- Tuân lệnh! Quan Thư ký nhanh chóng cầm chiếc bút lông, vội vàng ghi chép, dâng lên cho Dương Lăng kiểm tra một lượt rồi sau đó đóng ấn, lệnh cho binh lính nahnh chong gửi cho Tổng Đốc Phủ. Vương Hòa thuận thế hành động áp giải hai mẹ con người phụ nữ đó vào trong Huyện nha.
Dương Lăng nhìn theo bóng của hai mẹ con bọn họ, bất giác cảm thấy khó xử: - Ta buông lời như vậy, chẳng biết rằng từ đây nạn giao dịch nô lệ phải chăng sẽ ngày càng hoành hành? Nhưng nếu không như vậy thì sao có thể khiến cho khắp nơi đều hành xử theo luật pháp được cơ chứ?
Dương Lăng nghĩ tớ ven biển Đông Nam từ trước kia đã có bọn hải tặc bắt cóc người Hán đem đến Đông Doanh, Nam Dương bán làm nô lệ. Mặt khác những phú hộ quyền quý của Đại Minh kỳ thực cũng sớm đã tự ý lén lút mua những nô lệ nước ngoài, như A Đức Ny ở trong phủ của ông ta là một ví dụ. Chắn hẳn trong phủ của không tí những đại gia phủ sĩ tộc của Giang Nam cũng có những mỹ nữ ngoại quốc như vậy, sao bản thân ông ta lại trở thành kẻ chủ mưu cho nạn mua bán nô lệ này?
Dương Lăng cố gắng thuyết phục bản thân mình, gạt bỏ đi những cảm giác tội lỗi trong lòng. Nhưng ông ta biết rõ rằng trước kia cũng chỉ là những giao dịch ngầm, là hành vi lén lút. Còn hành động ngày hôm nay của ông ta tuy rằng cứu được mạng sống của rất nhiều người nhưng lại buông thả cho một hành vi tội lỗi mới phát sinh.
Có những lúc rất khó có thể nhận định một cách đơn giản một suy nghĩ, một hành động là thiện là ác. Những gì mà nó mang đến thường sẽ có hai hậu quả đan xen vào nhau.
Ông ta lắc đầu, hỏi Vương Hòa: - Vương Huyện lệnh, đại quân mất mấy ngày để đến được Phúc Châu?
Vương Hòa vội vàng nói: - Đại nhân, đi qua đường cũ, chỉ tầm sáu ngày là có thể đến được địa giới của Phúc Châu.
Dương Lăng gật gật đầu, quay ngựa hướng về phía Vương Hòa đang chỉ mà nói thầm: - Không nghĩ nhiều như vậy được, làm gì có nhiều đạo lý để mà nói cơ chứ? Lúc này ta muốn đến Phúc Châu giết người, nhưng ta không phải muốn giết người, nhưng nếu ta không giết người thì mới là trời đất không dung, ai có thể giải thích cho ta được không?
Bên trên hai dãy núi cao hiểm trở của thung lũng Việt Sơn, có đến năm nghìn quan binh đang mai phục trong rừng, bị côn trùng và kiến cắn nhưng đều không dám có bất kỳ động tĩnh nào. Kỷ luật thép của Du kích tướng quân Hà Bính Văn đã vang tiếng gần xa.
Hà Tham Tướng tuy bị bãi chức tới Quảng Tây nhưng đường đường là một Tham tướng bị giáng xuống làm một Bách Hộ nhỏ nhoi, cú sốc đó đã khiến cho gã trở nên lạnh lùng sắt đá. Nhưng Hán Bính Văn xuất thân từ nhà binh, nhiều năm lăn lộn chịu cực khổ trên biên cương chiến trường, lệnh quân nghiêm ngặt, sớm quen với cuộc sống kỷ luật khắt khe. Chính vì thế nên đội quân mà gã quản lý tuyệt nhiên không dám tự ý manh động, tất cả các tướng lĩnh đều nghiêm khắc quản lý quan binh, kỷ luật như thép.
Binh quân vủa Vệ Sở quân luật bại hoại, thối nát không tường, sau khi Hà Bình Văn nhậm chức Du kích tướng quân, những thuộc hạ tạp nham, những con ngựa bất kham đó, dưới kỷ luật quản trị nghiêm khắc của gã cũng phải trở nên biết điều hơn, không một ai dám phản kháng lại quân lệnh. Binh lính của Hà Bính Văn quả đúng là có kỷ luật tốt nhất, chiến lực mạnh nhất của quân đội Phúc Kiến. Đó cũng chính là lý do chính mà vì sao đám người Nguyễn Đại Văn lại buộc phải dùng đến đội quân này để thực hiện mưu sát Khâm sai đại nhân.
Bên trong bụi cỏ, hỏa pháo và lôi thạch đã được che giấu ngụy trang dưới đám cây cỏ um tùm cao lớn bằng nửa thân người, bên trên còn che phủ một lớp cỏ tươi mới. Trên người và đầu của quan binh đều có ngụy trang cành cây và cỏ sậy. Từ phía dưới núi nhìn lên vẫn cứ là rừng rậm um tùm, không thể phát hiện ra bất cứ một sự bất thường nào.
Binh sĩ chỉnh tề thành một hàng ngang dài, vươn người ra phía xa, quan binh mai phục đều sử dụng vũ khí là cung nỏ. Cho dù đội quân này đều đã được Hà du kích tướng quân nghiêm khắc yêu cầu tập luyện, nhưng vẫn chỉ có một số ít binh sĩ có thể dùng hai tay để kéo được dây cung. Nhưng những cái cung này có thể sử dụng đôi chân để mà đạp căng đây cung, với điều kiện trên đỉnh núi cao cũng có thể khiến cho bọn họ dễ dàng lên tên, tạo thành những lượt công kích để chặn đường lui của địch.
Theo lý mà nói thì với những mai phục như vậy, thì chỉ cần giặc Oa không phát giác được bố trận thì cho dù bọn chúng có hung hãn đến mấy thì ở dưới thung lũng kia chịu đựng sự phúc kích, hỏa pháo bắn ra, lôi thạch rớt xuống và tên bắn như mưa thì đừng có hòng nghĩ tới chuyện sống sót.
Hơn nữa chỉ cần nghe thấy tiếng pháo nổ thì đầu bên kia sẽ nhận được tín hiệu ngay tức thì phá đê. Nước mưa tích tụ mấy ngày nay sẽ được tràn vào trong thung lũng. Có thể nói lần phục kích này quả đúng là không có đến một kẽ hở, nghĩ đoạn Hà Bính Văn cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Mồ hôi chảy dài trên gò má, gương mặt gã còn dính lá cây, nhưng Hán Bính Văn không cảm thấy khó chịu, chỉ khẽ tung nhẹ cổ áo để cho dễ thở hơn. Trong rừng tuy không có ánh mặt trời rọi chiếu nhưng lại kín bưng không thông gió nên mồ hôi đã làm ướt đẫm cả áo của gã.
Thực lực của quân đội Giang Nam quả là yếu kém, không thể ngờ lại thua trận một lũ giặc mọi để mặc cho chúng dương oai diễu võ. Hà Bính Văn viên tướng từng thống lĩnh biên quân cùng với đại tướng dưới trướng Bá Nhan Khả Hãn là Bác Đạt Nhĩ Mô và Hất Lâm Đạt Đạt máu đẫm sa trường, thật khó mà có thể tưởng tưởng được rằng đám quân trang bị không đủ, không có trợ cấp, đơn độc chiến đấu giặc Oa, nếu như gặp phải quân đội của gã thì quả không biết là sẽ có kết cục ra sao.
Tuy nhiên mục đích cuối cùng của giặc Oa cũng chỉ là cướp tài sản, bọn chúng không thể đứng vững được trên lãnh thổ của Đại Minh. Nhưng người Thát Đát lại luôn nhòm ngó đến Trung Nguyên. Kinh sư nằm dưới chân Yến Sơn, triều đình quyết không thể nào có thể điều quân đến Giang Nam, nên đám giặc Oa đó mới có thể hỗn xược hoành hành sáu tỉnh vùng ven biển, khắp nơi trở nên hỗn loạn.
- Nghe nói là dưới sự thống lĩnh của Ân Công Dương đại nhân, dọc đường xuống phía Nam từ Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang tin tức chiến thắng truyền đến không dứt. Nay chỉ còn mỗi Phúc Kiến là liên tiếp thua trận, lần này cũng xem như Nguyễn đại nhân quyết làm cứng một phen, dám cho người xuất binh đối chiến cùng giặc Oa. Trận này ta nhất định phải thắng, phải thắng cho thật hoành tráng, quét sạch bọn giặc Oa! Nếu như Nguyễn đại nhân vì đó mà có thể lấy lại dũng khí, thay đổi toàn bộ cục diện kháng Oa của tỉnh Phúc Kiến, từ đó có thể chia sẻ được mối lo âu của Dương đại nhân thì cũng coi như ta đã báo ơn được ân công rồi.
Hà Bính văn nghĩ tớ đó, quay đầu nhìn thấy vài tên tướng lĩnh mà Chu Hồng phái đến. Vì quá nóng nực bọn chúng không chỉ cởi bỏ giáp trụ mà còn đến cả quân y cũng cởi tuốt, đang ngồi trên bãi cỏ phía sau mà thì thầm nói chuyện phiếm.
Hà Bính Văn cười khinh miệt: - Những tên tướng lĩnh này ngay cả bản thân cũng không chịu được khổ cực, không thể lấy thân mình làm gương, sĩ khí của bọn chúng không cần nhìn cũng có thể tưởng tượng được ra. Chu Hồng phái lũ bọn chúng đến chắc hẳn là vì muốn giành công cho Thủy quân, giành thì giành đi. Ban đầu nếu như không phải ta tham công mạo hiểm tấn công, thì nào đâu đến nỗi phải chịu trận mai phục của Thát Tử? Trong triều không có tình người, làm người tốt nhất là nên khiêm tốn một chút là hơn.
Gã bất giác nhớ đến những lời mà Nguyễn đại nhân và Uông Tri phủ nói trước khi xuất binh.
Nguyễn đại nhân nói: - Bính Văn à, chúng ta bại trận ở Phúc Kiến, nếu cứ tiếp tục như vậy thì chỉ e Tổng đốc đại nhân sẽ trách cứ ta không có năng lực cầm quân. Nhưng ngươi cũng biết đó, Thủy sư của chúng ta quá hèn kém, không thể kỳ vọng vào bọn chúng.
Nay lại có một bọn giặc Oa hoành hành cướp bóc vùng Kim Hoa, quân số khá đông, tầm ba nghìn người. Bọn chúng mặc quần áo quan binh cướp bóc được ở trong kho của Kim Hoa Phủ, đường đường dương oai tiến xuống phía Nam.
Vì trong đám quân của bọn chúng có người nói được tiếng hán và quân chế giả Oa nên khó mà có thể phân biệt được ra, thật không ngờ lại có thể qua mặt được những châu huyện ven biển và quan binh của Vệ Sở. Bọn chúng đi vào Tiên Hà cổ đạo là vì không có thông quan văn điệp nên phải tìm cách vượt ải, bọn chúng giết chết quan binh phòng thủ ải, có một tên binh sĩ của phe ta vờ chết nên mới lừa được bọn chúng, rồi nhanh chóng chạy đến đây đưa tin cho ta được biết.
Bính Văn à, đây là một cơ hội rất tốt, giặc Oa không biết được hành tung của chúng ta, nếu như nhân cơ hội này mà đánh đuổi được bọn chúng thì chúng ta cũng có thể ăn nói được với Tổng đốc đại nhân, bổn quan suy đi tính lại thì thấy chỉ có cử ngươi đi là thích hợp và an tâm nhất. Sau khi đánh trận thành công, bổn quan sẽ tiến cử ngươi làm Tham tướng Tuyền Châu kiêm chức Tướng quân du kích, ngươi thấy có được không?
Nguyễn đại nhân vừa dứt lời, Uông Tri phủ chắp tay tươi cười nói: - Cung hỉ Hà tướng quân, Nguyễn đại nhân đổ dồn tâm huyết vào trận chiến này, đặc biệt cử tám đài "Phích lịch lôi hỏa pháo" trợ giúp cho ngài công chiến. Ha ha ha ha, tướng quân vì Phúc Kỉnh mà lập công đầu, tiền đồ đâu chỉ là một Tham Tướng? Cùng với Nguyễn đại nhân, trước sau gì thì ngài cũng sẽ cùng chủ nhân là Đại sứ một cùng biên cương.
Đúng rồi, tiểu muội của ta luôn ngưỡng mộ uy danh của Hà Tướng quân, thường nói Phúc Châu thành có bốn vạn quan binh, nhưng chỉ có duy nhất Hà Du kích ngài mới là một đại tướng quân đầu đội trời chân đạp đất! Nghe nói Hà Tướng quân đến nay vẫn còn độc thân, chưa có người bầu bạn, đợi ngài khải hoàn trở về, bổn quan sẽ mời Nguyễn đại nhân làm mai để cho hai nhà chúng ta được kết lương duyên làm người một nhà, mong là tướng quân đừng có chê bỏ.
Tiểu thư Y Nhân của Uông gia? Hà Bính Văn nghĩ tới nàng ta thì đột nhiên toàn thân lạnh toát, trên người đột nhiên mát mẻ hơn nhiều.
Uông Y Nhân là em gái của Uông Tri phủ, năm nay hai mươi mốt tuổi, nghe nói dung mạo xinh đẹp tuyệt trần. Nàng ta đã từng kết hôn nhưng tiếc thay người chồng yểu mệnh qua đời sớm, nay vẫn đang ở nhà mẹ đẻ. Theo lý mà nói thì với tuổi tác của Hà Bính Văn và địa vị của Uông Tri phủ, có thể kết lương duyên với một tiểu thư quý tộc xinh đẹp như vậy thì cũng coi như môn đăng hậu đối.
Vấn đề ở chỗ là phong trào Nam giới đồng tính ở cùng Mân địa này đang cực thịnh, hệ quả là những hội "Thủ Mạt Giao" của đám phụ nữ cũng ngày càng nhiều hơn. Nghe nói vị Y Nhân cô nương này có qua lại thân thiết với đám tiểu thư, phu nhân gia đình quyền quý, bọn họ cũng kết "Thủ Mạt Giao", theo tuổi tác mà xếp thứ tự thì Y Nhân tiểu thư xếp thứ chín nên được gọi là Cửu muội.
Hà Bính Văn từ phương Bắc đến, lối sống phương Bắc tương đối đơn giản chất phác, gã không thể chấp nhận được một người phụ nữ đồng tính làm phu nhân của mình. Vì tác phong của bị Y Nhân cô nương này nên Hà Bính Văn chỉ đành đa tạ từ chối khéo Uông Tri phủ.
Chỉ là... Hà Bính Văn nghĩ tới ánh nhìn khó chịu của Uông Tri phủ khi gã từ chối thẳng thừng mà cảm thấy trong lòng có phần nghi hoặc. Lý do từ chối gã cũng đã nói hết sức khéo léo để tránh mất lòng rồi, vậy tại sao sắc mặt của y vẫn khó coi đến như vậy? Dường như Nguyễn đại nhân cũng có vẻ không được hài lòng...
- Không nghĩ nhiều được đến như vậy, chỉ cần đánh thắng trận này! Chỉ cần đánh thắng trận này thôi. Thay Nguyễn đại nhân lập đại công, tin rằng ngài ấy cũng sẽ không làm khó ta. Hà Bính Văn nghĩ tớ đó, thổi bay chiếc lá bám trên tay mình, từ từ đứng dậy, nhìn xa về phía thung lũng.
Từ phía đằng xa, một đội quân đang từ đi ra từ sâu trong thung lũng, tuy đường không được rộng nhưng lại hết sức bằng phẳng. Trên mặt đường bằng phẳng đó có rất nhiều cỏ hoang mọc tràn. Đoàn hành quân đi qua đến khi ngoái lại thì không còn thấy bất cứ một thứ gì.
Hà Bính Văn cảm thấy tỉnh táo hơn trước rất nhiều, hạ giọng nói: - Lấy lại tinh thần nhé, giặc Oa đến rồi!
Quan binh bốn phía ngay lập tức chỉnh đốn lại tinh thần, đám Thủy sư ngồi hóng mát ở dưới gốc cây trên bãi cỏ cũng nhanh chóng mặc lại áo giáp, vội vàng cầm đao chạy tới, núp dưới đám cây đang đung đưa trong gió nhẹ mà nhìn xa về phía thung lũng.
Đoàn ngựa, đoàn quân đang tiến về phía trước, tiếng bánh xe kẽo kẹt, tiếng ngựa kêu rít gào. Chỉ là vì hai bên thung lũng cây cỏ mọc lên um tùm, đại quân không thể để lộ ra tung tích của mình nên cờ đều đã cuộn gọn lại.
Hà Bính Văn cười nhạt nói: - Đám giặc Oa này quả nhiên là biết làm bộ làm dạng. Bề ngoài ngụy trang giống hệt quân Hán, quan binh mở đường đao thương lóe sáng, hành quân nghiêm chỉnh. Nếu như không được biết trước sự tình thì quả thật là cho dù có đối mặt cũng chỉ e là ngay đến cả bản thân mình cũng bị bọn chúng qua mặt.
Thủy sư thiên hộ, Nghiêm Hổ Đệ sốt ruột nói: - Nhanh, đốt pháo, lôi thạch, lôi thạch, cung tên vào vị trí chuẩn bị!
Soạt soạt soạt, âm thanh đó vang lên một trận, tiếng giương cung tên khiến cho ta phải cảm thấy rùng mình, từng mũi tên nhọn hoắt như răng sói được lên dây. Những mũi tên rắn rỏi như vậy thì cho dù đối phương có mặc áo giáp bảo vệ thì vẫn có thể xuyên thủng qua được. Tựa như lưỡi dao cắt cỏ ngay tức thì hạ gục cả người lẫn ngựa ngã xuống dưới đất.
- Tất cả dừng lại cho ta! Hà Bính Văn hạ thấp nghiêm nghị nói: - Khốn kiếp, bọn chúng vẫn còn đang ở phía xa, lúc này mà đốt pháo phóng tên thì đoàn quân phía sau của giặc Oa sẽ lẩn trốn được vào rừng, có muốn bắt cũng khó mà bắt được. Đợi giặc Oa ra khỏi cửa thung lũng, nghe theo hiệu lệnh của ta hành động. Kẻ nào trái lệnh, chém đầu!
Kỷ luật của quân đội Hà Bính Văn rất nghiêm khắc, quan binh nghe lệnh thì ngay lập tức buông cung xuống, lần lượt cúi xuống đợi lệnh. Nghiêm Hổ Đệ đỏ bừng mắt tức giận nói: - Hà đại nhân, Nguyễn đại nhân trao cho ngài trọng trách lớn lao, sao ngài lại có thể nhìn thấy giặc mà lui đầu sợ hãi như vậy? Nếu như đợi cho bọn chúng ra khỏi thung lũng rồi mới đột kích thì có kẻ xông lên thì tính sao?
Hà Bính Văn đảo mắt một cái thầm nghĩ: - Một lũ chỉ huy ngu ngốc, năm xưa tại Kê Minh Dịch, Lưu Công công và Diệp Ngự sử cũng nói những lời này, nhưng thân là chủ tướng nếu có chuyện gì xảy ra thì ta đây mới là người gặp họa. Lũ ngu dốt các ngươi, ta chẳng buồn đếm xỉa đến nữa, đợi tới khi đánh thắng trận có được chiến công thì lũ chúng bay mới không tính toán gì nữa.
Nghĩ đoạn Hà Bính Văn sầm mặt hắng giọng một tiếng, lạnh lùng quay mặt đi, thấp giọng nói: - Không cho phép ai được phát ra tiếng động, yên lặng chờ đợi giặc Oa tiếp cận. Đại pháo không được vội vàng đốt cháy, trước tiến đốt bát pháo, ta cần phải khiến cho bọn chúng rối như tơ vò.
Nghiêm Hổ Đệ có phần sốt ruột, lệnh của Chu Hồng là muốn gã phải giám sát Hà Bính Văn, đốc thúc y khai pháo. Đoàn hộ tống của Khâm sai đại nhân không giống với đại quân thông thường, nếu như để cho quân Minh đến gần chân núi nhận ra vết tích mai phục thì phải làm thế nào được? Theo ý của Đề đốc đại nhân thì không thể hoàn toàn tin tưởng tên này được.
Kinh Ly cũng là tâm phúc của Chu Hồng, trong đám tướng lĩnh của Dương Đại tướng quân thì phẩm hàm của y cao nhất, nhìn thấy Nghiêm Hổ Đệ bị Hà Bính Văn làm cho tức điên thì chắp hai tay sau lưng, lạnh lùng nói: - Hà Du kích, bổn quan phụng mệnh giám chiến, ta lệnh cho ngươi phải ngay lập tức đốt pháo, bằng không trừng trị theo quân pháp!
Hà Bính Văn từ từ đứng dậy, nhíu mắt, cũng lạnh lùng đáp lại:
- Kinh đại nhân, lệnh của Bộ chính sử đại nhân là phải quét sách giặc Oa, trận chiến lần này là do ta chỉ húy, chiến hay không chiến là trách nhiệm của Đốc chiến sử ngài, nhưng lúc nào chiến thì lại là công việc của hạ quan ta, xin đừng can dự vào làm gì!
Kinh Ly khẽ động hai ngón tay sau lưng thì ngay lập tức có hai viên tướng khẽ "soạt" một cái định rút đao ra, ánh sáng chói của thanh đao mới lóe lên được một nửa thì có đến tầm sáu cung thủ ở gần Hà Bính Văn đã dương cung lên nhắm thẳng về phía bọn chúng, hai tên đó rút gươm được đến một nửa thì bèn đứng yên bất động tại đó.
Hà Bính Văn tức giận nói: - Đám Thủy sư này đánh trận chẳng ra gì nhưng lại rất biết gây hiềm khích nội bộ, lại dám kinh động đến ta phải rút đao.
Gã bước lên phía trước một bước rồi nói: - Tại đây, ta mới là chủ tướng, trận này đánh như thế nào là do ta quyết định! Quân lệnh như núi, không phải là trò chơi trẻ con. Muốn giám trận thì về Phúc Châu, ta nhất định sẽ tiếp đến cùng!
Hai bên rút đao giương cung đứng yên như vậy đối đầu với nhau, Nghiêm Hổ Đệ thấy quân minh đã đường đường hành quân đến dưới chân núi, bèn vội vàng xoa dịu không khí: - Chư vị đều là vì phụng mệnh của Nguyễn Đại Nhân, hà tất phải đao binh tương kiến như vậy? Giặc Oa đã đến tới chân núi rồi, Hà Tướng quân mau hạ lệnh đi thôi!
Hà Bính Văn lạnh lùng hắng giọng một tiếng, ngoảnh mặt quan sát, chỉ nhìn thấy có tầm một nghìn quan binh đang đi tới cổng thung lũng. Những đoàn quân phía giữa vẫn chưa kịp đi tới theo đoàn quân đầu tiên, hai đoàn quân đó còn cách nhau chừng năm trăm mét. Nếu như lúc này đốt pháo nhằm trúng đoàn quân đầu tiên thì chỉ e đoàn quân ở giữa sẽ thấy động mà ngay lập tức có phản ứng. Bọn chúng sẽ nhanh chóng nấp vào trong cổ đạo thâm cốc, hoặc là lập tức lui về ẩn nấp hai bên rừng. Lượng quân mai phục ở đó không đông, khó mà có thể quét sạch được hết giặc Oa theo như dự định.
Hà Bính Văn nhanh chóng tính toán một lúc. Nếu như đợi cho đoàn quân ở giữa tiến đến, thì một nghìn giặc Oa của đoàn quân đầu tiên nhất định sẽ có thể tháo chạy trước khi hồng thủy tràn đến. Với chiến lực của bọn chúng thì nhay lập tức có thể càn quét gây hại cho một vùng, để diệt trừ tận gốc thì quả là một điều khó khăn. Nếu như quét sạch đội quân đầu tiên của giặc Oa, hồng thủy lấp cổng ra, lũ giặc còn lại chỉ còn đường quay đầu chạy. Con đường này là nơi tiếp giáp thông đạo duy nhất giữa hai vùng Triết và Mẫn, cho dù lương thực của bọn chúng có đủ để cho hai lần đi và về thì tới lúc đó quân đội Triết Giang cũng sẽ nhận được tin tức mà đuổi theo đánh chặn.
Nghĩ đoạn, Hà Bính Văn thét lớn: - Nhanh, ngòi pháo đầu tiên bên trái, nhằm thẳng hướng cổng thung lũng, ngay lập tức phóng pháo. Những ngòi pháo còn lại nhằm hướng đoàn quân đầu tiên của giặc Oa, tiếng pháo đầu tiên vang lên, những hỏa pháo còn lại, lôi thạch, cung tên đồng thời phóng ra, nhất định phải quét sạch đám địch thăm đường này!
Bọn người Kinh Ly và Nghiêm Hổ Đệ thấy vậy nhìn nhau một cái, nở nụ cười nham hiểm, hai tên tướng đứng sau cũng tra đao vào vỏ, đứng tách ra nửa bước.
Binh lính của Hà Bính Văn quả nhiên được huấn luyện rất tốt, gã vừa hạ lệnh một cái thì ngay lập tứ đã có vài tên lính bước tới, đốt cháy cỏ rơm để mồi cháy chấm pháo nổ. Lửa điểm cháy dây dẫn, âm thanh xèo xèo rợn người vang lên kèm theo đó là pháo hoa bắn ra tung tóe lao đi vù vù...
Cổng Đông thành Phúc Châu được cảnh vệ nghiêm ngặt, hai hàng quan binh tay cầm giáo mác kèm thêm cả kiếm, từ đăng xa tầm năm trăm mét, bách tính nạn dân lưu lạc tới bên ngoài thành bị ngăn lại từ xa không được đến gần thành. Một tên quan văn trong bộ quan phục an thuần và một tên quan võ quan phục hải mã đang đứng ở công thành nhìn về phía đằng xa.
Từ đằng xa có một đoàn quân đang tiến đến, ai nấy đều là những võ sĩ mặc đồ ngắn, đeo kiếm ngang lưng, trông giáng vẻ có thể là người vận tiêu, đi phía đằng trước là một đại hán thân hình vạm vỡ, râu che mặt. Dáng vẻ vạm vỡ thô bạo đó đứng trước mặt binh sĩ yếu ớt thật khiến cho người ta phải cảm thấy sợ hãi.
Người thanh niên bên cạnh y trông có vẻ ưa nhìn hơn nhiều, gương mặt tươi cười, khá tuấn tú, thân hình cân đối dài người, giắt ngay lưng một thanh đao lưỡi dài hẹp.
"An Thuần" và "Hải Mã" nhìn thấy có đến hơn ba mươi người đang tiến đến phía trước mặt thì vội vàng tiến lên phía trước cười cười rồi nói: - Hai vị, Ồ... chẳng hay xưng danh ra sao?
Gã võ sĩ thanh niên đó lịch sự chắp tay rồi hành một lễ đặc trưng của người Oa: - Tại hạ là Tá Tá Mộc Xuân Giới.
Tên râu quai nón kia thì liếc nhìn khinh bỉ hai tên quan viên một cái, dùng thứ tiếng Hán cứng nhắc khó nghe mà nói: - Ta là Cung Bản Hùng Nhị, Bộ Chính Sử Đại nhân của các ngươi đâu? Sao không ra đón tiếp ta?
Hai viên quan nghe thấy họ của tên đại hán đó là Cung Bổn thì nhẩm tính chưa biết chừng y có quan hệ thân thích gì với Cung Bổn Hạo Thuyết, tên giặc Oa đang tung hoành ngang dọc ở Phúc Kiến, thì bèn vội vàng nói: - A! Xin mời hai vị vào thành! Bộ Chính Sử đại nhân của chúng tôi đang ở trên thành chờ các vị.
Cung Bổn Hùng Nhị bất mãn hắng giọng một tiếng, nghênh ngang bước về phía trước, Tá Tá Mộc thì nhẹ nhàng tươi tỉnh đi bên cạnh y. Một đội võ sĩ đi tới trước cổng thành, "An Thuần" cung kính nói: - Hai vị võ sĩ xin mời lên trên thành, còn... người của các ngài...
- Ha ha ha ha...
Bổn Cung Hùng Nhị cười lớn, chỉ vào mặt tên quan đó mà nói: - Khốn kiếp! Người của ta đương nhiên phải theo ta vào thành rồi, Humh? Quân binh của các ngươi đông như vậy, lẽ nào lại sợ mấy người bọn ta sao>
- Cái này... Tên quan văn đó bị làm khó, tên quan võ kiễng chân lên nhìn về phía đằng xa, nhìn thấy không có người phía sau, lúc đó mới yên tâm, rồi nói: - Mời vào, mời vào, mời các quý võ sĩ vào thành!
Cung Bản Hùng Nhị chẳng biết khách khí gì cứ thể đẩy y qua một bên mà ngông nghênh đi vào thành. Y nói với ba mươi tên võ sĩ đi theo sau: - Canh gác ở đây, bọn ta sẽ xuống nhanh thôi. Nói đoạn y hướng về phía Tá Tá Mộc vẫy tay một cái, cũng chẳng cần quan viên triều Minh dẫn đường, nhằm thẳng hướng lầu thành mà leo lên.
Ba mươi tên võ sĩ đồng thanh dạ một tiếng, rồi lần lượt khoanh chân ngồi xuống, để che mắt người khác, bọn chúng đều mang trên người đơn đao nhọn. Lúc này tên nào tên nấy đều để đơn đao ngang với đầu gối, bên cạnh không có một ai. Những động tác đó của bọn chúng khiến cho quân Minh vừa kính vừa sợ, bách quan quân binh không có một ai dám đến gần.
Tên quan võ đó vội vàng ra lệnh cho đám quân binh bên ngoài thành: - Nhanh nhanh, tất cả quay trở vào thành, kéo cầu lên, đóng cửa thành lại!
Trên thành lầu, Nguyễn Đại văn và Chu Hồng đang hoảng hốt nhìn nhau. Nguyễn Đại Văn tức giận nói: - Khốn kiếp, khốn kiếp, Cung Bổn Hạo quả là tham lam vô độ. Ta đã cho bọn chúng sáu chiến hạm và sáu vạn lượng bạc rồi. Nay bạc trong kho vẫn còn thiếu ba nghìn lượng chưa bù vào được, đợi Dương Lăng chết đi, chúng ta phải trên dưới đút lót, đả thông từng mối quan hệ còn không biết phải tốn bao nhiêu tiền nữa. Vậy mà tên khốn đó lại đến đòi lương thực và bạc, ta hận một nỗi... hận một nỗi...
- Đại nhân, núi còn thì lẽ nào lo không có củi để đốt hay sao? Chỉ có Dương Lăng là muốn đối đầu với chúng ta. Dương Lăng có không ít kẻ thù ở trong triều, chỉ cần y chết đi thì những phe phái trước gì bị y kìm kẹp sẽ nhất loạt thừa cơ công kích; đồng đảng của y cũng sẽ thừa dịp tranh nhau những miếng mồi béo bở mà Dương Lăng bỏ lại, làm gì có ai để ý tới chúng ta cơ chứ? Cùng lắm thì đổi một nơi khác tiếp tục làm quan, một hai năm là sẽ lấy lại được tiền thôi.
- Đại nhân, không nhịn nhục thì sẽ làm hỏng việc lớn, Công Bản Hạo công thành kinh địa, thế thắng như chẻ tre, thành Phúc Kiến của chúng ta có thể giữ được hay không? Hơn nữa trong tay y hiện giờ đang có đến sáu chiến hạm, hơn mười đại pháo, lại càng như hổ mọc thêm cánh. Nếu chọc giận y thì đại quân của giặc quay lại chém giết cả thành thì tính mệnh của cả nhà lớn bé còn có thể giữ được hay không? Chu Hồng vội vàng khuyên giải.
- Hừ! Nguyễn Đại Văn nhìn Chu Hồng, rồi lại nhìn Địch Thanh Sơn, giận dữ quay về chỗ ngồi.
Bên ngoài có tiếng truyền báo của cận binh: - Báo! Đại nhân, khách đã đến!
Nguyễn Đại Văn kinh ngạc, bất giác đứng dậy, Chu Hồng "suỵt" một cái, vội vàng cười cười nói nói đi ra ngoài nghênh tiếp. Hai tên giặc Oa đi vào thành, ngạo mạn nhìn ba tên quan trong thành Phúc Châu một cái, cũng chẳng đợi mời bèn dương dương tự đắc ngồi lên ghế.
Hai bên giới thiệu danh tính, tên giặc Oa râu quai nón bèn hi hi cười nói thứ tiếng Hán ngượng nghịu: - Các ngươi, lương thực mà chủ công của ta cần đã chuẩn bị xong chưa?
Nguyễn Đại Văn nén giận đáp lại: - Cung Bổn tiên sinh, để tránh xung dột, bổn quan mạo hieerm tặng cho các vị sáu chiến hạm và sáu vạn lượng bạc. Các ngài đã đồng ý sẽ không đánh phá Phúc Châu, dần dần di chuyển đến Quảng Đông, sao giờ lại lật lọng, lại tiếp tục đòi lương tiền của bổn quan, chỗ ta nào đâu có núi vàng núi bạc.
- Khốn kiếp! Cung Bổn Hùng Nhị đập bàn, nhảy phắt dậy nổi cơn lôi đình.
Tá Tá Mộc Xuân bèn nhanh chóng xoa dịu bầu không khí, y rành rọt nói: - Nguyễn Đại Nhân, chủ công của chúng tôi rất cảm kích sự giúp đỡ ưu ái của các ngài, vốn định sẽ không làm phiền đến nữa, nhưng... Các ngài cũng nên biết rằng chúng tôi có bạc trong tay nhưng không thể mua được lương thực ở đâu, hàng ngàn dũng sĩ cần phải có lương ăn, làm thế nào được bây giờ?
- Ha ha ha, xin ngài yên tâm. Chủ công của chúng tôi cũng dặn rồi, có được ngân lương và chiếm hạm, chúng tôi chuẩn bị tới Bành Hồ, Di Châu để tìm nơi chốn yên thân. Những vùng đấy của đại nhân quản lý chúng tôi nhất định sẽ không tới mạo phạm.
Nhưng dọc đường đi thì phải cần có lương thảo, chỉ cần Bộ Chính Sử đại nhân giao ra một nghìn gánh lương thảo thì đại quân của chúng ta sẽ ngay lập tức rút khỏi Phúc Kiến. Ha ha ha, đại nhân, ngài có thể tấu vởi triều đình, loạn giặc vùng Mẫn đã được dẹp bỏ, trong sáu tỉnh ven biển chỉ có ngài đứng đầu bình định được chiến sự, phần công lao đó chắc hẳn sẽ có được món thưởng lớn, chúng tôi nhận được cái chúng tôi muốn, chẳng phải là hai bên cùng có lợi hay sao, đúng không?
- Một nghìn gánh lương thảo, các người sẽ rời khỏi Phúc Kiến? Nguyễn Đại Văn vùa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, hiện tại sau tỉnh đều trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Dương Lăng, khắp nơi đều có giặc Oa. Nếu như Khâm sai đại nhân bị phục kích tử trận ở trong địa bàn của mình, triều đình tuy không thể gán toàn bộ trách nhiệm cho y nhưng chắc chắn sẽ có một vài khiển trách là điều không tránh khỏi được, tới lúc đó thì lại phải tiêu tiền thêm nữa rồi.
Nếu như giao cho chúng một nghìn gánh lương thảo, một là có thể tiễn biệt cái đám sao chổi này, hai là Khâm sai đại nhân tử trận, bản thân y lại giành được thắng lợi lớn, bình định toàn tỉnh Phúc Kiến, tới lúc đó thì sẽ không có ai còn dám truy cứu trách nhiệm của y nữa? Trong đám quan viên kháng giặc Oa của sáu tỉnh thì y lập được công đầu, nói không chừng... Nói không chừng cái chức vụ Khâm sai đại thần còn chống đó, Hoàng thượng sẽ cho y được thế vào.
Nguyễn Đại Văn nghĩ tới đó thì lại chuyển nộ thành mừng, vội vàng nói: - Thật vậy sao? Các người... Các người chỉ cần một nghìn gánh lương thảo thì sẽ rời khỏi Phúc Kiến?
Cung Bổn Hùng Nhị gầm lên: - Ngươi không tin lời của chúng ta sao? Võ sĩ chúng ta nói một là một!
Nguyễn Đại Văn nghe thấy những lời của tên võ sĩ thô bạo này thì trong lòng càng tin tưởng thêm vài phần, y vội vàng gọi Địch Thanh Sơn, lệnh cho y đi tìm Tri phủ Uông Phi Lăng, nhanh chóng lệnh cho dân tráng mang tới một nghìn gánh lương thảo. Chiến trường tiền tuyến tiêu hao rất nhiều lương thực, đó là sự thật không cần phải bàn cãi. Một nghìn gánh lương thực này khi viết vào sổ cứ ghi là mang ta cho quan binh tiền tuyến, mà viết luôn là mang cho quân binh của Dương Tổng đốc đã tự trận, thế lại càng chết không đối chứng được. Đây đúng là cơ hội trời ban mà.
Địch Thanh Sơn nghe thấy kế hoạch của Nguyễn Đại Văn thì trong lòng vui vẻ lắm, gật đầu cười nhận lời.
Chu Hồng cười đáp lại: - Cung Bổn tiên sinh, Tá Tá Mộc tiên sinh. Ồ... Các vị dừng bên bờ sông để chờ lương thực đúng không? Một lát nữa sẽ có dân tráng vận chuyển lương thực tới. Phiền các ngài cải trang thành dân tráng đến vận lương, ta sẽ phái cận binh hộ tống các ngài đến bên sông. Mong các ngài giữ lời hứa, nhanh chóng rời khỏi vùng Mẫn.
Hai người bọn Cung Bổn Nhị liên tiếp nhận lời, chừng nửa canh giờ sau, dân tráng xe lớn xe nhỏ vận chuyển lương thực tới thành Đông. Nguyễn Đại Văn cũng vội vàng bước tới, làm bộ làm dạng nói với đám dân tráng và quan binh: - Chiến sự tiền tuyến đang gấp rút, hiện tại Sở Vệ Tuyền Châu đã phái người đến vận chuyện lương thảo, các người hãy nhanh chóng vận chuyển lương thực lên thuyền, không được chậm...
Y chưa kịp dứt lờ thì có bỗng cảm thấy có một thanh đao lóe sáng đang kề trên cổ của mình. Nguyễn Đại Văn hoảng sợ quay lại thì thấy tên Cung Bổn Hùng Nhị râu ria đó thì kinh ngạc nói: - Ngươi... Ngươi làm gì vậy? Ta đã giao lương như đã hẹn, ngươi dám động đến bản quan, người đừng hòng rời khỏi được Phúc Châu.
Chu Hồng đứng bên cạnh y cũng đã bị Tá Tá Mộc dùng đao khống chế, khiến cho tên khốn đó đau quá phải ngồi sụp xuống đất. Uông Tri Phủ và Địch Ngự Sử mới đi lên trên thành lầu thấy vậy cũng kinh ngạc không hiểu điều gì xảy ra.
Tá Tá Mộc đạp Chu Hồng một cái, dùng mũi giày dẫm lên cổ y mà lớn tiếng nói với đám quân dưới thành: - Tất cả không được phép động đậy, Hàng Châu Thủy sư Thiên hộ Hàn Vũ, phụng chỉ đánh giặc!
Gã vừa dứt lời thì ba mươi binh sĩ đang khoanh chân ngồi dưới thành đột nhiên nhảy phắt dậy, nhanh chóng canh thủ hai bên con đường huyết yếu dẫn lên thành lầu, tay phải cầm đao, tay trái nâng đài, cái âm thanh ù ù đó rõ ràng là đang sử dụng cung nỏ.
Uông Tri Phủ toàn thân run lên bần bật, mặt xám ngoét lại nói: - Các ngươi là Thủy sư Hàng Châu? Phụng... Phụng chỉ... đánh ... đánh giặc?
- Đúng vậy! Hàn Vũ lôi từ trong tay áo ra một miếng vải vàng, đón giớ mở tung ra, giọng uy nghiêm nói: - Nguyễn Đại Văn, Địch Thanh Sơn, Chu Hồng, Uông Phi Lăng thông địch bán nước, chu di! Đám người chúng bay thân làm lính nghe lệnh hành sự, Thánh thượng không đành truy cứu, ngay lập tức vứt đao kiếm chờ xử lý!
Đám binh sĩ dưới thành nhìn thấy bốn vị đại nhân đang bị khống chế trong tay kẻ khác, sớm đã chẳng còn hồn phách. Hơn nữa dưới chân thành còn có đến hai nghìn dân tráng vận lương đang nhìn trừng trừng như vậy thì làm gì có ai dám tạo phản? Một tên lính ngoan ngoãn hạ vũ khí, ngay lập tức một nhóm người hoảng hốt tranh nhau ném vũ khí trong tay xuống đất, trên mặt đất là một bãi đao khiên.
Hàn Vũ hướng về phía Nguyễn Đại Căn cười hi hi rồi nói:
- Bổn quan phụng chỉ lấy thủ cấp của ngươi, Nguyễn Đại Nhân, xin mời tiếp chỉ!
Sợi pháo đốt cháy "xèo xèo", áp lực của pháo hoa khiến cho dây dẫn lửa bay lên nhè nhẹ trong trên ống pháo. Hà Bính Văn nhìn về hướng đoàn quân giữa đang di chuyển trong thung lũng một cách tiếc nuối. Đột nhiên gã chợt trừng to mắt, thất thanh nói: - Long kỳ của Huyền Hoàng Đoàn?
Đoàn quân thứ hai đang hành quân tới cửa thung lũng, đám quan binh đao thương san sát, cơ, cờ xí cuốn dài. Nhưng một ngọn cờ ở giữa số đó tuy đã nghiên vẹo đi để tránh cành cây trên đường, lại cộng trời đứng gió nên mặt cơ hơi rủ xuống, nhưng màu vàng, thoắt hiện ta Kim Lân Long Trảo thfi rõ ràng đó là Long Kỳ của Huyền Hoàng Thiên Tử, chỉ dùng cho Thiên Tử Quý tộc và Khâm sai đại thần đi vi hàng mới đem theo, nhằm thể hiện sự hoành tráng, uy nghi quyền thế.
Hà Bính Văn kinh ngạc tột độ, ngay lập tức thét lớn: - Dập tắt hỏa tiễn, không được phép nổ pháo!
Hà Bính Văn nói đoạn bèn dùng thuật Tiễn Bộ sải bước nhảy tới, lộn trên không trung, rút thanh đao ở thắt lưng ra chém một tiếng "choang" lên thân pháo, làm bắn tung ra một đám lửa điện. Ngay tức thì dây dẫn lửa của hỏa pháo bị cắt đứt rơi xuống đất cháy xèo xèo.
Hà Bính Văn toát mồ hôi lạnh, cao giọng thét lớn: - Tất cả không được manh động, nhìn cho rõ ràng, bọn họ... Bọn họ sao lại có cờ của Thiên tử trong tay?
Đám binh lính này cả đời chưa từng được nhìn thấy thế nào gọi là Thiên Tử Long Kỳ, nào đâu có biết những gì mà Du kích tướng quân đang nói. Đám pháo binh người nào người nấy đang cầm trong tay mồi lửa, ngơ ngác nhìn tứ phía; đám cung thủ dương đây cung lên, tay bắn đã ở vị trí sẵn sàng, nghe thấy đại nhân ra lệnh như vậy bèn theo phản xạ tự nhiên mà giương cung lên trời, mơ hồ không hiểu chuyện gì đang diễn ra.
Kinh Ly nhận thấy mọi chuyện chuẩn bị bại lộ, bèn vội vàng nói: - Giặc Oa sắp ra khỏi thung lũng rồi, người dám lâm trận rút lui hay sao? Ngay lập tức nổ pháo, nghe thấy không, kháng quân lệnh thì tất cả đều bị chặt đầu!
Nghiêm Hổ Đệ nhảy một bước Tiễn Bộ đến trước mặt một khẩu pháo, giành lấy mồi lửa trong tay binh sĩ rồi đốt cháy dây dẫn. Hà Bính Văn thấy vậy thì trong lòng lấy làm nghi hoặc lắm, cho dù giặc Oa có cướp được một lượng lớn quân phục và binh khí từ Kim Hoa thì cũng không thể có khả năng cướp được Thiên Tử Huyền Long Kỳ.
Nay sáu tỉnh ven biển chỉ có duy nhất một vị khâm sai đại thần, đó chính là Dương Lăng, Dương đại nhân. Những vị Khâm sai khác đã từng tới Giang Nam thì lúc quay về Kinh đều phải giao lại Long Kỳ, vậy Thiên Tử Long Kỳ trước mặt kia từ đâu mà có? Đám người kia vội vàng động thủ đến như vậy, dường như bọn chúng đang lo lăng giặc Oa sẽ chạy thoát?
Hà Bính Văn thét lớn: - Dừng tay! Gã ngược tay rút ra một thanh đao quăng qua. Nhát đao này chủ yếu là muốn ngăn chặn, chứ không hề muốn làm thương hại đến Nghiêm Hổ Đệ. Thanh đao lao tới trước mặt y, sượt qua người, cắm ngập một nửa xuống đất, cả thanh đao khẽ rung lên một nhịp. Nghiêm Hổ Đệ sợ hãi lùi lại phía sau, lảo đảo suýt ngã.
Ngay sau đó Hà Bính Văn lao qua, tên cận binh bên cạnh chỉ cảm thấy phần lưng của mình khẽ bị động một cái, thanh đao của mình đã được Hà Bính Văn cầm trong tay. Gã cầm ngang đao trước ngực, đứng trước khẩu pháo, oai phong nói lớn: - Các ngươi muốn làm gì? Đoàn quân ở dưới núi kia có mang theo Thiên Tử Long Kỳ, bổn quan còn phải điều tra cho rõ ràng là địch hay là quân ta, ai dám tự ý hành động?
Hà Bính Văn nhìn một lượt đám người Kinh Ly, nghiêm nghị nói: - Bổn quan cần phải điều tra cho rõ ràng, nếu như đoàn quân ở dưới núi kia quả đúng là giặc Oa thì ta sau khi đánh tan đoàn quân ở giữa sẽ ngay lập tứ truy sát đoàn quân đầu tiên, quyết không để cho bọn chúng làm loạn vùng Phúc Kiến này. Nhưng lúc này vẫn chưa phân định rõ là địch hay quân ta, tuyệt đối không thể hành động lỗ mãng. Chưa vị tướng quân, xin lỗi các vị, hãy để ý đến bọn họ!
Nghe lệnh của Hà Bính Văn, những cận binh đồng loạt "soạt" một tiếng rút đao ra, nhanh chóng bao vây lấy đám người bọn Kinh Ly. Hà Bính Văn quay người nói: - Thông báo cho quân ta phía sau thu hẹp vòng vây, ngăn chặn đoàn quân giữa tháo chạy, ngay lập tức...
Hà Bính Văn cắt đặt mọi việc, Kinh Ly sốt ruột đến toát mồ hôi: - Một lát nữa thôi Hà Bính Văn liên lạc được với người ở dưới chân núi, mọi việc bị bại lộ, Lúc đó thì nạn mất đầu đã ở ngay trước mặt rồi, chỉ còn cách giết chết Hà Bình Văn, tìm cách nắm được quyền binh trong tay gã để quyết liều một phen thôi.
Kinh Ly nghĩ tới đó thì ném thanh đao giắt cạnh sườn cho tên tướng bên cạnh, lạnh lùng đi về hướng của Hà Bính Văn và cười nói: - Huhm, bổn quan chỉ e là giặc Oa thoát khỏi trận mai phục. Ngươi nhát gan như vậy, lúc về ta nhất định sẽ bẩm báo lại tội trạng của ngươi với Nguyễn đại nhân và Chu Đề đốc!
Trong tay y không có vuc khí, hơn nữa tuy nói là không cùng một binh chủng, nhưng Kinh Ly là Tham tướng, quan chức cao hơn Hà Bính Văn, nên những cận binh cũng chỉ dám cầm đao bao vậy xung quanh y chứ cũng không dám làm gì quá đáng. Kinh Ly bước cách Hà Bính Văn chỉ tầm hai bước chân, đột nhiên y tăng tốc rồi lao tới, một thanh đao ngắn sáng lóe lên trong tay áo, y nói lớn sắc lạnh: - Hà Bính Văn lâm trận rút lui, phụng mệnh Nguyễn đại nhân, giết!
Lúc Nghiêm Hổ Đệ cậy quan uy bá đạo ép tới Hà Bính Văn đã có chú ý đến y, nhưng quả thật không ngờ y lại có thể hành hung ngay cả khi đang bị cận binh bao vây. Hà Bính Văn vội vàng né người, thanh đao đâm thẳng vào tim từ phía sau kịp soẹt ngang qua vai, thuận theo lớp áo giáp mà đam thẳng vào, vai của gã tức thì bị thương chảy máu.