Cả đêm không ngủ, tuy nhiên câu chuyện đêm qua của sư phụ khiến Tư không cảm thấy mệt mỏi, ngược lại Tư tự thấy bản thân mình thân là đệ tử mà trong suốt 5 năm qua không hề biết tới quá khứ đau thương của thầy. Đến khi biết được quả thật quá bàng hoàng, trời mới có 5h sáng, bên ngoài vẫn còn mịt mờ hơi sương, cái lạnh sáng sớm khiến Tư rùng mình khi thầy Tàu mở cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Ngoài đường đã có một vài người gánh hàng ra rau, hàng cá ra chợ bán. Tiếng bước chân vội vã, tiếng chào nhau khi lướt qua của họ dần xua tan cái không khí ảm đạm của những ngày cuối đông. Tư nói với thầy:
— Có lẽ thầy nên chợp mắt một chút đi ạ. Cả đêm qua thầy đã không ngủ rồi.
Thầy Tàu bối mái tóc dài bạc trắng lên cao trên đỉnh đầu rồi dùng miếng vải đen buộc túm lại. Quay lại nhìn Tư ông lắc đầu:
— Không sao, ta cũng không thấy mệt. Đêm qua được nói hết ra với con ngược lại ta còn cảm thấy nhẹ nhõm. Sáng nay ta còn phải làm một số chuyện cho vợ chồng chủ nhà này. Sau đó con hãy đi ra chợ tìm mua cho ta những thứ ta đã ghi ra giấy đây.
Nói đoạn thầy Tàu lấy trong túi áo ra một tờ giấy đã ghi các món đồ cần dùng đưa cho Tư. Sau đó ông mở chiếc tay nải khá cũ kỹ lấy ra một thứ gì đó được bọc bằng một tấm vải vàng óng, thầy Tàu nói:
— Chiếc tay nải này chính là tay nải mà sư phụ ta đã cho ta năm đó. Mấy chục năm nay nó chỉ cũ đi chứ chưa hề bị rách, trong này có những thứ nếu không biết mà động vào sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Thầy Tàu mở cái bọc bằng vải vàng ấy ra, bên trong có một xấp lá bùa bằng giấy đỏ có viết những ký tự nhìn rất khó hiểu. Chỉ biết thứ mực dùng để viết chứ lên những lá bùa đó được thầy Tàu dùng mực hòa với tàn hương của mỗi ngôi chùa mà hai thầy trò đến làm công đức. Tại sao Tư lại biết điều đó vì mỗi lần đến một ngôi chùa thầy Tàu đều ngỏ ý xin trụ trì chùa đó một ít tàn hương trong lư đồng ngoài điện chính. Và đây cũng không phải lần đầu Tư nhìn thấy những lá bùa này. Những năm qua theo thầy ít khi thấy sư phụ dùng đến bùa yểm, chỉ khi nào nơi hai thầy trò đến mà âm khí quá nặng thì thầy Tàu mới dùng một hai lá dán lên nhà của người đó với mục đích giúp đỡ chủ nhà tránh khỏi tai ương, phần nào hóa giải vận đen do âm khí của người chết còn vương lại.
Tất nhiên ông làm vậy không để lấy tiền, cũng chính vì thế mà tiếng tăm của thầy Tàu đi đâu ai cũng biết. Lúc đó Tư không hiểu gì chỉ biết thầy nói sao thì làm thế, giờ nhìn những tấm bùa đỏ ấy Tư nhìn sư phụ bằng ánh mắt cảm phục. Ông đi khắp nơi trên miền đất không phải quê hương nhưng lại làm những công việc tích đức cho người dân nơi đây, ông giúp đỡ người nghèo không có tiền làm mồ làm mả cho người thân, với người giàu ông lấy tiền mang lên chùa nơi đó công quả, tiếp đó lại xin một chút linh thiêng nơi cửa chùa vẽ lên những tấm bùa giúp lại những người có vận hạn về âm hồn, ma quỷ. Tuy có những lúc Tư thầy sư phụ cũng luyện những thứ bùa bằng máu của mình nhưng số tiền rất nhiều kiếm được đó ông cũng đem lên chùa công đức. Dù khi nhìn thầy cắt máu Tư có phần khiếp sợ nhưng hành động sau đó của ông thì không thể nào ông làm điều xấu được. Chỉ biết rằng sau mỗi lá bùa máu đó thầy Tàu già đi trông thấy.
Trời đã sáng hẳn, thầy Tàu bảo Tư đi ra chợ cho sớm để mua được đồ tốt. Bản thân ông cũng lấy 12 lá bùa, một lọ nhỏ màu đỏ ( có lẽ là máu), vài sợi dây vàng óng rồi bước ra sau vườn. Tư vâng lời thầy đi ra chợ, lúc này vợ chồng chủ nhà cũng đã dậy từ lúc nào, gương mặt của họ khá nhợt nhạt. Có lẽ do cả đêm qua họ cũng phải thức để trông chừng con gái. Cái Thi giúp việc cũng đang nhóm bếp chuẩn bị nấu nướng, sau vườn sương vẫn vương trên những chiếc lá khiến chúng trở nên ướt đẫm, lạnh lẽo. Thầy Tàu bắt đầu dán những lá bùa xung quanh nhà, mỗi lá bùa được dán xong ông đều nhúng đầu ngón tay cái vào cái lọ màu đỏ rồi điểm chỉ vào mỗi lá bùa, nơi góc chuồng gà, chuồng vịt ông đều buộc một sợi dây vàng trước cửa chuồng. Dán từ sau vườn ra trước ngôi nhà hết đúng 12 lá bùa thầy Tàu bước vào trong nhà nơi hai vợ chồng gia chủ đã đứng đó đợi sẵn, ông nói:
— Tạm thời ngôi nhà của hai vị ta đã dán bùa để phần nào chống ma quỷ đến đây. Còn chưa biết nó là loại ma quỷ gì nhưng chắc chắn những lá bùa này sẽ có tác dụng. Tạm thời ta cũng chỉ biết làm cách này, quan trọng là ở hai vị cần phải cẩn thận. Nếu như nhà không có trẻ nhỏ thì lại không đáng lo, nhưng do nó đã đến đây một lần có thể nó cũng ngửi thấy mùi trẻ con nên phải đề phòng trường hợp nó quay lại.
Vợ chông chủ nhà cảm ơn thầy Tàu rối rít, họ lập tức chuẩn bị đồ ăn sáng cho ông rồi nhìn nhau mừng rỡ vì may mắn được thầy cứu giúp. Thầy Tàu đợi Tư về rồi mới ăn, ăn uống xong xuôi ông nói với Tư:
— Đã làm phúc thì phải làm cho đến cùng, tuy chúng ta đến đây cũng chỉ là người qua đường nhưng không thể thấy chết mà không cứu, không thể cứu người này mà bỏ rơi người kia. Cả đêm qua suy nghĩ cuối cùng ta đã hiểu cơ duyên mà sư phụ ta nói năm đó là gì. Mấy chục năm qua đã đi đến không ít nơi, những lá bùa ta dùng mực được mài lẫn với bụi tro nơi linh thiêng đến nay cũng không phải ít. Có lẽ ông trời dẫn thầy trò mình tới nơi này là để sử dụng chúng. Con hãy vào sửa soạn rồi cùng ta đi đến những ngôi nhà có trẻ nhỏ dán bùa cho họ.
Tư nghe thầy nói thế thì vui mừng chạy vào phòng lấy tay nải cho sư phụ, hai thầy trò vội vã lên đường. Quả thật thầy Tàu có một tấm lòng bao dung rộng lớn, có lẽ ai nghe xong câu chuyện đau đớn của ông đều nghĩ đến chuyện ông nung nấu trả thù, thậm chí ông còn có thể ghét những con người ở cái đất nước này, nhưng không dù đau đớn trong lòng nhưng bao năm qua ông vẫn chỉ có một suy nghĩ hướng thiện. Biến đau thương, thù hận thành lòng nhân hậu là điều không phải ai cũng làm được.
Tuy vậy mọi chuyện không hề dễ dàng như Tư nghĩ, mặc dù có lòng tốt nhưng không phải đến nơi đâu người ta cũng đón nhận. Những ai nghe danh tiếng của thầy Tàu thì họ đều chắp tay cảm tạ và để thầy Tàu dán bùa vào nhà của mình. Chuyện tâm linh ma quỷ, bùa ngải đâu phải ai cũng tin. Vì vậy đi xung quanh làng có nhiều nhà có trẻ nhỏ nhưng vào nhà không tin ma quỷ, lại thấy sư phụ Tư là người Trung Quốc họ lập tức đuổi ra:
— Thôi đi đi, ở đây không có bùa yểm gì hết…Đi đi….Toàn giả thần giả quỷ hại người…
Dù Tư hết mực giải thích nhưng họ vẫn không tin, thậm chí còn đưa ra những lời miệt thị:
— Ma quỷ đâu tao chưa biết, chỉ biết dán mấy cái này vào nhà có khi tối nay lại chết không còn xác. Đi chỗ khác mà dán, nhà này không cần….
Thầy Tàu lặng im nhìn những đứa trẻ trong nhà ấy rồi khẽ lắc đầu, bị chửi, bị đuổi hai thầy trò không còn cách nào khác là bỏ đi. Trên đường đi Tư tức tối:
— Sao họ lại không tin chúng ta nhỉ..? Chúng ta chỉ muốn tốt thôi mà..?
Thầy Tàu cười đáp:
— Họ có lý do riêng của họ, có thể họ không tin ma quỷ hoặc cũng có thể họ sợ chúng ta tạo ra ma quỷ hại họ. Cũng như con vậy thôi, có những thứ con không tin nếu như bắt con phải tin thì lại gây ra sự hiềm khích. Thôi đừng nghĩ nữa, còn rất nhiều nhà mà chúng ta chưa đến lắm. Ta có ý này, có lẽ thầy trò ta không nên nói là đến trừ ma trừ quỷ gì cả, hãy nói là hỏi đường, hỏi nhà…Nếu thấy nhà nào có trẻ nhỏ thì bí mật dán bùa ở đâu đó để họ không phải lo sợ.
Tư gật đầu vâng lời thầy, hai người đi đến cùng làng cuối xóm, sức người có hạn, họ không thể nào đi đến từng nhà trong làng được. Chưa kể đến những nhà có trẻ em nhưng lại nghi sợ khi có người lạ đến hỏi. Thấy mọi chuyện không ổn thầy Tàu nói với Tư:
— Có lẽ ta phải tìm cách khác, không rõ dân ở đây có tin vào người xuất gia không..? Ta đang tính nếu họ không tin ta thì ta nên đến một ngôi chùa ở gần đây nhờ vị sư trụ trì ở đó giúp đỡ. Có khi như thế dân làng lại cảm thấy yên tâm.
Tư thấy sư phụ nói cũng đúng, người dân Việt Nam có phần ghét những đạo sĩ, thầy cúng, thầy bùa nhưng với các nhà sư thì lại vô cùng kính trọng. Nghĩ sao làm vậy, hai thầy trò trở về nhà vợ chồng gia chủ nọ, sau một hồi hỏi han thì người vợ chủ nhà chỉ đường cho thầy Tàu đến một ngôi chùa nằm sát bờ sông sau một rặng tre khá dài, người vợ nói:
— Thưa thầy, con e rằng thầy đến ngôi chùa đó cũng không thay đổi được gì đâu ạ..? Bởi vì người dân ở đây cũng không siêng đi chùa chiền gì đâu. Ngày trước tại ngôi chùa đó người ta đồn là có ma thầy ạ. Chuyện này xảy ra cách đây lâu lắm rồi, con cũng chỉ nghe người ta truyền tai nhau rằng có hai kẻ ăn trộm lén vào chùa lấy tượng phật đem đi bán. Ở trong khuôn viên chùa có hai cây hoa đại rất lớn, gốc to, cành cao, tán rộng. Mất tượng phật nhưng vị sư trụ trì ở đó vẫn rất thản nhiên, đúng ba hôm sau khi chú tiểu thức đậy quét sân thì hét lên hoảng sợ vì trên mỗi cây hoa đại có một kẻ treo cổ, mắt mũi mồm miệng, lỗ tai đều rỉ máu nhỏ xuống sân chùa. Đáng sợ hơn ở dưới xác hai tên trộm là bức tượng bị lấy cắp được đặt ngay ngắn. Nhưng họ kháo nhau đó không phải tượng phật mà là một bức tượng màu đen hình thù kỳ dị. Có lẽ là bằng đồng đen nên bọn trộm mới sinh nghi.
Người vợ chủ nhà còn nói sau cái chết của hai gã ăn trộm đó dân làng có đến nhận xác nhưng cả hai đều không phải người trong làng nên không ai dám dỡ xuống. Mà tuyệt nhiên cũng không ai đến nhận, mà nghe đâu mấy người làm ở xã có đến nhưng cũng không thể gỡ họ xuống được. Cuối cùng chính vụ trụ trì đó đã đích thân làm lễ an táng cho hai kẻ xấu số. Chỉ biết từ đó về sau dân làng luôn thấy những thứ quái đản ở xung quanh ngôi chùa. Khi thì họ thấy bóng người leo trèo trên hai cây hoa đại cổ thụ. Khi thì ai sáng mà có việc đi qua đó sớm lại thấy bóng người vất vưởng đi qua đi lại, không thì lại cầm chổi quét sân mặc dù chú tiểu của chùa sau lần đó cũng biến mất không dấu vết.
Chính vì vậy nhiều năm qua không ai dám bén mảng đến ngôi chùa, họ cũng ít khi thầy vị trụ trì đi ra khỏi chùa. Còn ngôi chùa càng ngày càng đổ nát, sập xệ vì mưa gió…Chỉ có những tin đồn ma quỷ thì vẫn luôn truyền tai nhau đến bây giờ. Vợ vị gia chủ tiếp:
— Hay là thôi thầy ạ, theo con thầy đừng nên đến đó thì hơn. Chứ không có lửa làm sao có khói….
Thầy Tàu khẽ đáp:
— Ở đời làm ơn đôi khi lại mắc oán, khi hai cái xác không ai đến nhận thì chẳng phải vị sư đó đã ra tay cứu giúp sao. Sao giờ mọi người lại làm như thế, nơi cửa chùa sao lại có ma quỷ được.
Thầy Tàu vẫn quyết định đi đến đó một phen xem sao, hai thầy trò đi theo chỉ dẫn của vợ gia chủ. Đến nơi gặp người đi đường Tư lại gần hỏi xem ngôi chùa đó nằm ở đâu thì được chỉ tay đến cuối bờ sông, người này cũng nói y như vợ vị gia chủ nọ:
— Tốt nhất hết hai ông cháu đừng đến đó thì hơn. Mới sáng nay tôi đi qua đó nhìn mặt ông sư ấy mà tôi còn tưởng là ma. Bao năm nay không thấy ông ấy đâu cứ nghĩ ông ấy bỏ đi rồi, ai ngờ ông ấy vẫn sống trong chùa mà gương mặt như ma quỷ ấy.
Tư nghe thôi cũng đã thấy có chuyện chẳng lành, thầy Tàu nói:
— Có lẽ con nên ở ngoài này đợi ta, nếu như khoảng 1 tiếng sau ta không quay lại thì con cũng đừng tìm ta nữa. Khi chưa đến đây ta còn nghĩ đơn giản, nhưng dù chưa đặt chân vào chùa chỉ mới nhìn về phía rặng tre đó ta đã cảm thấy ở nơi đó quả thực có điều gì vô cùng nguy hiểm.
Tư cố nén nỗi sợ lại nhìn thầy:
— Không được, con sẽ đi cùng với thầy…
Thầy Tàu lúc này nghiêm mặt quát:
— Ở lại đây và đợi….Ta không nói thêm nữa.
Nói đoạn thầy Tàu lấy trong tay nải ra một con dao không biết làm bằng chất liệu gì chỉ biết nó cứng như sắt, sắc nhọn nhưng lại có màu đỏ au. Phần cán dao được quấn bằng dây gai và chỉ vàng. Thầy Tàu còn đưa thêm cho Tư một tờ giấy màu vàng không viết gì và nói:
— Con dao này là bảo vật sư phụ ta cho ta khi sang đây làm vật phòng thân. Nó có thể giúp con tránh được yêu ma, quỷ quái. Con giữ lại bên mình, còn tấm giấy vàng này nếu ta có chuyện gì thì nó sẽ cháy. Và khi đó con phải đi khỏi ngôi làng này ngay, nhất định không được quay lại đây tìm ta. Người ở trong chùa đó không phải là nhà sư….Không hiểu sao ta vừa cảm thấy ở đó vừa quen thuộc lại vừa đáng sợ. Nhớ kỹ lời ta dặn, nếu con làm trái ta chết không nhắm mắt.
Tư nghe sư phụ nói mà bủn rủn chân tay, bao năm qua chưa bao giờ Tư thấy sư phụ lại dặn dò những câu kiểu như ông sẽ không quay lại như thế này. Đứng ở cách đó một đoạn Tư nhìn thầy Tàu từng bước chậm rãi tiến về rặng tre cuối bờ sông rồi biến mất sau đó mà lòng nôn nao như có lửa đốt.