Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Phần I Chương 1

Ở nước Anh thời xa xưa, tại một ngôi làng người Briton nọ, một đôi vợ chồng già ngày qua ngày sống một cuộc đời mơ hồ, lãng đãng giữa làn sương mù không lúc nào khuất dạng. Ngày tháng nối đuôi nhau trôi đi dường như chẳng có gì đổi khác, nhưng cũng cơ hồ có rất nhiều biến động mà người ta không tài nào nhớ ra. Cho đến khi hai vợ chồng họ quyết định lên đường đi tìm người con trai nhiều năm nay không gặp. Chẳng ngờ, chờ đợi họ phía trước là một chuyến phiêu lưu kỳ lạ, cùng những con người kỳ lạ, đưa họ tới miền ký ức đã từ lâu bị chôn vùi. Người khổng lồ ngủ quên là một suy ngẫm u sầu nhưng thấm thía về sự lãng quên, tình yêu, cuộc sống, cùng cả chiến tranh và sự hận thù.

Cuốn sách đánh dấu sự trở lại của Kazuo Ishiguro sau 10 năm vắng bóng, với một hướng đi hoàn toàn mới khi ông chọn thể loại giả tưởng huyền ảo để thuật lại những chiêm nghiệm hết sức thực tế về cuộc đời.

 

Chương 1

Nếu muốn thấy quang cảnh kiểu như một con đường nhỏ uốn lượn quanh co hay một đồng cỏ thanh bình, những gì sau này đã khiến nước Anh trở nên nổi tiếng, hẳn bạn sẽ phải để mắt kiếm tìm thật lâu. Thay vào đó, chỉ có những dặm đất hoang tiêu điều; đây đó vài lối đi được phát quang sơ sài chạy qua những đồi đá lởm chởm hay những vùng đất không người ảm đạm mọc đầy thạch nam. Phần nhiều những con đường do người La Mã bỏ lại đến giờ hoặc đã bị hư hại hoặc bị cây cỏ vùi kín, để rồi đa số chìm dần trong hoang tàn quên lãng. Sương giá giăng khắp sông suối cùng những cánh đầm lầy, phụng sự đắc lực cho lũ quỷ ăn thịt người hồi ấy vẫn là thổ dân đất này. Người dân sống ở quanh đây - người ta phải tự hỏi không biết sự liều lĩnh tuyệt vọng nào đã khiến họ tới định cư tại những nơi chốn u ám đến vậy - có lẽ đã sợ chết khiếp những sinh vật này, khi mà hơi thở hổn hển của chúng vọng tới từ rất lâu, trước khi hình dáng quái dị của chúng hiện ra từ đám sương mù. Nhưng giống quái vật ấy không hề là lý do khiến người ta phải ngạc nhiên. Hồi ấy hẳn người ta coi chúng chẳng khác gì những rủi ro phải đối mặt hằng ngày, trong khi còn có rất nhiều điều khác phải bận tâm tới. Làm thế nào để thu hoạch được thức ăn từ mặt đất rắn câng; làm thế nào để không bao giờ hết củi; làm thế nào để chặn đứng thứ dịch bệnh có thể làm cả tá lợn lăn ra chết chỉ trong một ngày và gây ra những đốm phát ban màu xanh lá cây trên má trẻ nhỏ.

Dù thế nào đi chăng nữa, lũ quỷ ăn thịt người cũng không đến nỗi quá hung tợn nếu không ai chọc tức chúng. Người ta vẫn phải chấp nhận rằng, thỉnh thoảng, có lẽ là sau một vụ tranh chấp khó hiểu nào đó về cấp bậc, một con sẽ loạng choạng lao vào một ngôi làng giữa cơn thịnh nộ ghê gớm, và bất chấp những tiếng la ó cùng đủ loại vũ khí khua lên loạn xạ, sẽ điên cuồng gây thương tích cho bất kỳ ai chậm chân không kịp tránh khỏi đường đi của nó. Hoặc rằng thỉnh thoảng, một con quỷ có thể sẽ bắt đi một đứa trẻ rồi biến vào trong lớp sương mù. Con người ngày ấy phải biết thản nhiên trước những lấn lướt trắng trợn như thế.

Ở một nơi như thế, bên rìa một đầm lầy rộng lớn, dưới bóng của mấy ngọn đồi lởm chởm, có cặp vợ chồng già Axl và Beatrice sinh sống. Có lẽ đây không phải là tên chính xác hay đầy đủ của họ, nhưng ta cứ gọi như vậy cho tiện. Tôi muốn nói rằng cặp vợ chồng này sống một cuộc đời tách biệt, nhưng vào thời đó, rất ít người “tách biệt” theo bất kỳ ý nghĩa nào chúng ta có thể lĩnh hội. Để giữ ấm và vì lý do an toàn, dân làng sống trong những căn hầm, nhiều căn được đào sâu vào sườn đồi, nối liền với nhau bởi những lối đi dưới lòng đất hoặc những hành lang kín. Cặp vợ chồng già của chúng ta sống trong một mê cung hầm ngầm như thế - gọi là “tòa nhà” e chừng to tát quá - với khoảng sáu mươi người dân làng khác. Nếu rời khỏi khu cư trú của họ rồi đi bộ hai mươi phút vòng quanh quả đồi, bạn sẽ tới khu dân cư kế tiếp, và trong mắt bạn, khu này có vẻ giống hệt khu đầu tiên. Nhưng với cư dân ở đây, mỗi nơi đều có rất nhiều chi tiết khác biệt khiến họ hoặc thấy tự hào hoặc phải hổ thẹn.

Tôi không hề mong muốn tạo nên một ấn tượng rằng nước Anh thời ấy chỉ có thế; rằng khi những nền văn minh vĩ đại đã hưng thịnh ở nơi nào khác trên thế giới, thì tại đây chúng ta vẫn chưa vượt xa quá Thời kỳ Đồ Sắt là mấy. Nếu có điều kiện đi lang thang tùy hứng khắp các miền quê, bạn sẽ khám phá ra những lâu đài với âm nhạc, thức ăn cầu kỳ và các cuộc trình diễn thể thao đỉnh cao; hoặc các tu viện với các tu sĩ thông thái. Nhưng không có cách nào tránh cho được thực tế này. Kể cả khi có một chú ngựa tráng kiện, trong điều kiện thời tiết ôn hòa, rất có thể bạn sẽ phải cưỡi trên lưng ngựa cả mấy ngày trời mà vẫn không hề thấy một tòa lâu đài hay tu viện nào hiện ra giữa vùng xanh bát ngát. Chủ yếu bạn sẽ thấy những cộng đồng dân cư như tôi vừa kể, và trừ phi bạn mang theo mình những món quà là đồ ăn thức uống hay áo quần, hoặc được trang bị vũ khí dữ dội, bằng không thì bạn sẽ không dám chắc mình có được đón tiếp nồng nhiệt hay không. Tôi lấy làm tiếc khi phải vẽ nên một bức tranh như thế về đất nước của chúng ta vào thời ấy, nhưng quả là chỉ có thế.

Quay trở lại với Axl và Beatrice. Như đã nói, cặp vợ chồng già này sống ở rìa ngoài của khu hầm ngầm, ở đó nơi trú ẩn của họ ít được chở che trước sức mạnh thiên nhiên và hầu như không nhờ cậy được gì đám lửa tại hội trường, nơi dân làng tụ tập hằng đêm. Có thể đã có lúc họ sống gần đám lửa hơn; một thời gian họ còn sống với con cái. Thực ra, ý nghĩ ấy vẫn trôi dạt vào tâm trí Axl khi ông nằm trên giường trong những giờ khắc vắng vẻ trước bình minh, khi vợ ông vẫn ngủ ngon lành bên cạnh, và rồi cảm giác về một nỗi mất mát không tên cứ giày vò day dứt trong tim, khiến ông không tài nào chợp mắt lại được nữa.

Có lẽ đó là lý do vì sao, vào chính buổi sáng hôm nay, Axl dậy luôn rồi nhẹ nhàng lỉnh ra ngoài mà ngồi trên băng ghế cũ kỹ cong vênh ngay trước lối ra vào khu hầm ngầm, chờ đón những dấu hiệu đầu tiên của ánh sáng ban ngày. Lúc đó đang là mùa xuân, nhưng không khí vẫn lạnh buốt, dù ông đã khoác trên người chiếc áo choàng không tay của Beatrice ông cầm theo luôn khi ra đây. Thế nhưng ông đã miên man đắm chìm trong suy nghĩ đến độ, khi chợt cảm thấy lạnh làm sao thì cũng là lúc ông nhận ra các vì sao đã lặn tự bao giờ, một sắc đỏ đang lan tỏa phía chân trời, và những nốt nhạc đầu tiên trong bài ca của chim chóc đang vang lên trong mờ tối.

Ông chậm rãi đứng dậy, ân hận vì đã ngồi quá lâu ngoài này. Sức khỏe của ông vẫn tốt, nhưng cơn sốt gần đây nhất mãi mới dứt, và ông không muốn nó quay trở lại lần nữa. Lúc này, ông cảm nhận được cả hơi ẩm chạy dọc hai chân mình, nhưng khi quay người trở vào bên trong, ông cảm thấy vô cùng hài lòng: vì sáng nay ông đã nhớ lại được một số việc lâu nay vẫn cố tìm cách lảng tránh mình. Hơn thế nữa, ông cảm giác mình sắp có được một quyết định quan trọng nào đó - một quyết định đã bị trì hoãn quá lâu rồi - và trong người ông dâng lên một niềm phấn khích nóng lòng mong được sẻ chia với vợ.

Ở bên trong, các lối đi trong khu hầm ngầm vẫn tối thui, nên ông buộc phải lần mò suốt quãng đường ngắn quay về cửa phòng mình. Rất nhiều “cửa ra vào” trong khu hầm ngầm chỉ đơn giản là một cấu trúc vòm để đánh dấu ngưỡng cửa bước vào phòng. Cách sắp xếp mở như vậy không khiến dân làng cảm thấy bị xâm phạm đời tư, mà cho phép các phòng được nhờ hơi ấm lùa dọc các dãy hành lang từ đám lửa lớn hay các đám lửa nhỏ được phép nhóm trong khu. Phòng của Axl và Beatrice, tuy không có may mắn được nằm gần bất cứ đám lửa nào, lại có một thứ có lẽ tất cả chúng ta đều nhận ra là một cánh cửa hẳn hoi: một khung gỗ lớn với những cành cây nhỏ, dây leo và các cây cúc gai đan chéo nhau mà mỗi lần ai đó muốn ra hay vào phòng đều sẽ phải nhấc qua một phía, nhưng cũng là thứ ngăn được những đợt gió lùa tê tái. Axl vui lòng sống không cần cánh cửa này, nhưng dần dà cánh cửa đã trở thành một vật thể hiện niềm tự hào lớn lao cho Beatrice. Mỗi khi trở về phòng, ông vẫn thường thấy vợ mình đang kéo bỏ các cành cây khô héo khỏi công trình này để thay vào những cành mới cắt bà thu nhặt được trong ngày.

Sáng nay, Axl nhấc chướng ngại vật này chỉ vừa đủ chỗ để lách vào căn hầm, cố gắng làm sao không gây ra quá nhiều tiếng động. Trong này, những tia nắng ban mai đang lọt vào phòng qua các kẽ nứt trên bức tường phía ngoài. Ông có thể nhìn thấy bàn tay mình lờ mờ trước mặt, và trên chiếc giường đắp bằng đất cỏ, dáng hình Beatrice vẫn đang ngon lành ngủ dưới đống chăn dày.

Ông thấy muốn đánh thức vợ dậy. Vì một phần trong ông cảm thấy chắc chắn rằng, nếu bà tỉnh giấc vào đúng thời khắc này mà trò chuyện với ông thì những rào cản cuối cùng ngăn cách ông với quyết định của mình, bất kể những rào cản đó là gì đi chăng nữa, cũng sẽ tan ra thành từng mảnh. Nhưng phải một lúc nữa cộng đồng dân làng mới tỉnh giấc và ngày làm việc mới bắt đầu, nên ông lại ngồi xuống chiếc ghế thấp trong góc phòng, áo choàng của vợ vẫn khoác chặt trên người.

Ông tự hỏi không biết sáng nay sương mù sẽ dày đến mức nào, và khi bóng tối tan dần, liệu rồi ông có thấy sương đã kịp theo các kẽ nứt lan tỏa vào trong phòng từ trước hay không. Nhưng rồi suy nghĩ của ông lại dạt đi khỏi những chuyện như vậy, trở lại với những gì ông vốn đang bận tâm. Phải chăng họ vẫn luôn sống thế này, chỉ hai người bọn họ, ở ngoài rìa cộng đồng? Hay là có một lúc nào đó, mọi thứ đã từng hoàn toàn khác? Lúc nãy, khi ở ngoài trời, vài mảnh vụn ký ức đã tìm đường trở về với ông: một khoảnh khắc nhỏ nhoi khi ông bước trên hành lang trung tâm dài trong khu hầm ngầm, cánh tay ông quàng qua ôm lấy một trong mấy đứa con của mình, dáng đi của ông hơi cúi xuống, không phải vì tuổi tác, thứ rất có thể khiến ông phải còng xuống hiện giờ, mà vì ông muốn tránh đập đầu vào các thanh rầm trong thứ ánh sáng âm u. Hình như đứa trẻ vừa mới nói gì đó với ông, một điều vui vẻ, và cả hai bố con cùng cười vang. Nhưng lúc này, cũng như lúc nãy khi còn ở bên ngoài, chẳng có gì là chắc chắn trong tâm trí ông, và ông càng cố gắng tập trung, các mảnh ký ức dường như càng trở nên mờ nhạt hơn. Có lẽ đây chỉ là sự tưởng tượng dớ dẩn của tuổi già. Có lẽ Chúa chưa bao giờ ban cho họ đứa con nào.

Có thể bạn đang băn khoăn tự hỏi tại sao Axl không nhờ tới dân làng để giúp ông tìm lại quá khứ, nhưng việc này không dễ như bạn hình dung. Vì trong cộng đồng này, quá khứ rất hiếm khi được bàn tới. Tôi không có ý nói đó là điều bị cấm kỵ. Tôi chỉ muốn nói không biết vì sao, quá khứ đã dần nhạt phai vào một đám sương mù dày như màn sương giăng trên các đầm lầy. Đơn giản là, dân làng không có nhu cầu nghĩ về quá khứ - kể cả quá khứ gần.

Ví dụ thế này, có một chuyện đã khiến Axl phiền lòng suốt một thời gian. Ông biết chắc chắn rằng cách đây không lâu lắm, trong số dân làng có một phụ nữ với mái tóc dài màu đỏ - một phụ nữ được coi là trọng yếu trong làng. Bất cứ khi nào ai đó bị thương hay ngã bệnh thì người phụ nữ tóc đỏ này, rất mát tay trong việc chữa lành mọi vết thương, luôn lập tức được vời tới. Vậy mà bây giờ lại không thể tìm thấy chính người phụ nữ ấy ở bất cứ đâu, và không ai tỏ vẻ băn khoăn muốn biết chuyện gì đã xảy ra, hay thậm chí chỉ là tỏ vẻ tiếc nuối vì sự vắng mặt của cô. Vào một buổi sáng, Axl đã nhắc tới chuyện này với ba người hàng xóm khi cùng họ vỡ đất trên cánh đồng phủ đầy sương giá, và họ trả lời ông rằng họ thực lòng không biết ông đang nhắc đến chuyện gì. Một trong số họ còn ngừng tay để cố nhớ, nhưng cuối cùng cũng phải lắc đầu. “Chắc đã lâu lắm rồi,” anh ta đã nói thế.

“Cả em cũng không hề nhớ có người phụ nữ nào như thế,” Beatrice đã nói như vậy khi ông nhắc đến chuyện này với bà vào một buổi tối. “Có lẽ anh đã bịa ra cô ấy vì nhu cầu riêng, Axl ạ, mặc dù anh có một người vợ ngồi ngay cạnh anh đây, người có cái lưng thẳng hơn lưng anh.”

Chuyện này xảy ra lúc nào đó hồi mùa thu năm ngoái, khi họ đang nằm bên nhau trên giường trong bóng tối như mực, lắng nghe tiếng mưa đập vào tường phòng.

“Đúng là em hầu như không già đi chút nào trong suốt những năm tháng đã qua, công chúa ạ,” Axl nói. “Nhưng người phụ nữ này không phải là một giấc mơ, và em sẽ nhớ ra nếu em chịu dành chút thời gian nghĩ về cô ấy. Chỉ một tháng trước thôi, tấm lòng nhân hậu ấy đứng ngay chỗ cửa ra vào nhà mình mà hỏi liệu cô ấy có thể mang cái gì đến giúp chúng ta không. Chắc chắn là em nhớ chứ.”

“Nhưng tại sao cô ấy lại muốn mang cái gì đó đến cho chúng ta mới được chứ? Cô ấy có họ hàng với chúng ta à?”

“Anh không nghĩ thế, công chúa ạ. Chỉ vì cô ấy là người tốt. Chắc chắn là em nhớ. Cô ấy vẫn hay đến cửa phòng hỏi liệu chúng ta có bị lạnh hay đói không.”

“Axl ơi, điều em muốn hỏi chính là, việc gì mà cô ấy phải chọn riêng chúng ta ra để tỏ lòng nhân hậu chứ?”

“Khi đó anh cũng tự hỏi mình như thế, công chúa ạ. Anh nhớ mình đã nghĩ đây là người phụ nữ chuyên chăm sóc người ốm, trong khi ở đây cả hai chúng ta đều khỏe mạnh chẳng khác bất cứ ai trong làng. Có lẽ đã có tin đồn về một dịch bệnh đang trên đường tràn tới và cô ấy đến xem chúng ta ra sao chăng? Nhưng hóa ra chẳng có dịch bệnh gì hết, và chỉ vì cô ấy là một người nhân hậu. Khi chúng ta nói chuyện về cô ấy thế này, anh lại nhớ ra thêm nhiều chuyện nữa. Cô ấy đứng đó bảo chúng ta đừng bận tâm khi bọn trẻ con gọi chúng ta bằng những cái tên tục tĩu. Vậy đó. Rồi thì chúng ta không bao giờ thấy cô ấy nữa.”

“Người phụ nữ tóc đỏ này không chỉ là một giấc mơ trong tâm trí anh đâu, Axl ạ, cô ấy còn là một kẻ ngốc khi tự giày vò bản thân chỉ vì vài đứa trẻ và mấy trò chơi của chúng.”

“Hồi ấy anh cũng nghĩ y như thế, công chúa của anh ạ. Bọn trẻ chẳng làm gì hại đến chúng ta và chúng cũng chỉ chơi vui cho qua ngày khi mà thời tiết bên ngoài quá ảm đạm. Anh nói với cô ấy chúng ta chưa bao giờ nghĩ ngợi gì về bọn trẻ, nhưng cô ấy vẫn cứ tử tế như thế. Và rồi anh nhớ cô ấy bảo thật đáng tiếc khi chúng ta không có nến dùng vào ban đêm.”

“Nếu con người ấy thương xót chúng ta vì chúng ta không có nến,” Beatrice nói, “thì ít ra cô ấy cũng đúng được một việc. Thực là một sự sỉ nhục, không cho chúng ta một ngọn nến thắp trong những đêm thế này trong khi tay chúng ta cũng vững vàng chẳng kém bất kỳ ai trong bọn họ. Trong khi những người khác có nến thắp trong phòng, kẻ thì đêm nào cũng bất tỉnh vì rượu táo, kẻ thì để bọn trẻ con chạy tán loạn khắp nơi. Vậy mà họ lại lấy đi nến của chúng ta, và giờ đây em gần như không thể thấy hình dáng của anh, Axl ơi, cho dù anh nằm đây ngay cạnh em.”

“Họ không có ý sỉ nhục chúng ta, công chúa ạ. Chỉ là vì mọi thứ đã luôn như thế và tất cả chỉ có thế.”

“Chà, chẳng phải chỉ có người phụ nữ trong mơ của anh nghĩ việc chúng ta bị tước mất nến là điều kỳ cục đâu. Hôm qua hay là hôm kia nhỉ, khi đó em đang ở ngoài bờ sông, đi ngang qua chỗ vài phụ nữ và chắc chắn em nghe được họ nói, khi họ tưởng em đã đi xa không còn nghe thấy gì nữa, rằng thật là một sự bôi nhọ khi một cặp vợ chồng chính trực như chúng ta lại phải ngồi trong bóng tối hằng đêm. Vậy nên không riêng gì người phụ nữ trong mơ của anh mới suy nghĩ như vậy đâu.”

“Cô ấy không phải là người phụ nữ trong mơ, anh đã bảo em biết bao lần rồi, công chúa của anh. Tất cả mọi người ở đây một tháng trước đều biết cô ấy và đều nói những điều tốt đẹp về cô ấy. Điều gì đã khiến tất cả mọi người, kể cả em nữa, quên rằng cô ấy đã từng có mặt trên đời?”

Nhớ lại cuộc nói chuyện ấy vào một buổi sáng mùa xuân thế này, Axl có cảm giác mình sắp sẵn sàng thừa nhận mình đã lầm về người phụ nữ tóc đỏ. Rốt cuộc thì, ông chỉ là một người đàn ông ở tuổi xế chiều và thỉnh thoảng rất dễ bị nhầm lẫn. Ấy vậy mà, trường hợp người phụ nữ tóc đỏ này chỉ là một cơn quên lãng lâu dài sau những vụ việc rối bời diễn ra trong làng. Bực nhất là vì ngay lúc này, ông không thể nghĩ ra được nhiều ví dụ, nhưng không chút nghi ngờ gì, đã từng có rất nhiều vụ việc tương tự như thế. Ví dụ một sự việc liên quan đến Marta.

Marta là một cô bé độ chín mười tuổi luôn nổi danh vì bạo dạn. Tất cả những câu chuyện dựng tóc gáy về những gì có thể xảy đến với những đứa trẻ thích đi lang thang dường như không làm nguội lạnh máu phiêu lưu trong cô bé. Vậy là vào một buổi tối, khi mà chưa đầy một tiếng nữa là trời tối, sương giá đương tràn tới và tiếng hú của lũ sói vọng đến từ phía sườn đồi, tin Marta mất tích lan ra, tất cả mọi người đều hốt hoảng dừng việc đang làm. Rồi trong khoảng thời gian ngắn ngủi tiếp sau đó, khắp nơi trong khu hầm ngầm vang lên tiếng mọi người gọi tên cô bé và tiếng những bước chân hối hả chạy ngược xuôi các dãy hành lang khi dân làng tìm kiếm trong từng phòng ngủ, các hang chứa đồ, cùng các hốc phía dưới lớp rui trần, kiểm tra bất cứ chỗ ẩn nấp nào một đứa trẻ có thể khoái chí chui vào.

Thế rồi giữa cảnh hoảng loạn này, hai người chăn cừu trở về làng sau ca làm việc trên các sườn đồi vào tới hội trường rồi sưởi ấm bên đám lửa. Khi đó, một trong hai người thông báo là hôm trước họ đã thấy một con đại bàng đầu bạc lượn vòng phía trên đầu mình ra sao, một lần, hai lần, rồi đến ba lần liền. Không thể lầm được, anh ta nói, đó là một con đại bàng đầu bạc. Tin tức này lan nhanh khắp làng và chẳng mấy chốc, một đám đông đã kịp tụ tập quanh đống lửa để nghe chuyện của hai người chăn cừu. Đến cả Axl cũng đã vội vàng nhập hội, vì sự xuất hiện của một con đại bàng đầu bạc ở vùng này quả là một câu chuyện thời sự. Một trong số các sức mạnh được gán cho đại bàng đầu bạc là khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng cho lũ chó sói, và ở đâu đó trên đất này, nghe nói lũ sói đã hoàn toàn biến mất nhờ sự có mặt của giống chim này.

Thoạt đầu, người ta hăm hở chất vấn hai người chăn cừu và buộc họ phải kể đi kể lại câu chuyện nhiều lần. Rồi một mối nghi ngờ bắt đầu lan rộng trong đám thính giả. Đã có quá nhiều lời tuyên bố tương tự thế này, một người lưu ý, và lần nào cũng hóa ra là vô căn cứ. Một người khác nói chính hai người chăn cừu này đã kể đúng chuyện này hồi mùa xuân năm ngoái, và đến giờ cũng chưa ai ngoài họ thấy gì. Hai người chăn cừu tức giận phủ nhận việc họ đã từng mang câu chuyện này về làng vào mùa xuân năm ngoái, và thế là đám đông nhanh chóng chia thành hai phe, một phe ủng hộ hai người chăn cừu và một phe tuyên bố có nhớ chút ít về chuyện được cho là đã diễn ra năm trước.

Khi cuộc tranh cãi ngày càng nảy lửa hơn, Axl ngập tràn trong một cảm giác quen thuộc không nguôi rằng có điều gì đó không ổn, ông liền lánh xa khỏi những tiếng la ó và sự xô đẩy, bỏ ra ngoài ngắm nhìn bầu trời u ám và làn sương giá đang lan dần trên mặt đất. Một lát sau, những mảng ký ức bắt đầu ráp lại với nhau trong tâm trí ông, về cô bé Marta mất tích, về mối hiểm nguy, về việc chỉ mới đây thôi mọi người còn đang tìm kiếm cô bé thế nào. Nhưng những ký ức này chưa gì đã trở nên lộn xộn, thật giống những gì diễn ra trong vài giây đồng hồ đầu tiên sau khi tỉnh dậy từ một giấc mơ, và phải với một sự tập trung cao độ, Axl mới có thể tiếp tục theo đuổi dòng suy nghĩ về Marta bé bỏng trong khi những giọng nói sau lưng ông tiếp tục cãi vã về đại bàng đầu bạc. Thế rồi, khi đang đứng như thế, ông bỗng nghe thấy tiếng hát của một bé gái và rồi Marta từ trong đám sương mù hiện ra trước mặt ông.

“Cháu là một đứa bé kỳ quặc, cháu ạ,” Axl nói khi cô bé nhảy chân sáo về phía ông. “Cháu không sợ bóng tối sao? Không sợ chó sói hay quỷ ăn thịt người à?”

“Ồ, cháu sợ chúng lắm ông ạ,” cô bé nói với một nụ cười. “Nhưng cháu biết cách trốn để chúng không tìm ra cháu. Cháu mong bố mẹ cháu vẫn chưa đi tìm cháu. Tuần trước cháu đã bị nện cho một trận nên thân đấy ông ạ.”

“Tìm cháu ư? Tất nhiên họ đã đi tìm cháu. Chẳng phải cả làng đang tìm cháu đấy ư? Hãy lắng nghe những tiếng om sòm trong làng mà xem. Tất cả là vì cháu đấy, cháu bé ạ.”

Marta cười to và nói: “Thôi ông đừng nói nữa, ông ơi! Cháu biết họ đâu có nhớ gì đến cháu. Và cháu có nghe thấy, họ đang la ó nhưng không phải về cháu.”

Cô bé vừa nói đến đây, Axl chợt nhận ra quả là cô bé đã đúng: những tiếng tranh luận trong kia hoàn toàn không phải về cô bé, mà về một vấn đề khác hẳn. Ông nghiêng người về phía lối ra vào để nghe cho rõ hơn, và khi chợt nghe thấy những từ lẻ tẻ giữa những giọng nói bị kích động, ông bắt đầu nhớ ra câu chuyện về những người chăn cừu và đại bàng đầu bạc. Khi ông còn đang băn khoăn không biết có nên giải thích điều gì đó về chuyện này cho Marta hay không, cô bé đột nhiên nhảy chân sáo qua chỗ ông đứng để vào trong làng.

Ông cũng đi theo có bé, đoán thấy sự khuây khỏa và niềm vui mà sự xuất hiện của cô bé sẽ mang lại cho mọi người. Và thật lòng mà nói, trong ông chợt nảy ra ý nghĩ, khi vào cùng cô bé thế này, người ta sẽ công nhận ông có chút công lao đưa cô bé an toàn trở về. Nhưng khi họ vào đến hội trường, dân làng vẫn đang mải mê tranh cãi về hai người chăn cừu đến độ chỉ có vài người để tâm nhìn về phía họ. Mẹ của Marta cũng chỉ tạm bỏ cuộc vui đủ lâu để nói với cô bé thế này: “Vậy là con đã về rồi đấy! Đừng có bỏ đi lang thang như thế chứ! Mẹ còn phải nhắc nhở thường xuyên đến thế nào nữa hả?” rồi lại toàn tâm chú ý vào cuộc tranh luận đang ác liệt diễn ra bên đám lửa. Thấy thế, Marta nhe răng ra cười với Axl như muốn nói: “Ông thấy cháu nói đúng chưa?” rồi biến mất vào trong bóng tối đi tìm bạn.

Căn phòng đã sáng rõ hẳn. Nhờ nằm ở rìa của khu hầm ngầm nên buồng ngủ của họ có một cửa sổ nhỏ thông với bên ngoài, mặc dù ô cửa quá cao không thể nhìn ra nếu không đứng trên ghế. Một mảnh vải đang che kín ô cửa, nhưng đúng lúc này, một tia nắng sớm đã lọt qua một góc và rọi sáng tới chỗ Beatrice đương nằm ngủ. Lọt vào chùm sáng này, Axl nhìn thấy, hình như một con côn trùng đang lởn vởn trong không trung ngay phía trên đầu vợ mình. Rồi ông nhận ra đó chính là một con nhện, nó lửng lơ trên không nhờ một sợi tơ vô hình thẳng đứng, và khi ông đang theo dõi thế này, nó đã kịp bắt đầu nhịp nhàng hạ dần độ cao. Nhẹ nhàng đứng dậy, Axl bước ngang căn phòng nhỏ rồi lướt tay qua khoảng không bên trên người Beatrice, túm lấy con nhện trong lòng bàn tay. Rồi ông đứng nguyên đó một lát để ngắm bà. Một sự thanh thản, điều giờ đây thật hiếm thấy khi bà thức giấc, đang hiện ra trên gương mặt chìm trong giấc ngủ của bà, và cảm giác hạnh phúc do phát hiện này mang lại dồn tới đột ngột đến mức ông phải ngạc nhiên. Đó cũng là lúc ông biết mình đã đưa ra một quyết định và ông lại muốn đánh thức Beatrice dậy để có thể báo tin cho bà. Nhưng ông lại thấy sự ích kỷ của hành động này - và hơn nữa, làm sao ông biết chắc câu trả lời của bà sẽ ra sao? Cuối cùng, ông lại nhẹ bước trở lại chỗ chiếc ghế, và khi một lần nữa ngồi xuống, ông thận trọng mở lòng bàn tay vì chợt nhớ đến con nhện đang nằm trong đó.

Lúc ngồi trên chiếc ghế dài ngoài trời chờ tia nắng đầu tiên vào sáng sớm hôm nay, ông đã cố nhớ xem lần đầu tiên hai vợ chồng nhắc tới ý tưởng về cuộc hành trình này là vì cái gì. Khi ấy, ông cứ nghĩ mình đã xác định rõ xuất phát điểm chính là từ một cuộc nói chuyện giữa hai người ngay tại căn phòng này, nhưng giờ đây, ngồi ngắm chú nhện chạy vòng quanh lòng bàn tay rồi rơi xuống nền đất phía dưới, ông chợt đinh ninh rằng lần đầu tiên họ đề cập tới vấn đề này lại là hôm người lạ mặt vận đống giẻ rách tối màu đi ngang qua làng.

Đó là một buổi sáng xám xịt - có phải tít từ hồi tháng Mười một năm ngoái? - khi ấy Axl đang sải bước trên một lối mòn liễu rủ ven sông. Ông đương vội vã từ ngoài đồng trở về làng, chắc là để lấy một dụng cụ hoặc để nhận chỉ thị mới từ người quản đốc. Dù gì đi chăng nữa, một tràng những tiếng la lối bỗng nổi lên từ phía sau mấy lùm cây bên tay phải đã buộc ông dừng bước. Ý nghĩ đầu tiên là quỷ ăn thịt người, ông vội đưa mắt nhìn quanh tìm một hòn đá hoặc một cành cây. Nhưng rồi ông nhận ra những giọng nói ấy - toàn phụ nữ cả - mặc dù giận dữ và nóng nảy nhưng lại thiếu đi sự kinh hoảng thường thấy mỗi khi bị quỷ ăn thịt người tấn công. Biết vậy nhưng ông vẫn quả quyết chui qua bờ rào những bụi cây bách xù và loạng choạng bước ra một khoảng đất trống, nơi có năm phụ nữ - không còn là những cô gái mới lớn nhưng vẫn trong độ tuổi sinh nở - đang đứng sát vào nhau. Lưng họ quay về phía ông và họ đang tiếp tục la ó về phía một thứ gì đó đằng xa. Phải đến lúc ông đã đến gần thì một phụ nữ mới giật nảy mình nhận ra ông, nhưng sau đó những người còn lại đều quay cả lại và nhìn ông, vẻ xấc láo.

“Chà, chà,” một người nói. “Không hiểu chỉ là ngẫu nhiên thôi hay sẽ còn chuyện gì nữa đây. Nhưng ông chồng đây rồi, hy vọng ông giúp được bà ấy hiểu ra lẽ phải.”

Người phụ nữ đầu tiên trông thấy ông cất lời: “Chúng tôi đã bảo vợ ông đừng có đi, nhưng bà ấy không nghe. Bà ấy cứ khăng khăng sẽ mang thức ăn ra chỗ người lạ mặt cho dù đó không phải quỷ thì cũng hẳn là yêu tinh trá hình.”

“Vợ tôi đang gặp nguy hiểm sao? Các cô hãy làm ơn giải thích cho tôi nghe với.”

“Có một phụ nữ lạ mặt suốt sáng nay cứ lảng vảng quanh chỗ chúng tôi,” một người khác nói. “Tóc thả xuống lưng và áo choàng đen rách rưới. Ả nói mình là người Saxon nhưng ăn mặc thì chẳng giống bất kỳ người Saxon nào chúng tôi từng gặp. Ả rón rén tìm cách lẻn tới gần khi chúng tôi đang giặt quần áo bên bờ sông, nhưng chúng tôi đã kịp trông thấy và xua ả đi chỗ khác. Nhưng rồi ả ta cứ quay lại, hành động như thể trái tim đang tan vỡ vì điều gì đó, lúc khác nữa thì lại xin ăn. Chúng tôi đoán bùa mê của ả nhằm cả vào vợ ông đấy, ông ạ, vì nội trong sáng nay đã hai lần chúng tôi phải túm tay Beatrice giữ bà ấy lại, vì bà ấy một lòng muốn đến chỗ con quỷ ấy đến khiếp. Giờ thì bà ấy đã vùng vẫy thoát ra được mà lên tận chỗ bụi gai già nơi con quỷ lúc ấy đang ngồi chờ. Chúng tôi đã cố hết sức giữ bà ấy lại, ông ạ, nhưng hẳn là con quỷ đã kịp truyền năng lượng sang vợ ông, vì với một phụ nữ lớn tuổi gầy trơ xương như thế thì bà ấy khỏe lạ thường.”

“Bụi gai già ư…”

“Bà ấy vừa mới lên đó thôi, ông ạ. Nhưng chắc chắn đó là một con quỷ, nếu ông định đuổi theo vợ mình thì nhớ để ý đừng có giẫm lên hoặc để gai độc đâm vào người, nếu không thì sẽ chẳng bao giờ lành lại được đâu.”

Axl phải cố gắng lắm mới giấu được nỗi khó chịu với những phụ nữ này, ông lịch sự nói: “Rất cảm ơn các cô. Để tôi đi xem vợ tôi đang làm gì. Tôi xin phép.”

“Bụi gai già” là cái tên dân làng của chúng ta dành cho một địa điểm có phong cảnh đẹp trong vùng, mà thực chất thì chính là dành cho cây táo gai dường như mọc thẳng ra từ tảng đá nằm ở rìa mũi đất ở đó, cách ngôi làng của họ chỉ một quãng ngắn đường bộ. Vào một ngày nắng đẹp, nếu gió không quá mạnh, đây là một địa điểm dễ chịu để giết thì giờ. Bạn được thấy toàn cảnh phần đất chạy xuống tận triền sông, thấy khúc quanh của dòng sông cũng như khu đầm lầy bên kia sông. Vào những ngày Chủ nhật, trẻ con thường vui chơi quanh đám rễ cây đầy mấu, thỉnh thoảng còn cả gan nhảy xuống từ mỏm doi đất, thực ra thì chỗ này cũng chỉ thoai thoải dần nên độ cao không thể gây thương tích cho đứa trẻ nào, mà chỉ đủ khiến cho chúng lăn vòng như những thùng rượu trên con dốc cỏ. Nhưng vào một buổi sáng như sáng nay, khi cả người lớn lẫn trẻ con đều bận rộn công việc như nhau, sẽ chẳng có ai ngồi chơi chỗ này, nên sau khi vượt qua một đám sương mù giăng trên con đường dốc, Axl không ngạc nhiên chút nào khi thấy chỉ có hai người phụ nữ, gần như chỉ là hai cái bóng in trên nền trời xám trắng. Rõ thật, người phụ nữ lạ mặt đang ngồi tựa lưng vào tảng đá kia ăn mặc mới kỳ lạ làm sao. Ít ra thì nhìn từ xa thế này, áo choàng của cô ta có vẻ như được khâu lại từ rất nhiều mảnh vải lúc này bay lật phật trong gió, khiến cho chủ nhân của nó trông giống như một con chim khổng lồ đang chuẩn bị tung cánh. Beatrice vẫn đứng bên cạnh - dẫu cho bà đang cúi đầu xuống lắng nghe - trông có vẻ mong manh và yếu ớt. Đang trò chuyện một cách nghiêm túc, nhưng khi phát hiện Axl đang đi lên, họ liền ngưng lại nhìn. Sau đó, Beatrice ra chỗ mỏm mũi đất mà gọi với xuống:

“Đứng yên đó, chồng ơi, đừng tiến xa thêm nữa! Em sẽ xuống với anh. Đừng có lên đây phá vỡ sự yên bình của người phụ nữ khốn khổ này khi mà giờ đây, cuối cùng cô ấy cũng được thư giãn đôi chân và ăn một chút bánh mì sót lại từ ngày hôm qua.”

Axl đứng chờ đúng theo chỉ dẫn và chẳng mấy chốc, ông thấy vợ theo lối đi nhỏ trên đồng đất xuống chỗ mình. Bà đi thẳng đến chỗ ông và nói thật nhỏ, rõ là vì lo sợ gió sẽ đưa những gì mình nói lên tới chỗ người lạ mặt:

“Có phải mấy cô gái ngớ ngẩn kia bảo anh lên đây tìm em không hả chồng? Hồi bằng tuổi họ, em cũng từng nghĩ những người lớn tuổi lúc nào cũng lo sợ và mang những niềm tin xuẩn ngốc, nghĩ viên đá nào cũng đã bị nguyền rủa và mỗi con mèo hoang đều là linh hồn của quỷ dữ. Nhưng bây giờ em đã già rồi, em chẳng thấy gì khác ngoài việc chính bọn trẻ mới là những kẻ đã mục ruỗng trong những tín ngưỡng mù quáng, như thể chúng chưa bao giờ được nghe lời hứa của Chúa, rằng Người lúc nào cũng sẽ song hành bên chúng ta. Hãy nhìn người phụ nữ lạ mặt tội nghiệp kia mà xem, anh hãy tự nhìn đi, kiệt sức và lẻ loi, cô ấy phải lang thang giữa rừng già và các cánh đồng đã bốn ngày trời, hết làng này tới làng khác yêu cầu cô ấy phải tiếp tục ra đi. Cô ấy đang bước chân trên vùng đất của đạo Thiên Chúa, thế mà lại bị coi là một con quỷ dữ hoặc có lẽ bị coi là một người hủi cũng nên, mặc dù chẳng có dấu hiệu gì của căn bệnh này trên da cô ấy. Giờ thì, chồng ơi, em hy vọng anh không định lên đây để cấm em an ủi cũng như mang chút thức ăn đạm bạc em có cho người phụ nữ tội nghiệp này nhé.”

“Anh sẽ không bao giờ nói với em những điều như vậy, công chúa của anh, vì anh thấy những gì em vừa nói đều là đúng. Khi còn chưa lên đây, anh đã nghĩ thật đáng hổ thẹn làm sao khi chúng ta không thể đón tiếp một người lạ bằng lòng tốt của mình được nữa.”

“Vậy thì hãy tiếp tục đi làm việc của anh đi, chồng của em, vì em biết chắc họ sẽ lại phàn nàn anh mới chậm chạp làm sao, và trước khi anh kịp nhận ra, họ sẽ lại để bọn trẻ con hát vè giễu chúng ta mà xem.”

“Chưa có ai nói anh làm việc chậm chạp hết, công chúa ạ. Em nghe từ đâu ra chuyện ấy? Anh chưa bao giờ nghe thấy lời phàn nàn nào như thế và anh hoàn toàn có thể hoàn thành những khối lượng công việc nặng nhọc hệt như những người trẻ hơn mình đến hai mươi tuổi.”

“Em chỉ đùa thế thôi, chồng ơi. Đúng thế, chẳng có ai phàn nàn về anh hết.”

“Nếu bọn trẻ con chửi rủa chúng ta, điều đó chẳng liên quan gì tới chuyện anh làm việc nhanh hay chậm, mà do bố mẹ chúng quá ngu ngốc hay đúng hơn là quá say xỉn đến nỗi không biết dạy chúng cư xử phải phép và kính trọng.”

“Bình tĩnh lại, chồng của em. Em đã nói là em chỉ đùa thôi mà, và em sẽ không bao giờ đùa như thế nữa. Người lạ mặt kia đang cho em biết những điều em rất quan tâm và có thể lúc nào đó anh cũng sẽ quan tâm cho mà xem. Nhưng cô ấy phải nói cho hết, nên hãy cho phép em yêu cầu anh một lần nữa, hãy nhanh chân trở lại với việc anh đang làm để em được nghe tiếp chuyện của cô ấy và an ủi cô ấy nếu được.”

“Anh xin lỗi, công chúa của anh, nếu anh nói năng có phần hà khắc với em.”

Nhưng Beatrice đã kịp quay người và đang ngược dốc trở lại chỗ cây táo gai, đến với dáng người khoác áo choàng đương phần phật bay trong gió.

Một lát sau, lo việc xong quay lại chỗ cánh đồng, như để thử thách lòng kiên nhẫn của dân làng, Axl rẽ chệch khỏi lộ trình để được đi qua chỗ bụi gai già thêm một lần nữa. Sự thực là, mặc dù hoàn toàn đứng về phía vợ mà coi khinh bản tính ngờ vực của những phụ nữ kia, ông vẫn không làm sao thoát khỏi ý nghĩ rằng người lạ mặt ấy đúng là có mang theo một mối đe dọa nào đó, và ông cứ lo lắng suốt kể từ khi để Beatrice lại một mình với cô ta. Ông nhẹ cả người khi trông thấy bóng dáng Beatrice ngồi một mình trước tảng đá trên mũi đất, nhìn ra bầu trời trước mặt. Dường như đang đắm chìm trong suy nghĩ, nên phải tới khi ông gọi với lên, bà mới nhận thấy sự hiện diện của ông. Quan sát vợ đi xuống trên lối mòn, chậm rãi hơn bao giờ hết, Axl thấy dáng đi của Beatrice gần đây có điều gì đó khác biệt, cho dù đây không phải là lần đầu tiên ông nhận thấy điều này. Bà không đi khập khiễng, nhưng dường như có một nỗi đau đang âm ỉ đâu đó trong bà. Lúc vợ tới gần, Axl hỏi chuyện gì đã xảy ra với người bạn kỳ quặc kia thì Beatrice chỉ nói đơn giản thế này: “Cô ấy đi rồi.”

“Chắc rằng cô ấy đã rất biết ơn lòng tốt của em, công chúa ạ. Em nói chuyện với cô ấy có lâu không?”

“Có, và cô ấy có rất nhiều chuyện để kể cho em nghe.”

“Anh thấy cô ta đã nói điều gì đó khiến công chúa của anh phiền lòng. Có lẽ những người phụ nữ kia đã đúng và tốt hơn cả là tránh xa cô ta ra.”

“Cô ấy không làm em khó chịu, Axl. Cô ấy chỉ khiến em phải suy nghĩ mà thôi.”

“Tâm trạng của em kỳ quá. Em có chắc cô ta không phù phép em trước khi tan biến vào không khí không?”

“Hãy lên chỗ bụi gai già mà nhìn, chồng ạ, anh sẽ thấy cô ấy trên đường sau khi vừa rời đi mới đây thôi. Cô ấy hy vọng sẽ tìm được những tấm lòng nhân hậu hơn từ những người dân sống phía sau quả đồi.”

“Vậy thì anh sẽ để em yên, công chúa của anh, khi anh đã biết em không sao. Chúa sẽ hài lòng vì em đã bày tỏ lòng nhân hậu của mình như lúc nào em cũng thế.”

Nhưng lần này, Beatrice có vẻ miễn cưỡng không muốn Axl bỏ đi. Bà níu lấy cánh tay ông, mặc dù trong giây lát có vẻ chỉ để đứng cho vững, nhưng rồi sau đó bỗng ngả đầu trên ngực chồng. Như được bản năng điều khiển, tay ông đưa lên vuốt ve mái tóc bà, mái tóc đã rối bời trong gió, và khi nhìn xuống, ông rất ngạc nhiên thấy mắt bà vẫn mở to.

“Tâm trạng của em kỳ lạ quá, đúng vậy,” ông nói. “Người lạ mặt ấy đã nói gì với em?”

Beatrice tựa đầu vào ngực Axl thêm một lát nữa. Rồi bà đứng thẳng dậy và buông tay khỏi ông. “Axl ơi, giờ đây sau khi đã suy nghĩ kỹ, em cảm thấy đúng là hình như có một sự thực nào đó trong những điều anh vẫn thường nhắc đến. Thế giới này mới kỳ quặc làm sao, khi người ta có thể lãng quên những người họ mới gặp hay những gì mới chỉ xảy ra ngày hôm qua hay hôm kia mà thôi. Sự lãng quên ấy giống như một căn bệnh bao phủ lấy tất cả chúng ta vậy.”

“Đúng như những gì anh vẫn nói, công chúa ạ. Thử lấy người phụ nữ tóc đỏ ấy…”

“Đừng bận tâm tới người phụ nữ tóc đỏ làm gì, Axl. Đó chỉ là một điều khác đã bị chúng ta quên lãng mà thôi.” Vợ ông nói câu này khi đưa mắt nhìn ra khoảng không tầng tầng sương giăng phía xa, nhưng lúc này bà đã quay lại nhìn thẳng vào ông, và ông có thể thấy nỗi buồn và khát khao dâng đầy trong mắt bà. Và đó chính là lúc - ông biết chắc vậy - bà nói với ông: “Đã từ lâu anh luôn phản đối việc này, Axl của em, em biết. Nhưng giờ đã đến lúc cần suy nghĩ lại. Chúng ta phải thực hiện chuyến đi ấy, không nên trì hoãn thêm chút nào nữa.”

“Một chuyến đi ư, công chúa? Chuyến đi gì mới được chứ?”

“Chuyến đi tới ngôi làng của con trai chúng ta. Không xa đâu, chồng ơi, chúng ta biết thế. Kể cả với những bước chân chậm chạp của hai ta, nó cũng chỉ mất vài ngày đi bộ là cùng, chỉ qua Đại Đồng Bằng rồi thêm một đoạn đường ngắn nữa về phía Đông mà thôi. Và cũng chẳng còn bao lâu nữa, mùa xuân sẽ tới.”

“Chúng ta có thể thực hiện một chuyến đi như vậy, nhất định rồi, công chúa ạ. Có phải người lạ mặt kia vừa nói với em điều gì đó khiến em suy nghĩ về chuyện này?”

“Em đã suy nghĩ về điều này từ lâu rồi, Axl ơi, những gì người phụ nữ khốn khổ kia nói với em chỉ khiến em không muốn trì hoãn thêm chút nào nữa mà thôi. Con trai của hai ta đang đợi chúng ta ở ngôi làng của nó. Chúng ta còn bắt con đợi chờ thêm bao lâu nữa đây?”

“Khi mùa xuân tới, công chúa của anh, nhất định chúng ta sẽ nghĩ ngay tới một chuyến đi như thế. Nhưng tại sao em lại nói chính anh là người luôn muốn ngăn trở việc này chứ?”

“Giờ thì em không còn nhớ những gì đã xảy ra giữa chúng ta liên quan tới việc này nữa, Axl ạ. Em chỉ biết anh lúc nào cũng kịch liệt phản đối việc này, kể cả khi em nóng lòng muốn đi.”

“Thế này nhé, công chúa của anh, hãy tiếp tục bàn thêm về chuyện này khi nào công việc đã xong xuôi và không có người láng giềng nào chực ở đó mà gọi chúng ta là những kẻ chậm chạp. Giờ thì hãy để anh đi làm đã nhé. Chúng ta sẽ sớm bàn tiếp việc này.”

Nhưng những ngày tiếp sau đó, kể cả những khi bóng gió nhắc tới chuyến đi này, họ lại chưa bao giờ trò chuyện một cách thực sự thích đáng về nó. Do cái cảm giác không thoải mái kỳ lạ cứ dâng lên trong họ mỗi khi họ đề cập tới vấn đề này, nên chẳng bao lâu sau, một mối cảm thông đã nảy sinh giữa hai người, sự cảm thông trong im lặng theo cách thường có giữa một cặp vợ chồng đã sống bên nhau nhiều năm, khiến họ cố gắng hết mức thể để không đề cập tới chủ đề này nữa. Tôi nói “hết mức có thể”, vì đã nhiều lần một trong hai người như thấy một nhu cầu - một sự thôi thúc, bạn có thể gọi như vậy - phải nhắc tới chuyến đi. Nhưng mỗi khi thôi thúc ấy dâng lên trong lòng, thì cuộc thảo luận cuối cùng cũng nhanh chóng kết thúc hoặc bằng sự né tránh hoặc thái độ bực bội. Và có đúng một lần, khi Axl thắng thắn hỏi vợ xem người phụ nữ lạ mặt đã nói gì với bà trong cái ngày dưới bụi gai già ấy, nét mặt Beatrice bỗng tối sầm lại, và trong giây lát dường như nước mắt bà chực trào ra đến nơi. Sau bận ấy, Axl chú ý không nhắc gì đến người lạ mặt nữa.

Thời gian cứ thế trôi đi và Axl không còn nhớ họ đã bắt đầu nói tới chuyến đi này như thế nào nữa, cũng như không thể nhớ nổi chuyến đi này mang ý nghĩa gì với hai vợ chồng. Nhưng rồi buổi sáng hôm nay, ngồi trong giá lạnh ngoài kia trước khí trời sáng, trí nhớ của ông dường như đã sáng tỏ ra, ít ra là một phần nào đó, và rất nhiều điều đã quay trở lại với ông: người phụ nữ tóc đỏ; Marta; người lạ mặt ăn mặc tả tơi tăm tối; cùng nhiều điều khác nữa mà chúng ta không cần phải để tâm tới ở đây. Ông cũng đã nhớ ra, khá sống động, chuyện xảy ra chỉ vài Chủ nhật trước, khi người ta lấy đi ngọn nến từ tay Beatrice.

Chủ nhật là ngày nghỉ cho dân làng, ít nhất là trong chừng mực không ai phải làm việc ngoài đồng. Nhưng đàn gia súc vẫn cần được chăm sóc và vẫn còn biết bao việc khác chờ được giải quyết, nên vị mục sư của họ buộc phải chấp nhận rằng việc cấm đoán tất cả mọi thứ có liên quan đến lao động là một điều bất khả thi. Vậy là, khi Axl ra ngoài ánh nắng mùa xuân vào Chủ nhật hôm ấy sau cả buổi sáng ngồi sửa ủng, đón chào ông là cảnh hàng xóm láng giềng đang tản mát khắp khu đất ngay trước làng, một số ngồi trên bãi cỏ loang lổ các mảng đất trống, số khác ngồi trên mấy chiếc ghế đẩu hoặc khúc gỗ, chuyện trò, cười đùa và làm việc. Trẻ em chạy chơi khắp mọi nơi, và trên đám cỏ đằng kia, một nhóm người tụ tập quanh hai người đàn ông đang đóng bánh xe cho một chiếc xe bò. Hôm ấy là ngày Chủ nhật đầu tiên trong năm thời tiết đủ ấm cho các hoạt động ngoài trời như thế, nên bầu không khí như mang một màu sắc lễ hội thật vui tươi. Tuy nhiên, khi đứng phía trước lối vào khu hầm ngầm và đưa mắt qua chỗ đám dân làng tới nơi mặt đất thoai thoải đổ dốc xuống các đầm lầy, Axl trông thấy những làn sương mù đang dâng lên, ông tin rằng đến buổi chiều, mọi thứ rồi sẽ lại bị nhận chìm trong một làn mưa phùn xám xịt.

Ông đứng đó được một lúc rồi mới nhận thấy có một đám đông hỗn loạn ở đằng kia, gần chỗ hàng rào ngăn cách với đồng cỏ chăn nuôi gia súc. Thoạt đầu, đám đông cũng không khiến ông bận tâm cho lắm, nhưng gió thoảng đưa một điều gì đó lọt tới tai ông khiến ông phải ưỡn người đứng thẳng lên. Mặc dù thị giác đã mờ đi thật đáng ghét sau nhiều năm cuộc đời, thính giác của Axl lại vẫn đủ tinh tường, nên ông đã phân biệt ra được, trong mớ lộn xộn những tiếng quát tháo nổi lên giữa đám đông gần hàng rào, giọng Beatrice cất cao buồn bã.

Những người khác cũng đã dừng tay giữa chừng để quay nhìn cả về phía ấy. Riêng Axl đã vội vã chạy qua đám đông, cẩn thận tránh lũ trẻ đang chạy chơi khắp nơi cũng như những đồ vật bỏ đầy trên cỏ. Nhưng trước khi ông tới nơi, tốp người đang chen lấn xô đẩy đột ngột giải tán, và Beatrice hiện ra từ giữa đám đông, hai tay giữ chặt một vật gì đó trước ngực. Đa số những người vây quanh bà tỏ rõ sự vui thích trên mặt, chỉ riêng người phụ nữ vừa nhanh như cắt xuất hiện ngay cạnh vợ ông - người vợ góa của một thợ rèn vừa qua đời năm ngoái sau một đợt sốt - là mang bộ mặt nhăn nhúm vì tức tối. Beatrice hất kẻ quấy rầy mình ra, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, một mặt nạ gần như vô hồn, nhưng khi thấy Axl đang chạy về phía mình, mặt bà bỗng vỡ òa cảm xúc.

Nghĩ về chuyện ấy lúc này, Axl có cảm giác cái nhìn trên gương mặt vợ ông lúc bấy giờ, hơn bất cứ điều gì khác, chứa đựng cảm giác ngập tràn trong nhẹ nhõm. Không phải vì Beatrice tin rằng mọi điều sẽ ổn thỏa khi ông có mặt; mà chỉ vì sư hiện diện của ông đã mang lại cả một trời khác biệt cho bà. Bà đã dán mắt nhìn ông không chỉ trong nhẹ nhõm, mà còn một điều gì nữa như nài nỉ van xin, và dang tay đưa cho ông cái vật thể bà đang điên cuồng bảo vệ.

“Của chúng ta đấy, Axl! Chúng ta sẽ không phải ngồi trong bóng tối nữa. Cầm lấy, nhanh lên, chồng ơi, của chúng ta đấy!”

Bà đang giơ một thỏi nến ngắn choằn và có phần méo mó về phía Axl. Vợ góa của người thợ rèn lại một lần nữa tìm cách giật thỏi nến khỏi tay bà, nhưng Beatrice gạt bàn tay của kẻ xâm phạm ra.

“Cầm lấy đi, chồng ơi! Cô bé kia, Nora bé nhỏ, sáng nay mang đến cho em sau khi tự tay làm đấy, nó nghĩ chúng ta chắc đã kiệt sức khi phải sống qua đêm như thế.”

Những lời này làm nổ ra một tràng la ó khác, thậm chí cả những tiếng cười. Nhưng Beatrice vẫn không rời mắt khỏi Axl, nét mặt đầy tin tưởng và khẩn nài, và điều đầu tiên ông nhớ lại vào buổi sáng hôm nay khi ngồi trên chiếc ghế dài phía ngoài khu hầm ngầm chờ bình minh tới chính là gương mặt của bà vào khoảnh khắc đó. Làm sao ông lại quên sự việc này khi nó mới chỉ diễn ra không quá ba tuần trước? Làm sao ông lại không hề nghĩ tới chuyện này cho tới tận hôm nay?

Mặc dù đã dang tay ra nhưng Axl cũng không đón được thỏi nến - đám đông ngăn trở ông tới gần - và ông nói, lớn tiếng và có phần tự tin: “Đừng lo, công chúa của anh. Đừng lo.” Vừa cất lời, ông vừa thấy rõ sự sáo rỗng trong câu nói của mình, nên ông vô cùng ngạc nhiên khi ngay sau đó đám đông bỗng trở nên im ắng, đến cả vợ góa của người thợ rèn cũng đã lùi lại một bước. Chỉ đến lúc ấy, Axl mới nhận ra những phản ứng đó không phải là do những lời nói của ông đưa đón, mà do vị mục sư của làng đang tiến lại gần từ phía sau lưng Axl.

“Chúng ta đang làm gì trong ngày của Chúa thế này?” Vị mục sư sải bước đi qua Axl và nghiêm khắc nhìn đám đông đang im phăng phắc. “Hả?”

“Là vì bà Beatrice, thưa ngài,” vợ góa của người thợ rèn nói. “Bà ta kiếm được một thỏi nến.”

Beatrice một lần nữa đanh mặt lại, nhưng bà không tránh cái nhìn của vị mục sư khi ông đưa mắt tới chỗ bà.

“Tôi thấy đó là sự thật, bà Beatrice,” vị mục sư nói. “Tôi nhắc để bà nhớ rằng hội đồng đã ra sắc lệnh vợ chồng bà không được dùng nến trong phòng.”

“Hai chúng tôi cả đời chưa bao giờ đánh rơi một ngọn nến nào, thưa ngài. Chúng tôi sẽ không ngồi trong bóng tối đêm này sang đêm khác nữa.”

“Quyết định đã được đưa ra và bà phải tuân lệnh, cho tới khi hội đồng ban hành một quyết định khác.”

Axl thấy nỗi tức giận rực lên trong mắt vợ. “Điều đó thực là tàn nhẫn. Tất cả chỉ có thế.” Bà nói nhỏ điều này, gần như lí nhí, nhưng vẫn nhìn thẳng vào vị mục sư.

“Lấy ngọn nến ra khỏi tay bà ấy,” vị mục sư nói. “Hãy làm những gì tôi nói. Lấy ngọn nến đi.”

Khi vài bàn tay giơ về phía Beatrice, Axl có cảm giác hình như Beatrice không hoàn toàn hiểu rõ những gì vị mục sư vừa nói. Vì bà đứng đó với vẻ mặt bối rối, giữa đám đông đang chen lấn xô đẩy, tiếp tục nắm chặt ngọn nến như thể được xúi giục bởi một bản năng đã bị lãng quên nào đó. Rồi như chợt choáng ngợp trong hoảng hốt, bà lại chìa ngọn nến về phía Axl, kể cả khi vừa bị xô mất thăng bằng. Beatrice không ngã xuống đất khi bị xô đẩy, và sau khi lấy lại được thăng bằng, bà lại tiếp tục giơ ngọn nến về phía ông. Ông cố giành lấy, nhưng một bàn tay khác đã chộp được nó, và sau đó giọng nói của vị mục sư vang lên oang oang:

“Đủ rồi! Hãy để bà Beatrice được yên, không ai được phép nói những lời tàn nhẫn nữa. Bà ấy là một phụ nữ lớn tuổi không hoàn toàn hiểu hết những hành động của mình. Tôi nói thế là đủ rồi! Đây không phải là thái độ phù hợp cho ngày của Chúa!”

Cuối cùng cũng đã tới được bên vợ, Axl ôm bà trong vòng tay, và đám đông tản dần. Nhớ lại khoảnh khắc này, ông thấy hình như họ cứ đứng như vậy thật lâu, hai người bên nhau, đầu Beatrice tựa trên ngực ông, hệt như bà đã tựa vào ông trong cái ngày người phụ nữ lạ mặt ghé thăm, như thể chỉ vì kiệt sức và cần lấy lại hơi. Ông cứ ôm vợ như thế cho đến khi vị mục sư thêm một lần nữa yêu cầu mọi người giải tán. Khi cuối cùng cũng rời khỏi nhau và đưa mắt nhìn ra xung quanh, họ thấy mình đứng trơ trọi bên đồng cỏ nuôi bò có cánh cổng gỗ bằng thanh ngang.

“Chuyện ấy có to tát gì đâu, hả công chúa?” ông nói. “Chúng ta đâu có cần nến? Chúng ta đã quá quen đi lại trong phòng mà không có nến. Và chẳng phải những cuộc nói chuyện của chúng ta đã quá đủ để vui vẻ rồi sao, có nến hay không cũng đâu khác gì?”

Ông thận trọng đưa mắt quan sát vợ. Beatrice trông thực mơ màng, không tỏ vẻ gì tức giận.

“Em xin lỗi, Axl,” bà nói. “Thế là mất nến rồi. Lẽ ra em nên giữ bí mật riêng cho hai ta. Nhưng khi cô bé đưa cho em ngọn nến nó làm riêng cho chúng ta, em đã quá sung sướng. Giờ thì hết rồi. Chẳng có gì.”

“Hoàn toàn không có vấn đề gì hết, công chúa ạ.”

“Họ nghĩ chúng ta là hai kẻ ngớ ngẩn, Axl ạ.”

Bà tiến thêm một bước và lại tựa đầu vào ngực ông. Chính đây là lúc bà nói, giọng nghẹn ngào đến nỗi thoạt đầu ông tưởng mình nghe nhầm:

“Con trai của chúng ta, Axl ơi. Anh có nhớ con trai của chúng ta không? Vừa rồi bị họ xô đẩy, em đã nghĩ tới con trai của chúng mình. Một chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ và cương trực. Tại sao chúng ta phải sống ở đây? Hãy tới ngôi làng của con trai chúng ta. Con sẽ bảo vệ chúng ta và trông chừng để không ai cư xử tệ bạc với chúng ta. Sau ngần ấy năm trời, liệu trái tim anh có chịu thay đổi không, Axl? Liệu anh có còn nói chúng ta không được đi tìm con không?”

Khi Beatrice dịu dàng thì thầm những điều này trên ngực Axl, biết bao mảnh ký ức cùng lúc ùa về trong ông, nhiều đến mức ông cảm thấy suýt té xỉu. Ông rời tay ôm vợ rồi lùi lại một bước, sợ rằng mình lảo đảo rồi khiến bà mất thăng bằng.

“Em đang nói gì vậy, công chúa của anh? Đã bao giờ anh là người ngăn cản chúng ta lên đường tới làng của con trai chưa?”

“Chắc chắn anh đã từng làm thế, Axl ạ. Chắc chắn đã từng như thế.”

“Anh đã phản đối chuyến đi này khi nào, hả công chúa?”

“Em luôn tưởng anh đã phản đối, chồng ơi. Nhưng trời ạ, Axl của em, khi anh hỏi em thế này, em không thể nhớ rõ nữa. Và tại sao chúng ta lại đứng ngoài này, cho dù hôm nay đẹp trời đến thế?”

Beatrice lại trở nên bối rối. Bà nhìn ông, rồi lại nhìn ra xung quanh, trong ánh nắng mặt trời dễ chịu, những người hàng xóm một lần nữa đã quay trở lại với những việc họ đang làm.

“Hãy vào ngồi trong nhà,” một lúc sau bà nói. “Hãy ngồi riêng với nhau một lúc. Một ngày đẹp trời, đúng, nhưng em mệt quá rồi. Hãy trở vào bên trong.”

“Được thôi, công chúa của anh. Hãy vào trong nghỉ ngơi một lát, tránh xa khỏi ánh mặt trời này. Em sẽ lại thấy khỏe thôi.”

Đã có thêm nhiều người thức giấc bên trong khu hầm ngầm. Những người chăn cừu có lẽ đã kịp ra ngoài tự bao giờ, mặc dù Axl chẳng hề nghe thấy gì khi còn mải chìm sâu trong suy ngẫm, ở góc phòng bên kia, Beatrice đang thì thầm trong cơn mê ngủ, nghe cứ như bà sắp sửa cất tiếng hát thành lời, rồi sau đó bà trở mình dưới lớp chăn. Đã quen thuộc với những dấu hiệu này, Axl đi qua phòng tới bên giường, thận trọng ngồi bên mép giường đợi chờ trong im lặng.

Beatrice cựa mình nằm ngửa trên giường, mắt nửa nhắm nửa mở nhìn Axl.

“Xin chào ông xã,” cuối cùng bà cũng nói. “Em rất mừng vì trong khi em còn ngủ, các vị thần không tới đón chồng em đi mất.”

“Công chúa của anh, anh có điều này muốn nói với em.”

Beatrice vẫn không rời mắt khỏi Axl, cho dù mắt bà vẫn chưa mở hẳn. Rồi bà tựa người ngồi dậy trên giường, và do vậy, tia sáng mặt trời lúc trước rọi vào con nhện giờ đang chiếu trên mặt bà. Mái tóc dày điểm bạc, xổ tung và xỉn màu, khô cứng xõa trên vai Beatrice, nhưng không vì thế mà Axl mất đi cảm giác hạnh phúc trong tim mỗi khi được ngắm vợ trong ánh nắng buổi sớm mỗi ngày như thế.

“Có chuyện gì mà anh phải cho em biết ngay, trước cả khi em kịp dụi mắt cho tỉnh ngủ thế?”

“Chúng ta đã nói tới chuyện này từ trước, công chúa của anh, về chuyến đi ấy. Thế này, mùa xuân đã tới rồi, và có lẽ đã đến lúc nên khởi hành.”

“Khởi hành ư, Axl của em? Bao giờ thì khởi hành?”

“Ngay khi có thể. Chúng ta sẽ chỉ vắng mặt vài ngày. Dân làng sẽ không cần đến chúng ta. Chúng ta sẽ thưa chuyện với vị mục sư.”

“Vậy là chúng ta đi gặp con trai phải không, hả Axl?”

“Đó chính là việc chúng ta sẽ làm. Đi tìm con trai mình.”

Ngoài kia, lũ chim đang đồng thanh hót. Beatrice đưa mắt nhìn lên ô cửa sổ, ánh nắng mặt trời đang xuyên vào phòng qua tấm vải che.

“Có những ngày hình ảnh con hiện ra rất rõ ràng trong em,” bà nói. “Rồi hôm sau, tựa như có một tấm màn từ đâu tới che phủ lên toàn bộ ký ức về nó. Nhưng con là một chàng thanh niên đẹp trai và tử tế, điều đó thì em biết chắc.”

“Tại sao hiện giờ con không ở cùng chúng ta, hở công chúa?”

“Em không biết anh ạ. Có thể vì nó đã cự cãi với người cao tuổi và buộc phải rời làng ra đi. Em đã hỏi han khắp lượt nhưng không ai trong ngôi làng này nhớ tới nó. Nhưng em biết rõ rằng, con đã không làm gì khiến nó phải hổ thẹn với lương tâm. Chẳng lẽ anh không nhớ một chút gì sao, Axl?”

“Vừa rồi khi ngồi ngoài kia, cố hết sức gợi lại tất cả những gì anh còn nhớ được trong sự tĩnh lặng của sáng sớm, anh đã nhớ ra được rất nhiều điều. Nhưng anh không tài nào hình dung ra con trai mình, dù là nét mặt hay giọng nói, cho dù nhiều lúc anh có cảm giác thấy hình ảnh con lúc còn là một cậu bé, khi anh đang dắt tay nó đi bên bờ sông, hoặc có khi lại là lúc con đang khóc và anh đang chìa tay ra tìm cách an ủi nó. Nhưng giờ đây trông con ra sao, con đang sống ở đâu, liệu có phải nó đã có một cậu con trai hay không, thì anh không nhớ chút nào hết. Anh đã hy vọng em sẽ nhớ được nhiều hơn thế, công chúa ạ.”

“Nó là con trai của chúng ta,” Beatrice nói. “Nên em cảm nhận được nhiều điều về nó, kể cả khi em không thể nhớ rõ. Và em biết con đang nóng lòng mong chúng ta rời khỏi chốn này đến sống trong vòng tay che chở của nó.”

“Con là máu mủ của chúng ta, nhất định con sẽ muốn chúng ta đến sống cùng.”

“Kể cả như thế, thì rồi em sẽ nhớ nơi này, Axl ạ. Căn phòng nhỏ của chúng ta và ngôi làng này. Chia tay với nơi ta đã sống cả cuộc đời chẳng phải là điều dễ dàng gì.”

“Không ai bắt chúng ta phải ra đi mà không suy nghĩ trước, công chúa ạ. Khi ngồi ngoài kia chờ mặt trời mọc mới đây, anh đã nghĩ chúng ta nên tiến hành chuyến đi này, tìm tới làng của con để nói chuyện với con. Vì kể cả khi chúng ta là cha mẹ, không phải cứ thích là vào một ngày nắng đẹp chúng ta bỗng xuất hiện rồi đòi sống ở đó với dân làng của con.”

“Anh nói đúng lắm, ông xã của em ạ.”

“Còn có một việc nữa khiến anh lo lắng, công chúa của anh. Ngôi làng nơi con sống có thể chỉ cách chúng ta vài ngày đường, như em đã nói. Nhưng làm sao để tìm được đến đó?”

Beatrice ngồi yên, mắt nhìn ra khoảng không trước mặt, bờ vai nhẹ đưa theo nhịp thở. “Em tin rằng chúng ta sẽ tìm được đường đi không khó khăn gì, Axl ạ,” cuối cùng bà cũng nói. “Kể cả khi chúng ta vẫn chưa biết đích xác ngôi làng con đang sống ở đâu, nhưng đã nhiều lần em đi cùng đám phụ nữ tới các ngôi làng xung quanh trong những chuyến đi trao đổi mật ong và thiếc. Có bị bịt mắt thì em cũng vẫn tới được Đại Đồng Bằng, cũng như ngôi làng của người Saxon ngay phía bên kia đồng bằng, nơi bọn em vẫn thường nghỉ chân. Làng của con sẽ chỉ xa hơn chút nữa, nên chúng ta sẽ tìm ra mà không gặp phải phiền toái gì. Axl ơi, có thực là chúng ta sẽ sớm lên đường hay không?”

“Có, công chúa ạ. Chúng ta sẽ bắt đầu chuẩn bị ngay trong hôm nay.”