhận lấy, một hơi uống cạn, Lan Bội lại múc cho hắn một bát cháo cá, hỏi mấy câu hôn sự của Ngũ Lang. Nghe nói đã định rồi, hơn nữa khuê nữ của Vương gia còn là mỹ nữ, Trần Khác vui vẻ nói:
- Thật là đi mòn gót sắt tìm chẳng thấy, tới lúc không tốn chút sức lực nào, thì ra nhân duyên là ở đó đang chờ nó.
- Đúng vậy, cuối cùng đi khối tâm bệnh rồi.
Trần Hi Lượng nhìn hắn nói:
- Con đừng đi, nghe cha nói xong...
Trần Khác biết, cha lại muốn lả nhải, đứng dậy chuẩn bị chuồn đi, lại bị Trần Hi Lượng gọi lại:
- Theo thường lệ sau khi thi đậu tiến sĩ, đều có một năm nghỉ ngơi để các con đi về xử lý chuyện nhà. Con chờ thi đình xong rồi, thì nhanh chóng xin nghỉ, trở vể nhanh chóng đón Tô Tiểu Muội. Đến lúc đó ta bảo Nhị Lang cũng trở về, con nhất định phải làm hôn sự của nó đàng hoàng. Được hay không được, cũng gửi cho một cái tin, cứ treo như vậy chuyện sẽ thế nào?
- Vâng, vâng.
Trần Khác thuận miệng đáp lời:
- Cha mau đi đi, để ý đến muộn phải phạt bổng lộc.
- Sớm phải đi rồi.
Trần Hi Lượng nhận lấy mũ quan Lan Bội đưa, đứng lên đi ra cửa.
Tới chầu viện, trong này đã ồn ào bàn tán một mảnh. Thi hội đã dán thông báo, sau khi vui mừng ngắn ngủi, tiếng tranh luận lại nổi lên. Nguyên nhân chính là Âu Dương Tu, Vương An Thạch, lấy thủ đoạn lôi đình chèn ép “Thái Học thể”, làm cho một đám Cử tử tiếng tăm đều thi rớt. Loại phương thức áp đặt này, tất nhiên sẽ gây ra bàn tán sôi nổi của quan viên, hơn nữa trong đám cử nhân bị ảnh hưởng đến, không thiếu là những con cháu nhà quan tiếng tăm trong kinh, cho nên có một chút phẫn nộ, thậm chí tiếng mắng chửi.
Lúc này người thu được lợi ích như Trần Hi Lượng, hiển nhiên dù cẩn thận làm người vẫn tránh không được việc đang nằm cũng trúng đạn, bị người ta châm chọc khiêu khích một trận. Phần lớn là lấy quan hệ của các con lão với Âu Dương Tư để nói chuyện, còn thầm ám chỉ thành tích của Trần Khác dựa vào gian lận mà có. Tiểu Lượng ca chính là tính khí hung bạo, lúc đó liền túm người đó một cái, kéo lôi ra ngoài.
Âu Dương Tu và Vương An Thạc hai kẻ khởi xướng này thì càng khỏi phải nói đến, bị người ta mắng chưởi tới mất mặt.
- Thái Học thể đã không có sự dài dòng cứng nhắc của văn biền ngẫu, lại văn vẻ, trôi chảy, khiển từ dùng câu đều là có ý mới, có thể thể hiện sự sáng tạo của sĩ tử, có chỗ nào không ổn? Huống hồ văn phong như vậy, trên đời tôn sùng, nhưng tại sao phải một gậy đánh chết?
Chỉ nghe có quan viên thở dài.
- Mở khoa chọn trò là chọn lựa người tài trong thiên hạ cho triều đình. Túy Ông và Vương giới phủ đó lại ích kỷ cá nhân, liền vứt bỏ tuấn kiệt người đời công nhận, thật là vì tư bỏ công, tùy ý làm bậy!
Lại có người tức giận nói:
- Xem công khí của quốc gia coi thành công cụ bọn họ lựa chọn môn sinh à?
- Nghe nói, lúc Túy Ông ở khóa viện, cùng các giám khảo ngâm thơ viết nhạc. Sau khi ông ấy đi, người còn lại vẫn thi hứng nồng nàn, ca hát sáng tác ra đủ mấy tập thơ hay. Lún sâu vào xướng họa như vậy, thì có bao nhiêu tâm tư đặt vào chấm bài thi, thành tích bình luận ra thật có thể đại diện cho ưu điểm khuyết điểm của thí sinh? Ta thấy không hẳn như vậy.
- Vả lại, Vương Giới Phủ đó mới ba mươi mấy tuổi thì làm chủ khảo thi hội. Người trẻ tuổi nông cạn như vậy, dựa vào cái gì đánh giá sĩ tử thiên hạ, kết quả làm sao phục chúng?
Lời vừa nói ra, gây ra một trận phụ họa:
- Đúng, chúng ta phải hạch tội y, còn có Âu Dương Vĩnh Thúc người đã tiến cử y, trả công đạo cho sĩ tử thiên hạ!
Tiếng thảo phạt trầm bổng nối tiếp nhau, mãi đến khi Âu Dương Tu đi vào chầu điện, mới tạm thời dừng lại.
Nhưng mọi phiền muộn trong lòng mọi người chưa biến mất, cuối cùng có người không kìm được hỏi:
- Túy Ông, nghe nói ông ra một câu cho thi hội “Thông kỳ biến nhi sử dân bất quyện”. Hạ quan suy nghĩa trăm lần vẫn không có lời giải đáp, về nhà kiểm tra “kinh dịch” rõ ràng nguyên văn chính là “Thông kỳ biến sử dân bất quyện” tại sao thêm một chữ “nhi” chứ?
- Đề thi thi hội, cố nhiên yêu cầu mỗi câu đều có xuất xứ, nhưng cũng không phải là một chữ không sai. Trong “thông kỳ biến sử dân bất nguyện” thêm một chữ “nhi” ý nghĩa không đổi. Nhưng lúc đọc giọng điệu chậm rãi hơn, đầy nhịp điệu, đúng là cái đẹp của thi phú âm luật, có gì không thể? Âu Dương Tu thản nhiên đáp lại.
- Quả nhiên là Túy Ông thiên vị ngoại sinh mà!
Lập tức có người tiếp lời nói
Lời này vừa ra, liền gây nên tiếng cười trộm khúc khích. Đây cũng không phải cùng Âu Dương Tư thảo luận vấn đề văn học, mà là mượn đồng âm “ngoại sinh nhi”, ngầm châm biếm chuyện cũ ông từng tư thông cháu gái ngoại.
Đó là trong thời gian Tân chính năm Khánh Lịch, kẻ thù dùng chuyện xấu để công kích ông. Vốn là muội muội Âu Dương Tu gả cho người ta không lâu thì thủ tiết, vợ trước của người chồng đã chết đó của cô để lại một bé gái. Âu Dương Tu tội nghiệp bọn họ, liền đón bọn họ về nhà nuôi nấng. Sau khi đứa cháu gái trưởng thành, gả cho Âu Dương Thịnh cháu trai bà con xa Âu Dương thị. Nhưng cô không giữ phụ đạo tư thông với đầy tớ trong nhà, bị người ta tố cáo.
Đám người Đỗ Diễn kẻ thù của Âu Dương Tu, ý thức được đây là cơ hội tốt xử lý tốt Âu Dương Tu, liền bày mưu tính kế vu oan hãm hại. Bức cháu gái ngoại nhận tội Âu Dương Tu và mình có quan hệ, còn bắt nạt chiếm tài sản của nhà mẹ cô —— chuyện có người mua ruộng nương của nhà mẹ cô, cũng dùng danh nghĩa Âu Dương Tu.
Rõ ràng đây là đấu tranh chính trị có mưu đồ, mục đích chính là đưa Âu Dương Tu vào chỗ chết. Mặc dù Quan gia không tin Âu Dương Tu có thể làm ra những chuyện đồi phong bại tục này, cũng nhiều lần hạ chỉ tỏ rõ thái độ, nhưng lời người đáng sợ, huống hồ đám người Đỗ Diễn giống như chó điên không thuận theo không buông tha, đành giáng chức Âu Dương Tu tới Trừ Châu.
Đây là vết sẹo mà Âu Dương Tu cả đời không thể vạch trần, nhất thời tức giận đến mặt già nua đỏ bừng, môi không ngừng mấp mái, lại có dấu hiệu trúng gió.
Đúng lúc này, chư vị tướng công lục tục tới, Hàn Kỳ lạnh lùng quét nhìn đám người một cái, tiếng như kim thạch nói:
- Đều bị giẫm phải đuôi sao? Có ý kiến thì mang lên triều đường! Sách cũng đọc vào trong cái bụng chó rồi, ở đây bịa đặt lời hãm hại, ta cũng xấu hổ thay các ngươi!
Nói xong trực tiếp nói với Ngự sử đang trực:
- Ông làm ăn cái gì vậy? Mặc cho bọn họ ồn ào như vậy sao?
- Hạ quan nói mấy lần rồi,
Ngự sử đó vội vàng cuối đầu nói:
- Nhưng vô dụng.
- Là ngươi vô dụng, không phải Ngự sử vô dụng.
Hàn kỳ hừ lạnh một tiếng, vào phòng.
Hàn tướng công quả nhiên uy lực vô cùng, sau đó trong chầu viện liền lặng ngắt như tờ, không có ai dám bịa đặt nói nữa.
Mãi tới khi tiếng chuônng gõ vang, Vương An Thạch mới khoan thai chậm rãi đến. Chiếu theo lệ thường đứng thành hàng, cũng không phát giác có gì dị thường.
Một quan viên cùng tuổi dáng người nhỏ gầy, mặt vàng râu đen, tướng mạo ngay ngắn bên cạnh y. Thấy Vương An Thạch tránh được một kiếp, không khỏi mỉm cười nói:
- Lại suốt đêm đọc sách rồi?
- Ừ, lúc canh ba mới chợp mắt một chút. Nhà tôi lại không gọi đúng giờ.
Vương An Thạch gật đầu, nói với người đó:
- Quân Thực, mấy cuốn sách của ông tiến cử rất hay, ta xem rất có cảm xúc. Tối nay tới nhà ta đi, chúng ta đốt đèn nói chuyện trong đêm.
- Cái này không vội.
Người được y gọi là Quân Thực chính là Tư Mã Quang, tráng chí chưa lập công, thất bại quay về, ăn không ngồi chờ là nhất định rồi, cho nên có thời gian rãnh rỗi là đúng, y nhẹ tiếng nói:
- Ông vẫn giữ vững tinh thần, đối phó ải trước mắt này đi.
- Sao rồi,
Vương An Thạch kỳ quái nói:
- Xảy ra chuyện gì rồi?
- Còn không phải là chính ông gây ra sao?
Tư Quang Mã liền dùng khoảng thời gian trước khi thượng triều này nói đơn giản chuyện lúc nãy cho y.
Vương An Thạch im lặng nghe, nhẹ nhàng gật đầu, tỏ ý biết rồi.
Lúc lâm triều, quả nhiên có Ngự sử tham tấu Âu Dương Tu và Vương An Thạch làm bậy. Nhưng Quan gia nói lấy sĩ như vậy là mình thụ ý, kéo trách nhiệm qua.
Lại có người mang danh sách trúng tuyển nói chuyện, chỉ ra học sinh Tăng Củng, Trần Khác của Âu Dương Tu cùng với thân tộc khác có thi đậu nhiều, sợ là có tiết lộ đề trước. Giám khảo làm việc thiên tư và lại có hiện tượng vi phạm kỷ luật, yêu cầu triều đình nghiêm tra.
Quan gia nói đề thi ngoại trừ thi phú là lệnh của Âu Dương Tu, còn lại đều là mình ra, mãi tới phút cuối mới công bố. Hơn nữa khoa này trọng sách luận, nhẹ thi phú. Nhưng phàm lấy sĩ, đều là dựa vào sách luận chứ không phải dựa vào thi phú, cho nên tiết lộ đề trước giờ thi như vừa nói là đứng không vững chân.
Về sự hiềm nghi với Trần Khác, Triệu Trinh nói việc này đã điều tra rõ, chính là có người nào đó vì ân oán riêng, mua chuộc binh sĩ sưu kiểm, vu oan hãm hại cho hắn. Vì thế, triều đình đổi chủ khảo, phái tư binh Hoàng thành sưu kiểm lại, để cam đoan tính công chính của khoa cử.
- Nhưng, điều tra rõ chân tướng là sau khi thi hội, giám khảo không biết rõ tình hình, tại sao dám trước khi hắn cởi bỏ hiềm nghi, thì cho phép hắn thi, còn lấy trúng hắn chứ?
Quan viên triều Tống là sẽ không khách khí với Quan gia.
Triệu Trinh nhìn Vương An Thạch nói:
- Để Vương khanh gia giải thích vấn đề này.
- Dạ.
Vương An Thạch bước ra hàng nói:
- Trần Khác là sau khi cởi bỏ hiềm nghi, mới được vào trường thi.
- Làm sao ông chứng minh hắn cởi bỏ rồi?
- Ta bảo hắn mặc tả tại chỗ “Ngũ kinh toàn chú”.
Vương An Thạch thản nhiên nói.
- Toàn văn?
- Toàn văn.
- Sao có thể?
Quan viên không tin nói:
- Toàn bộ quyển sách một trăm ngàn chữ, cho dù là sao chép, cần thời gian bao lâu mới sao chép xong?
- Dùng bao nhiêu thời gian sao chép xong, ta không biết. Nhưng nói hắn mặc tả, dùng một ngày rưỡi, nói chính xác là mười sáu canh giờ.
Vương An Thạch thản nhiên nói:
- Chính trong Chí công đường, có ấn ký của hai mươi bảy vị giám khảo làm chứng, đã hộ tống bài thi của hắn lưu trữ Lễ bộ. Chư vị bất cứ lúc này cũng có thể mang xem xét.
- Mang đến.
Triệu Trinh phất tay, lập tức có quan viên Lễ bộ, cùng thị vệ Hoàng Thành Ti, hỏa tốc xuất cung đi lấy.
Trước khi bãi triều, bài thi lưu trữ của Trần Khác được mang đến, Quan gia lệnh chúng nhân truyền đọc, rành rành trước mặt, bá quan mới hoàn toàn phục, cuối cùng tin có người sinh ra chính là để làm người khác tự ti.
Ải này xem như ứng phó qua, nhưng có khảo nghiệm nghiêm trọng hơn đang chờ Vương An Thạch và Âu Dương Tu...
Sau khi hạ triều, để trở về nha thự gần đây, các quan viên có người từ Tuyên Đức môn đi ra, có người đi Đông Hoa môn. Vương An Thạch và Âu Dương Thu, đều là đi về từ Đông Hoa môn.
Vì Âu Dương Tu là ngồi kiệu, còn Vương An Thạch dựa vào hai chân mà đi, cho nên tuổi già ngược lại đi ở phía trước.
Nhưng cỗ kiệu ra khỏi Đông Hoa môn không bao xa, thì nghe thấy bên đường vang lên một tiếng gọi:
- Ra rồi!
Ngay sau đó phần phật một tiếng, kiệu của ông liền bị một đám Cử tử thi trượt chặn lại, lớn tiếng mắng chửi:
- Túy Ông, Túy Ông. Ông sống say chết mộng cứ mơ mơ màng màng, tại sao còn không say chết đi!
- Âu Dương Tu, ông già khốn khiếp lòng lang dạ sói, vọng xưng văn đàn minh chủ, nhưng giết hết anh tài thiên hạ!
- Ông nên nhảy xuống sông Biện, biến thành ba ba rồi hãy lên đây!
Tiếng chửi rủa như sấm, làm vô số thị dân đi tới xem náo nhiệt. Thấy người càng tụ tập càng nhiều, những Cử tử thi trượt này càng thêm hưng phấn. Đẩy một sĩ tử lên, lớn tiếng nói:
- Vị này là đại tài tử nổi danh thiên hạ Lưu Kỷ Lưu chi đạo. Đại tài tử nổi danh trên đời giống như y, nhưng cũng bị học sinh của lão thất phu này đánh rớt. Còn học sinh thân cố của lão thất phu này lại không một ai rớt tất cả đều đậu bảng. Mọi người phân xử, trong này rốt cuộc có đen hay không hả!