Tuy bị kiềm chế, tính mệnh như treo bằng sợi tóc, nhưng Hoàng-Nghi cũng nhận ra Nang-chang-Lan mặc chiếc áo xanh, dây lưng hồng, quần đen, cỡi ngựa đi song song với Đông-Thiên. Nàng nghiêng nghiêng cái đầu, nhìn giáo chúng như những con chó phải thần phục dưới chân mình. Tuy thấy Hoàng-Nghi bị Vũ Chương-Hào kiềm chế, mà nàng vẫn thản nhiên như không.
Từ lúc Ngọc-Liên, Ngọc-Hương thấy bọn Hoàng-Nghi bị bắt, hai nàng chỉ mới học thuật chỉ huy voi, hổ, nhưng chưa thông thạo, thành ra luống cuống không biết làm thế nào cứu ứng. Bây giờ thình lình Tây-hồ thất kiệt xuất hiện với Đông-Thiên, thì mừng chi siết kể. Hai nàng vọt ngựa tới, tóm lược tình hình kể cho chúng nghe.
Tuổi trẻ thời nào cũng vậy, rất nhậy cảm trong vấn đề tình bạn. Giữa Long-biên ngũ hùng với Tây-hồ thất kiệt, học với nhau, nô đùa với nhau, phá phách với nhau, trêu cợt nhau mấy năm qua, khiến chúng trở thành thân thiết như ruột thịt. Nghe Ngọc-Liên kể, rồi nhìn bọn Hoàng nghi đang bị kiềm chế, Tây-hồ thất kiệt đồng hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt. Đó là hiệu lênh xua quân tấn công. Hai đạo Hoàng, Bạch kỳ dàn ra mau chóng vây lấy bọn Vũ Chương-Hào, Nguyễn-thị Bằng. Trần-Di ra lệnh cho Quách-Y, Mai-Cầm, Ngô-Ức chỉ huy đội tượng, hổ.
Từ lúc bọn Hoàng-Nghi bị kiềm chế, đám hổ binh, tượng binh không người thống lĩnh; tuy thấy chúa tướng bị bắt, mà chúng không biết làm thế nào, chỉ biết chạy theo. Bây giờ có người chỉ huy chúng nhe nanh, há miệng nghểnh cổ, gầm gừ, lắc lư đầu; chỉ cần một cái phất tay của Trần-Di là chúng nhào vào tấn công ngay.
Từ trước đến giờ Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng có coi anh em Đông-Thiên ra gì đâu? Khi mới thấy Đông-Thiên với hai đạo Hoàng, Bạch kỳ, chúng định ép bọn Hoàng-Nghi xua thú tấn công. Nhưng bây giờ thấy Tây-hồ thất kiệt thay thế bọn Hoàng-Nghi chỉ huy hổ, tượng... chúng ớn da gà; là những đại ma đầu Hồng-thiết giáo, chuyên dùng thú để xử tử những giáo đồ phản bội, nên chúng hiểu rất rõ cái nguy hiểm trước mắt. Vũ-chương-Hào vội tiến ra cung tay hành lễ:
– Thuộc hạ tham kiến giáo chủ. Kính chúc giáo chủ thọ bằng trời đất.
Đông-Thiên cười nhạt:
– Hữu hộ giáo, Đông-phương sứ! Bản nhân sai phó giáo chủ cùng vợ chồng đạo trưởng Võ-xuân-Loan, Trần-Bình đi sứ để tuyên cáo đại nghĩa với hai vị. Hà cớ hai vị lại bắt giam lại, như thế là ý gì vậy?
Vũ-chương-Hào cung tay:
– Khải giáo-chủ, thực là oan uổng, bởi khi phó giáo chủ cùng vợ chồng Trần-Bình tới Đồ-bàn, thì tế tác của Chế-Củ đã biết hết mọi sự. Chế-Củ bàn với Lục-Đình giả làm tiệc thiết đãi, rồi bỏ thuốc độc vào thức ăn, khiến phó giáo chủ với vợ chồng Trần-Bình mê man, rồi bắt giam. Thuộc hạ với Đông-phương sứ tuy biết rõ, nhưng không thể can thiệp, vì sợ hỏng đại cuộc. Bọn thuộc hạ bàn với nhau: hãy nín nhịn cho qua, đợi đại giá giáo chủ tới ngoài thành, bọn thuộc hạ sẽ khởi binh giết Chế-Củ, tôn giáo chủ lên làm vua, bấy giờ cứu phó giáo chủ cũng chưa muộn.
Y chỉ vào bọn Hoàng-Nghi:
– Sáng nay, được tin đại giá giáo chủ sắp tới, bọn thuộc hạ khởi binh giết Chế-Củ. Cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, thì bọn này xuất hiện, trợ chiến cho binh Chế-Củ, chúng xua thú tấn công giáo chúng, nên bọn thuộc hạ bị bại, phải rút ra đây. Tình hình trong thành thế nào, thuộc hạ không biết.
Đông-Thiên chỉ bọn Hoàng-Nghi:
– Các người nói sao lạ. Ba thiếu niên này là người của triều đình Đại-Việt cử đến giúp bản giáo. Vì thấy chúng có chân tài, ta định thu làm đệ tử. Vì chúng chưa hiểu nhiều về bản giáo, nên ta còn thử thách. Sở dĩ chúng xua thú tấn công người, chắc vì lý do trọng đại nào khác, chứ chúng không phải là những kẻ hồ đồ.
Hoàng-Nghi biết rằng nếu để chậm trễ, có thể Lý-Đoan, Trần-Ninh hay Ngọc-Liên, Ngọc-Hương nói rằng tuân chỉ Trung-thành vương diệt bọn Hồng-thiết thì hỏng bét. Nó cung tay vái Đông-Thiên:
– Khải giáo chủ, giữa hữu hộ giáo với bọn thuộc hạ, trung gian có sự hiểu lầm. Bọn thuộc hạ tuân chỉ dụ của giáo chủ tiến đánh Đồ-bàn. Nhưng giữa đường bọn thuộc hạ nghe tin hữu sứ bắt giam sứ đoàn của giáo chủ, nên khi thấy hữu sứ, với thuộc hạ của người, bọn thuộc hạ cho rằng... cho rằng cần giết hết bọn bất trung với giáo chủ. Bây giờ sự đã trắng đen, thì hẳn hữu sứ không làm khó dễ anh em thuộc hạ nữa.
Nghe Hoàng-Nghi biện luận, Vũ Chương-Hào biết rằng điều đó chưa chắc đã là sự thực. Nhưng trước mắt, tướng sĩ, giáo chúng của y còn không quá năm nghìn người. Trong khi hai đạo Hoàng, Bạch-kỳ đông đến mấy vạn, lại thêm đạo binh thú của bọn Hoàng-Nghi, Trần-Di nữa, nếu y không thả ba trẻ ra thì cái họa bị tiêu diệt khó tránh.
Y đưa mắt cho Thị-Bằng, cả hai vội thả bọn Hoàng-Nghi ra. Hoàng-Nghi chạy lại bên ngựa Nang-chang-Lan, nắm lấy tay nàng:
– Lan, anh nhớ em đến chết được. Em...
Chang-Lan giật tay ra:
– Trước mặt đại giá giáo chủ, anh phải giữ lễ độ, không được bầy tỏ tình cảm yếu mềm. Anh về trận của anh đi.
Hoàng-Nghi như bị gáo nước lạnh dội lên đầu, nó kinh ngạc:
– Em... sao em...
Chang-Lan cau mày:
– Giữa trận tiền, mà người mềm yếu như vậy sao đáng là đệ tử Hồng-thiết giáo? Lui!
Đông-Thiên hỏi bọn Hoàng-Nghi:
– Tình hình quân ta thế nào?
Hoàng-Nghi tuy bị ái tình nó vật, nhưng y vẫn còn tỉnh táo. Y trình bầy sơ lược kế hoạch của Trung-thành vương, rồi kết luận:
– Quân ta đã chiếm được thành Đồ-bàn rồi. Theo lệnh của Trung-thành vương, khi Chế-Củ còn, thì cuộc chiến còn, điều cần nhất là phải đuổi theo bắt cho được Chế-Củ, rồi giáo chủ trở về Đồ-bàn ban lệnh an dân, và lên ngôi vua.
Đông-Thiên bảo Vũ Chương-Hào:
– Hiện trận chiến ở Thi-nại đang diễn ra cực kỳ ác liệt. Quân ta chưa đổ bộ lên bờ được. Bố-bì Đà-na đắp đồn lập mặt trận dài từ cửa biển Thi-nại tới sông Tu-mao. Cho nên ta phải đánh từng đồn một, rất tốn sức, tốn thời giờ. Vì vậy trước đây cánh quân của ta phải tiến về hợp với cánh quân của Trung-thành vương đánh Đồ-bàn, thì nay ta đánh phía sau phòng tuyến Tu-mao. Bây giờ ta để hữu sứ, Đông-phương sứ, cùng đạo quân của Hoàng-Nghi đuổi theo Chế-Củ. Còn bọn ta tiến về phía Tu-mao. Người nghĩ sao?
Vũ Chương-Hào cung tay:
– Xin tuân chỉ dụ của giáo chủ.
Thế là đội quân của Chương-Hào với đội quân của Hoàng-Nghi đang thù nghịch, chém giết nhau, bây giờ hợp thành một cánh, đuổi theo Chế-Củ.
Vừa ra khỏi cửa Tây, thì gặp hiệu quân Bổng-nhật. Đô-thống Vương-văn-Trổ chỉ Vũ-chương-Hào:
– Thế nào! Phép lạ ở đâu khiến các vị này đi với ta?
Trần-Ninh cười:
– Quốc-tổ, Quốc-mẫu linh thiêng lắm, ngài phù hộ cho con cháu hiểu nhau.
Hoàng-Nghi tóm lược sự kiện thuật cho Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh nghe, rồi nó nói:
– Bọn đệ đi tiên phong, hai vị đi tiếp ứng nghe.
Nó lại nói với Chương-Hào:
– Hữu sứ với Đông-phương sứ thông thuộc đường lối, xin hai vị dẫn đường cho bọn hậu bối đuổi giặc.
Không đừng được, Chương-Hào phải ra lệnh cho thuộc hạ hợp với bọn Hoàng-Nghi. Nhưng là con cáo già, y cẩn thận hơn. Y nhảy lên bành voi ngồi chung với Hoàng-Nghi; Thị-Bằng ngồi chung với Lý-Đoan, Ngọc-Liên.
Voi của Lý-Đoan dẫn đầu đoàn quân, hướng phía Bồng-sa tiến phát. Dọc đường Vũ Chương-Hào cật vấn Hoàng-Nghi về việc gặp Đông-Thiên. Hoàng-Nghi biết rằng Vũ là một ma đầu xảo quyệt, linh lợi có thừa, chỉ cần dấu một điểm là y biết ngay. Vì vậy nó tường thuật từ đầu đến cuối, không bỏ sót một chi tiết nào.
Chương-Hào thắc mắc:
– Ta có một nghi ngờ: xưa nay triều Lý cực kỳ thù hận Hồng-thiết giáo, mà sao nay nhà vua lại giúp giáo chủ làm vua Chiêm? Có gì dấu diếm ở trong không?
Biết rằng khó mà biện thuyết với Vũ, Hoàng-Nghi làm bộ ngây thơ:
– Điều này thì tiểu bối hoàn toàn không biết. Hữu sứ kinh lịch khắp thiên hạ, hữu sứ thử kiến giải xem.
– Ta thì ta đoán rằng: triều Lý do cửa Phật mà có, nên ông vua nào cũng phải tỏ ra từ bi, hỷ xả, khoan thứ, bỏ thù. Chắc vì vậy mà nhà vua nghĩ: bọn ta ở Chiêm lâu ngày, từ tiếng nói, đến cách ăn ở, y phục giống Chiêm, thì để bọn ta làm vua Chiêm, hơn là triều Lý cử quan sang cai trị, rồi cứ phải đánh dẹp bọn Chàm nổi lên phục quốc rất cơ cực. Lại nữa chúng ta là người Việt, mà cai trị Chiêm, thì giòng giống Việt tại đây mới chiếm ưu thế, diệt dần giòng giống Mã-lị-á. Có đúng thế không?
Hoàng-Nghi thấy Chương-Hào chỉ vì cái danh, mà nhìn sự vật toàn mầu xanh, nó vội nói thêm vào:
– Sự thực như hữu sứ kiến giải cũng có, mà theo tiểu bối còn một điều nữa là: Hồng-thiết giáo tổ chức chặt chẽ, có nhiều người minh mẫn tuyệt đỉnh, võ công cao thâm. Nếu như các vị cai trị Chiêm, thì bọn Mã-lị-á có nổi lên chống cũng không nổi. Tương lai, các vị còn tiến vào Nam, chiếm Chân-lạp nữa. Triều đình Đại-Việt luận bàn: từ khai quốc đến giờ Đại-Việt luôn bị cái ách đe dọa của phương Bắc, gần đây lại thêm cái rắc rồi ở phương Nam. Cho nên triều đình muốn sao dứt được cái rắc rối, để có thể yên tâm chống họa Bắc. Nếu Chiêm quốc được cai trị bởi các vị, ít ra Hồng-thiết giáo không phải là bạn tốt, thì cũng chẳng phải là kẻ thù như Chế-Củ.
Bỗng tiếng chim ưng tuần phòng trên trời réo lên báo hiệu. Hoàng-Nghi nhìn về trước, có khói bốc lên, rồi tiếng quân reo, ngựa hý. Vương-văn-Trổ đã phi ngựa lên trước quan sát. Ông nói:
– Đây còn cách Bồng-sa hơn hai mươi dặm. Phía trước kia có trận giao tranh rất ác liệt. Chắc là quân của Chế-Củ với quân của Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt. Ta phải lên tiếp viện mau.
Đến đó có đôi chim ưng bay tới, chúng ré lên báo hiệu khẩn cấp. Lý-Đoan gọi chim ưng xuống, lấy thư ra đọc, quả là lời cầu cứu của Phạm-Dật, Kim-Loan:
«... Tiền quân của Chế-Củ rút tới Bồng-sa, chúng tôi tung phục binh đánh hậu quân của Chế. Những tưởng hiệu Bổng-nhật với đội thú của Hoàng-Nghi đuổi tới đánh phía sau địch. Nhưng sau nửa giờ vẫn không thấy đâu. Trung quân của Chế-Củ đánh quặt trở lại. Chúng tôi bị bao vây... »
Hoàng-Nghi hội với Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng, Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh. Nó nói:
– Đúng kế hoạch, thì hai đô thống với bọn đệ đuổi sát phía hậu quân Chế-Củ. Nhưng vì có sự hiểu lầm, bọn đệ bị Vũ hữu sứ kiềm chế, thành ra ta tiến quân chậm, mới nên nông nỗi. Bây giờ chúng ta phản ứng ra sao?
Vương Văn-Trổ đề nghị:
– Ta viết thư cho Hà Mai-Việt, báo tin để họ phá vòng vây, còn ta thì đánh bọc hai bên.
Trần-Ninh viết thư sai chim ưng đi liền. Sau khi thỏa thuận, Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh đem hiệu Bổng-nhật đánh vào bên phải; Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng với bản bộ quân mã đánh vào bên trái; bọn Hoàng-Nghi, đem đội võ sĩ Long-biên, đội voi, đội hổ đánh vào chính giữa.
Ba cánh quân đánh trống, tiến lên.
Bọn Hoàng-Nghi thúc quân lên đường. Mỗi lúc tiếng quên reo, ngựa hí càng gần. Khoảng hơn khắc sau, phía trước hiện ra một trận chiến: quân Việt đóng trên một ngọn đồi thấp thoai thoải, dàn trận thành hình cánh cung. Đội kị binh Phù-đổng núp sau những tảng đá lớn dùng tên cản trở không cho quân Chiêm tiến lên. Đội sói núp bên cạnh trong tư thế phòng vệ. Còn quân Chiêm thì dàn ra vây chặt dưới đồi. Dường như họ đã xung phong nhiều lần, nhưng không kết quả, vì xác người, xác ngựa nằm rải rác trên sườn đồi.
Hoàng-Nghi đốt pháo thăng thiên tung lên trời. Đó là hiệu lệnh tấn công. Đạo Bổng-nhật từ phía phải, đạo của Vũ-chương-Hào từ phía trái, vừa reo hò xung vào phòng tuyến Chiêm. Bọn Hoàng-Nghi cầm cờ phất, đám võ sĩ Long-biên đứng trên lưng voi, cung dương, tên nạp; đội hổ đi phía trước. Quân Chiêm thấy hổ mà vẫn bình tĩnh, dương cung chống trả. Nhưng chỉ hai loạt tên đầu của đội võ sĩ Long-biên, hơn nghìn người chết. Đội hình Chiêm bị cắt làm đôi. Phía trên đồi, Phạm-Dật, Kim-Loan xua đội sói đổ đồi. Đạo kị binh Phù-đổng rời khỏi chỗ nấp đánh trở xuống. Không đầy nửa giờ, vòng vây bị phá vỡ, quân Chiêm bỏ chạy về hướng Nam.
Hai quân bắt tay được với nhau. Vợ chồng Huyền-kỳ chủ vội đến trước Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng thi lễ. Phạm-Dật kể với Hoàng-Nghi:
– Trận chiến vừa qua, nghĩ lại mà rùng mình. Bọn Chiêm rút về Bồng-sa, vừa ngừng lại nấu cơm ăn, Vũ-kị đại tướng quân với bọn ta phục binh, xông ra đánh cắt hậu quân chúng thực dễ dàng. Trong khi giao chiến, ta cứ nghĩ rằng bọn mi tới liền, tiêu diệt đám hậu quân, rồi đuổi theo trung quân chúng. Không ngờ chẳng thấy bọn mi đâu, trong khi trung quân chúng trở lại đánh tập hậu. Bọn ta đành rút lên đồi cố thủ.
Có chim ưng mang thư đến, Phạm-Dật mở ra coi, rồi cung kính nói với Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng:
– Thưa hữu sứ, Trung-thành vương cho biết, hiện quân Đại-Việt đã chiếm xong Đồ-bàn và các huyện lân cận. Chỉ dụ của đức vua ban ra rằng: quân Đại-Việt tiến đánh đến Bắc Hải-vân thôi. Còn phía Nam Hải-vân trao cho các vị trong Hồng-thiết giáo. Đạo quân của Trung-thành vương đánh Đồ-bàn; đạo quân của nguyên soái Thường-Kiệt đánh Thi-nại, đều với mục đích giúp các vị. Hiện nay đại giá giáo chủ đang đánh quân Chiêm ở Tu-mao, vậy kính mời hữu sứ, Đông-phương sứ về Đồ-bàn tổ chức an dân, cai trị.
Vũ Chương-Hào mừng chi siết kể, bởi từ trước đến giờ y vẫn coi thường Đông-Thiên. Trong trận chiến Đồ-bàn vừa rồi, bất đắc dĩ y phải khuất phục Đông-Thiên để chờ thời, chứ trong lòng y, thì y vẫn nghĩ rằng, lật Chế-Củ rồi, y sẽ lên làm vua. Bây giờ Đông-Thiên đang tham chiến ở Tu-mao, Trung-thành vương gọi y về giữ Đồ-bàn, thì là điều y cầu mà không được. Vì sau khi y tổ chức nền cai trị Đồ-bàn, rồi cử người thân tín đi nhậm tất cả lộ, phủ, huyện, trang, xã, thì sau này Đông-Thiên không thể tranh thắng với y. Y vui vẻ nói:
– Tôi xin tuân chỉ của vương gia.
Sau khi cho quân ăn cơm trưa rồi, Phạm-Dật nói với vũ-kị đại tướng quân Hà Mai-Việt:
– Hà tướng quân cùng hai vị Huyền-kỳ chủ ở lại đánh chiếm, tổ chức cai trị các vùng xung quanh. Anh em chúng tôi xin đuổi theo quân Chiêm ngay, không cho chúng kịp nấu cơm ăn. Như vậy khi chạy tới Nỏng-khà thì tan rã.
Hổ, sói được xua lên xe, dùng voi kéo. Phạm-Dật hỏi anh em:
– Ê! Bọn bay mệt chưa?
– Mệt hay không, đếch cần bàn đến! Hãy đuổi theo giặc tới cùng đã.
Bốn trai, ba gái, đi trên bốn voi xua quân lên đường. Lý-Đoan luôn luôn dùng chim ưng theo dõi tình hình quân Chế-Củ. Trưa hôm ấy bọn chúng dừng quân dưới chân một ngọn núi đá dựng đứng, cạnh con suối. Phạm-Dật quan sát kỹ, chúng quyết định hạ trại: lưng dựa vào núi, phía trái là ngọn suối, phía phải là cánh đồng. Hoàng-Nghi bố trí các xe thành những bức tường che mặt trước, mặt phải. Sau đó phân chia cho Ưng-binh, Ngao-binh canh phòng, rồi nấu cơm ăn.
Thú rừng được thả ra cho chạy tự do. Đội võ sĩ Long-biên cử mười toán đem chó sói đi săn. Rừng núi vùng này rất nhiều thú. Chỉ hơn giờ sau, các toán săn bắn đem về nào hươu, nào nai, nào hoẵng, nào heo rừng, nào trâu rừng không biết bao nhiêu mà kể; làm lương thực. Đội voi, ngựa thì ăn cỏ. Đội hổ, sói, hồi chiều sau trận giao chiến với quân Chiêm, chúng được thưởng thức một bữa thịt người ê hề, nên bây giờ chúng kiếm chỗ nằm nghỉ. Ngọc-Liên, Ngọc-Hương vốn có tài nấu ăn. Hai nàng cắt một đùi nai, rồi lấy củi khô đốt lên nướng. Bẩy người vừa cắt thịt ăn vừa bàn luận.
Hoàng-Nghi vừa ăn, vừa thừ người ra tỏ vẻ đăm chiêu. Ngọc-Liên hỏi:
– Anh ba Nghi đang nghĩ gì vậy?
– Anh thấy chúng mình trải qua một đêm xung sát mệt lử, bây giờ hãy tạm nằm nghỉ. Đêm nay trời tối, ta đem quân đuổi theo Chế-Củ, gây cho quân sĩ của y kinh hoàng, thì mới mong bắt được y. Tuy nhiên, anh ngại một điều, quân của chúng tuy hao hụt, nhưng cũng còn vài vạn. Ta làm sao địch nổi?
Phạm-Dật phất tay:
– Hồi sáng, giao chiến với bọn Chiêm, anh thấy chúng mệt mỏi lắm rồi. Vì từ sớm hôm qua, chúng chia thành hai phe ủng Vũ Chương-Hào, phe ủng Chế-Củ đánh nhau kẻ chết, người bị thương; rồi khi quân ta vào thành, chúng rút chạy. Khi đến đây vừa dừng lại nấu cơm thì bị đổ ra đánh. Ta đồ chừng chúng chạy khoảng năm chục dặm ắt dừng lại nghỉ ngơi. Bây giờ giữa đêm, ta tung phục binh đánh, thì y phải bỏ chạy.
Lý-Đoan, Trần-Ninh tán thành:
– Thôi ăn rồi đi ngủ, để sức đêm nay xung sát. Mình phải đánh tan quân Chế-Củ cho tên chó Trần Thanh-Nhiên lé mắt chơi.
Hoàng-Nghi đưa mắt nhìn về Đồ-bàn, trong lòng buồn rười rượi.
Kim-Loan hỏi nó:
– Chú ba này, chị thấy gần đây, dường như chú có điều gì buồn thì phải. Chị tuy chưa là vợ của anh Dật, nhưng tương lai cũng là chị dâu chú. Vậy chú có điều gì bất mãn, chú có thể nói cho chị nghe được không?
Hoàng-Nghi thở dài:
– Chuyện em chẳng có gì lạ cả, vẫn lại chuyện Chang-Lan mà thôi.
Rồi nó tường thuật cuộc đối thoại với Lan hôm trước cho Kim-Loan nghe. Kim-Loan nhăn mặt:
– Điều Lan nói, chị không lạ. Vì chị đã từng sống trong trang Vọng-hương của Võ– Xuân-Loan, nên chị biết vấn đề này rất rõ. Chính vì vậy chị với Kim-Liên không chịu nhập Hồng-thiết giáo, rồi đưa đến cha, anh bị chúng hành hạ. Như Chang-Lan kể, thì nàng nhập Hồng-thiết giáo lâu rồi, nên coi sự hiến thân cho lão Đông-Thiên là một vinh dự. Trong những ngày vừa qua, chị thấy cô ấy tỏ ra rất có oai quyền với mười kỳ chủ, gần như tự coi mình là vợ của giáo-chủ vậy. Như thế thì chú chẳng nên để ý đến con người ấy làm gì.
– Kể từ lúc nàng thuật rằng được phục thị Đông-Thiên là một vinh hạnh lớn, thì em cảm thấy lợm giọng, không muốn nói chuyện với nàng nữa. Còn em buồn, là buồn cho số kiếp mình mà thôi. Em đợi sau trận đánh này trở về, sẽ tìm Mộc-tồn hòa thượng xin thọ giới, để làm một tiểu Mộc-tồn.
Nghe Hoàng-Nghi kể, Kim-Loan an ủi nó:
– Chuyện tình, thì chỉ là cái vui nhỏ. Cái vui lớn là sự nghiệp vĩ đại mà chúng ta đang làm đây mới đáng kể. Không lẽ chỉ vì một đứa con gái Chiêm, tư cách chưa đáng gía một đồng, mà chú ba lại táng chí như thế sao?
– Em cũng nghĩ như chị, nhưng chị ơi, cái tình là cái chi chi, không thể đem lý ra mà luận bàn được. Chị khuyên em, tuy em thấy thuận lý, nhưng trong lòng em, thì em vẫn thấy bồi hồi khó tả.
Đạo quân ngủ đến hết canh tư, thì có tiếng sói tru, tiếng ưng kêu báo hiệu. Cả bọn bật dậy, leo lên cây quan sát, bất giác cùng ớn da gà: từ hai phía trước và phải của trại, hai đạo quân đông như kiến đang âm thầm tiến vào phía trại. Trong trại, đội võ sĩ Long-biên đã dàn ra, núp vào các xe, bụi cây, chuẩn bị chống trả. Trần-Ninh, Ngọc-Hương trấn phía phải; Lý-Đoan, Ngọc-Liên trấn phía trái.
Hoàng-Nghi chỉ huy đội voi, đội hổ, đội sói chia làm hai mặt, chuẩn bị yểm trợ.
Phạm-Dật, Kim-Loan trấn tại trung ương. Cả hai thấy địch còn ở xa, nên ra lệnh án binh bất động. Đội quân tấn công chỉ còn cách phòng tuyến trại khoảng trăm trượng (200m ngày nay), mà không thấy trong trại có phản ứng gì, thì dừng lại nghe ngóng. Khoảng nhai dập miếng trầu, hai đội quân lại từ từ tiến vào, khoảng cách ngắn dần... năm mươi trượng, rồi ba mươi trượng, rồi hai mươi trượng. Hoàng-Nghi cầm tù và rúc lên một hồi, đám võ sĩ Long-biên đồng buông tên, hàng đầu đội binh bị trúng tên ngã lổng chổng. Quân tấn công thúc trống reo hò xua voi đi trước, người đi sau. Đuốc đã đốt lên sáng rực. Nhìn quân tấn công, bất giác Phạm-Dật ớn da gà, bởi chúng dàn đến mười lớp. Hai lớp đầu tiên gồm voi, với đội hoả công, chúng đeo rơm tẩm dầu trên lưng, chắc định phóng hỏa đốt trại; hai lớp thứ nhì là cảm tử mang đoản đao; hai lớp thứ ba là đội cung thủ; hai lớp thứ tư là kị binh; hai lơp cuối cùng là bộ binh với xe bắn đá.
Loạt tên đầu làm lớp thứ nhất ngã, loạt tên thứ nhì khiến đội voi con thì bị thương, con thì chết; thành ra lớp thứ nhì bị voi với tử sĩ lớp thứ nhất cản trở.
Phạm-Dật hô võ sĩ Long-biên:
– Dùng tên tẩm dầu bắn vào những bó cỏ trên lưng đám tử sĩ, và lớp thứ nhì.
Võ sĩ Long-biên lấy tên đầu bọc vải tẩm dầu đeo trên lưng đốt lên bắn ra ngoài. Những tử sĩ tuy chết, nhưng trên lưng còn đeo bó cỏ tẩm dầu bị trúng tên lửa bốc cháy, làm lớp thứ nhì không tiến lên được. Chúng đang kinh hãi thì đến lượt những bó cỏ trên lưng chúng bị trúng tên bốc cháy. Chúng vội quẳng cỏ xuống, chưa biết hành động ra sao, thì lại bị trúng tên. Xung quanh trại khói lửa bốc lên sáng rực. Tuy thấy hai lớp đầu thất bại, nhưng lớp thứ hai vẫn không lùi bước; đó là những võ sĩ cảm tử. Họ nhảy qua xác chết, qua hàng rào lửa, tiến vào trại. Võ sĩ Long-biên lại buông tên, nhưng loạt tên chỉ làm ngã một phần đám cảm tử quân mà thôi; thoáng một cái, họ đã vào tới hàng rào. Hoàng-Nghi hú lên một tiếng, voi, sói, cọp, cứ ba con thành một toán nhảy ra cản đám võ sĩ cảm tử. Hai bên lẫn vào nhau. Kẻ chém giết, sói cắn, hổ vồ, voi dùng vòi vật... hỗn độn.
Phạm-Dật chỉ huy đội võ sĩ Long-biên, bỏ không đánh đội cảm tử, mà ngăn cản đội cung thủ đã tiến tới sau đội cảm tử. Tên bắn qua, cung bắn lại. Khoảng một khắc sau, hai lớp đầu của quân tấn công bị cắt đứt, xác chết ngổn ngang ngoài doanh trại.
Có tiếng thanh la vang dội, đội quân tấn công từ từ lùi ra khỏi phòng tuyến.
Thời gian giao chiến khoảng ba khắc (40 phút ngày nay), nhưng thực kinh hồn táng đởm: bên tấn công đông gấp mười, tỏ ra gan dạ, liều mạng. Bên phòng thủ thì mưu trí, điều động nhịp nhàng; nhất là đội võ sĩ Long-biên, họ là những cao thủ võ lâm, nên cung cứng, tên dài, tầm bắn xa, trăm phát trăm trúng. Khi thì mỗi phát họ bắn một mùi tên, khi thì mỗi phát hai, ba, thậm chí mười mũi; nên hầu hết đội voi xung vào đều bị bắn hạ.
Hoàng-Nghi đếm xác voi ngoài hàng rào có đến hơn trăm. Nhiều con bị thương chưa chết, rống lên thảm thiết. Về quân tấn công, kẻ trúng tên, người bị voi quật, cắn chết, cũng có người bị chính cỏ mình đốt cháy. Còn rất nhiều người bị thương chưa chết, nằm rên rỉ. Nó khoát tay ra lệnh thu quân, chỉ để mỗi mặt một đội canh gác. Trên trời, thường trực đội ưng tuần phòng.
Lý-Đoan là thầy thuốc, hoàn cảnh bất đắc dĩ phải xung trận giết người, thì nó làm được. Bây giờ sau trận đánh, thấy thương binh kêu khóc, lòng nó nhũn ra. Nó cùng đội cứu thương với đội võ sĩ Long-biên ra ngoài nhặt được bẩy mươi thương binh đem vào trong băng bó, chữa trị. Đội võ sĩ Long-biên bắt được bốn mươi chín tù binh, vì sợ quá, nằm ì lại dưới các lùm cây giả chết.
Phạm-Dật hội anh em lại. Nó bảo Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương:
– Trong đám tù binh, có hai tên mặc theo võ phục đội trưởng, các em nói giỏi tiếng Chàm, vậy các em đem chúng vào hỏi cung xem đây là quân nào? Chúng tấn công mình với mục đích gì?
Trong khi đó Phạm-Dật bàn với ba em:
– Các em nghĩ sao?
Lý-Đoan phát biểu:
– Bọn tấn công tỏ ra rất can đảm, thiện chiến, phối hợp nhịp nhàng. Chúng lại biết rõ tình hình ta, nên chúng định dùng voi phá phòng tuyến ngoài, rồi đốt trại để làm tê liệt đội hổ. Bấy giờ chúng mới tung đội cảm tử đánh giáp lá cà diệt đội võ sĩ Long-biên, cuối cùng là đội tiễn thủ để thanh toán chiến trường. Nhưng chúng không biết hai điều, một là đội võ sĩ Long-biên có mang tên lửa theo, hai là cọp của ta được huấn luyện không sợ lửa; nên chúng mới thất bại.
Đến đó Kim-Loan trở lại, nàng nói:
– Đạo binh này là đạo binh phòng thủ tuyến thứ ba ở Tu-mao, chưa từng giao chiến với quân Việt. Nghe tin Đồ-bàn thất thủ, Bố-bì Đà-na sai Bắc-sứ Hồng-thiết giáo là Nguyễn Nhược-Điểu rút lui, đi men theo đường biển đến Bồng-sa, đánh tập hậu chúng ta, rồi đi đoạn hậu bảo vệ Chế-Củ. Chế-Củ sẽ rút về Phong-sa-trang. Còn Nguyễn Nhược-Điểu trấn tại thành Nỏng-khà, trong khi đó Bố-bì Đà-na cố cầm cự ở Tu-mao. Mục đích chúng làm cho ta phải chia quân làm bốn nơi: trấn Đồ-bàn, công Tu-mao, vây Nỏng-khà, đánh Pandurango. Ta có dứt được bốn nơi, ít ra phải hơn năm. Như vậy ta sẽ bỏ cuộc rút lui. Bấy giờ chúng mời phản công.
Phạm-Dật vội viết thư báo cáo cho Trung-thành vương, cho nguyên soái Thường-Kiệt, rồi sai chim ưng mang đi. Hoàng-Nghi than:
– Bọn Chiêm quả thực tài chí không tầm thường, hèn gì chúng dám mưu đánh chiếm Nghệ-an của mình. Cơ chừng này, hoàng thượng là ông vua nhân từ, sợ binh sĩ chết nhiều, người cho lui quân thì hỏng bét. Vậy ta phải làm sao bây giờ? Mấy hiệu quân của Trung-thành vương dàn ra quá rộng rồi, bây giờ tập trung lại đánh Nỏng-khà không dễ gì thành công đâu. Tất cả đều đặt hy vọng vào chúng ta, mà chúng ta bị vây ở đây, thì làm sao hành sự được?
Đến đó, chim ưng từ phương Nam đem thư đến, Hoàng-Nghi vội mở ra xem, thì ra đó là thư của Dư-Phi, Vũ-Quang thông báo quân tình:
«... Đạo binh của Chế-Củ không rút về Nỏng-khà, mà đi đường tắt ra bờ biển. Chế-Củ, cùng triều đình, cung quyến rút xuống chiến thuyền, đổ về Nam đèo Trưởng-sơn. Còn quân tướng, thì chia làm hai, một nửa đóng trong thành Nỏng-khà, một nửa đóng ở bờ biển làm thế ỷ dốc. Vì vậy chúng ta đều ẩn thân trong rừng chờ lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt. Chúng ta chỉ còn bốn ngày lương mà thôi... ».
Trời sáng dần.
Phạm-Dật truyền thả thú ra cho chúng ăn uống, quân sĩ nấu cơm, nhưng vẫn phải phòng bị, sợ quân Chiêm trở lại. Quân sĩ vừa ăn cơm xong, thì quân Chiêm quay trở lại tấn công. Chúng xung phong ba lần, đều bị chết nhiều quá, phải rút ra. Hơn hai giờ sau, đạo quân khác lại kéo đến tấn công. Nhưng khi tới cách tuyến phòng thủ năm chục trượng, chúng lại reo hò rút lui. Hoàng-Nghi kinh hãi nói:
– Nguy lắm!
Ngọc-Liên hỏi:
– Cái gì vậy anh ba?
– Bọn chúng đông gấp mười ta, chúng chia quân thành nhiều toán, thay nhau tấn công, đặt ta vào thế bị động. Như vậy chỉ trong vòng hai ngày là ta kiệt sức, bấy giờ chúng sẽ đánh thực sự thì ta khó mà sống còn.
Ngọc-Hương bàn:
– Hay là ta cũng chia toán ra phòng vệ!
– Không được!
Hoàng-Nghi than: Cứ tình trạng này thì chỉ ba ngày nữa ta hết lương, thì chịu sao cho nổi?
Ngọc-Liên suy nghĩ một lúc rồi chỉ về phía Đồ-bàn:
– Ta viết thư cầu cứu với Trung-thành vương. Vương sẽ cho quân đến giải vây cho ta.
Hoàng-Nghi nhăn mặt, nói với Phạm-Dật:
– Bất cứ ai cũng có thể làm như Ngọc-Liên bàn. Riêng anh em mình không thể làm thế được. Bởi lúc đi, mình đã cam kết hoàn thành sứ mạng, nay lại viết thư cầu cứu, thì danh dự còn gì? Chúng ta thà chết, chứ không thể chịu nhục. Em đề nghị đêm nay chúng ta phá vòng vây chạy về hướng Nỏng-khà hợp với quân của Dư-Phi, Vũ-Quang, rồi rút sang Lão, ta đi đường Tây Trường-sơn đánh úp Pandurango. Như vậy vừa không phạm quân luật, vừa hoàn thành sứ mạng.
Trần-Ninh suýt xoa:
– Ta hành sự táo bạo như vậy, thì muôn ngàn lần Nguyễn Nhược-Điểu cũng không ngờ tới. Y chỉ có thể tưởng tượng ta cố thủ, hoặc phá vòng vây trở về Đồ-bàn mà thôi.
Cả bọn đều đồng ý.
Lý-Đoan sai chim Ưng binh cùng Ngao-binh dò thám quân tình địch, trong khi Phạm-Dật truyền cho binh sĩ nấu cơm ăn tại chỗ, chuẩn bị cơm nắm trong hai ngày. Sau khi ăn cơm xong, Ngao-binh, Ưng-binh trình bầy:
– Quân Chiêm tưởng ta có thể rút trở về Đồ-bàn, nên chúng phục binh làm ba nơi. Còn lại chúng đóng rải rác thành bốn trại. Riêng con đường mòn phía sau ngọn suối đi về hướng Tây thì chúng chỉ có hai vọng gác mà thôi.
Hoàng-Nghi truyền lệnh:
– Đêm nay, canh ba bắt đầu rút binh. Lý-Đoan, Ngọc-Hương dẫn một đội Ưng-binh, Ngao-binh, trăm võ sĩ Long-biên âm thầm vượt suối, thình lình giết quân canh Chiêm ở phía Tây, rồi trấn tại đó. Còn lại tất cả chúng ta khóa mõm thú, chia làm ba đội rút lui. Anh Dật, chị Loan dẫn toán đầu; Trần-Ninh, Ngọc-Hương dẫn toán thứ nhì. Tôi dẫn toán thứ ba. Khi tôi rút qua, thì Ninh, Hương mới rút theo bảo vệ hậu quân.
Đúng nửa đêm, các toán bắt đầu rút. Bao nhiêu xe đều phải để lại. Người ngậm tăm, thú khóa mõm âm thầm băng qua suối đi về hướng Tây. Trần-Ninh, Ngọc-Hương chờ cho Hoàng-Nghi rút qua rồi, hai người mới đem đội Ngao, đội Ưng và trăm võ sĩ Long-biên rút lui. Toán tiền phong nhờ có chó sói, chim ưng dẫn đường, nên tuy đi trong đêm mà không bị lạc. Khi trời sáng, thì toàn quân đã vượt qua bốn ngọn đồi, đang đổ vào một thung lũng, đồng bằng mênh mông. Bấy giờ Phạm-Dật mới cho nghỉ quân. Nó viết thư sai chim ưng báo cho Dư-Phi, Vũ-Quang biết. Hai bên hẹn nhau tại khu rừng phía Nam đèo Rundari (tiếng Việt gọi là Rù-rì, tên này nay vẫn còn).
Nghỉ quân đến trưa, Phạm-Dật lại thúc quân lên đường. Tối hôm đó, quân vượt qua một ngọn núi, tiến về hướng Đông. Kinh nghiệm bị tấn công mấy hôm trước, khiến bọn trẻ cẩn thận hơn, chúng chia quân đóng làm hai khu. Phạm-Dật, Kim-Loan, Hoàng-Nghi đóng ở cạnh suối. Lý-Đoan Ngọc-Liên, Trần-Ninh Ngọc-Hương đóng ở chân ngọn núi đá cao. Cơm chiều xong, chúng cho quân tắt đèn đi ngủ.
Tại khu trại chân núi, giữa lúc Trần-Ninh, Lý-Đoan đang cùng chị em Ngọc-Liên, Ngọc-Hương bàn kế đánh úp Pandurango thì một tia lửa lóe lên trên sườn núi gần bọn chúng. Trần-Ninh hỏi nhỏ Ngọc-Liên:
– Tại sao lại có tia lửa lóe ra trên kia? Ở đó tất có người. Rõ ràng chim ưng tuần hành trên đầu chúng ta, mà sao chúng không khám phá ra?
Nó hú lên ra lệnh cho chim ưng. Hai con lao xuống chỗ có tia lửa, rồi không thấy trở lên nữa. Trần-Ninh kinh hãi, nó gọi cặp khác ra lệnh lao xuống tiếp tục quan sát. Nhưng cũng như cặp trước, cặp này không thấy trở lên.
Lý-Đoan nói nhỏ:
– Mình thử sai cặp sói lên xem sao!
Lý-Đoan lại ra lệnh cho cặp sói, chúng phóng lên sườn núi liền. Trong bóng đêm mờ ảo, bọn trẻ thấy rõ nơi phát ra tia lửa ban nãy là một cái hang. Đôi sói lên tới cửa hang, hướng mũi vào trong ngửi ngửi, rồi cùng vẫy đuôi chạy vào trong; cũng như chim ưng, cặp sói không thấy trở ra. Ngọc-Liên nói nhỏ:
– Trong hang tất có gì kỳ quái, vậy chúng ta phải lên thám thính xem sao? Biết đâu chẳng có phục binh Chiêm?
Lý-Đoan, Trần-Ninh tình nguyện lên thám thính. Hai trẻ dẫn đôi cọp trắng, mười con sói men theo sườn núi leo lên. Trong khi Ngọc-Liên cho chim ưng tuần hành trên trời bảo vệ. Hai trẻ lên đến nơi, mới thấy đây là một cửa hang khá rộng, trong hang có ánh sáng mờ mờ chiếu ra. Vốn can đảm, Trần-Ninh bảo Lý-Đoan:
– Em với đôi cọp trắng vào trước. Anh theo sau xem sao nghe.
Nói rồi nó vẫy tay, đôi cọp trắng đi trước, nó lần mò bước theo bén gót. Vào trong khoảng ba trượng, thì hang vòng sang phải, phình ra rộng hơn. Một cảnh tượng làm nó kinh hồn động phách: dưới ánh nến mờ mờ, một đôi nam nữ tóc bạc như cước, để xõa xuống đến lưng, nhưng da lại tươi hồng trẻ như người ba mươi, nhất là người đàn bà thực là một giai nhân sắc nước hương trời. Cả hai ngồi theo thức kiết già, đối mặt vào nhau. Hai bàn tay nữ để ngửa, hai bàn tay nam úp lên hai bàn tay nữ. Trên thân hai người đầy rắn, con thì quấn quanh cổ, con thì quấn quanh vai, con thì quấn quanh thân; xung quanh chỗ hai người ngồi có hàng nghìn con quấn quanh những tảng đá, hoặc nằm cuộn tròn trên đất... tất cả đều nghểnh cổ, bành mang, thè lưỡi, lắc lư cái đầu. Cạnh đó không xa, hai con sói của nó nằm ghểnh đầu hướng vào đôi quái nhân. Bốn con chim ưng thì đậu trên một tảng đá đang rỉa lông. Phía trong cùng là hai đỉnh hương, bốc khói nghi ngút, càng tăng thêm vẻ huyền bí.
Đôi cọp trắng tiến tới trước hai người, nhe nanh gầm gừ, hai chân trước cào cào xuống đất như định nhảy tới vồ mồi. Cả hai người cùng mở mắt ra nhìn thẳng vào đôi cọp. Tự nhiên đôi cọp như bị một uy lực nào đó làm cho chúng không gầm gừ nữa. Nhưng chúng vẫn mở to đôi mắt nhìn vào hai quái nhân. Tám mắt nhìn nhau muốn tóe lửa. Trong khoảng nhai dập miếng trầu, đôi cọp từ từ cúi đầu xuống, rồi nằm dài ra, đầu gối lên hai chân trước, bất động, đuôi đập xuống đất liên tiếp.
Kinh hãi, Trần-Ninh hú lên ra lệnh cho chúng tấn công. Nghe hiệu lệnh của chúa tướng, đôi cọp thức dậy, chúng đứng lên mở to mắt rồi gầm gừ định nhảy vào vồ đối thủ. Hai quái nhân lại mở mắt, trong đôi mắt phóng ra tia hàn quang cực mạnh, khiến đôi cọp cúi đầu vẫy đuôi từ từ tiến tới trước mặt hai người rồi quỳ gối hành lễ bốn lần. Hai người vuốt ve đầu đôi cọp tỏ vẻ cực kỳ thương yêu chúng. Chúng nằm dựa lưng vào hông hai quái nhân, liếm tay quái nhân rất thân thiết.
Người đàn bà quay lại nhìn Trần-Ninh, mụ mỉm cười tỏ vẻ đắc thắng, rồi vung tay một cái. Trần-Ninh nhìn thấy rõ ràng bà ta bắn ra bốn viên thuốc mầu đỏ bay rất chậm, nhưng quay tròn cực mau, phát ra tiếng vo vo. Hai viên tới trước hai con trăn khổng lồ đang lắc lư đầu thì tự nhiên kêu lên tiếng véo, rồi đổi chiều trúng vào đầu gối nó. Trần-Ninh định tránh, nhưng không kịp. Hai chân bị tê liệt, nó khụyu xuống như quỳ vậy.
Mụ già nói lảm nhảm một mình bằng tiếng Việt:
– Này anh! Cái thằng Chàm con này ở đâu vào đây quấy rối, làm gián đoạn cuộc luyện công của chúng ta. Thôi, ta tiếp tục.
Trần-Ninh tuy bị tê liệt, nhưng nó vẫn nói được. Nó hô lên một tiếng gọi Lý-Đoan. Lý-Đoan cùng đội sói đã vào đến nơi. Nhìn qua tình hình Lý-Đoan cũng đoán ra rằng Trần-Ninh với đôi cọp bị kiềm chế, nên nó hú lên xua đội sói tấn công cặp quái nhân. Lão già tru lên mấy tiếng như sói tru trong đêm dài. Lạ thay, nghe tiếng rú của quái nhân, đội sói đang hung hăng, bỗng cùng hí hí, đuôi vẫy liên hồi như chó mừng chủ. Lão già vẫy tay một cái, đội chó chạy lại bên hai vợ chồng lão nghểnh cổ, vẫy đuôi tỏ vẻ mừng rỡ. Hai quái nhân bật lên tiếng cười, rồi vung tay tung ra hai viên thuốc đỏ. Lý-Đoan bị hai viên trúng huyệt Dương-lăng-tuyền. Dương-lăng-tuyền là huyệt hội tụ năng lực của gân toàn người, vì vậy nó hoàn toàn mất hết sức lực, đứng như pho tượng.
Lý-Đoan hỏi Trần-Ninh bằng tiếng Chàm:
– Hai quái nhân này là ai vậy? Tại sao họ lại tấn công mình?
– Nào có biết. Thôi, phen này thì chết là cái chắc.
Mụ già nhăn mặt, chỉ vào Lý-Đoan, Trần-Ninh, mụ nói tiếng Chàm với lão già:
– Hai đứa này đem hổ, ưng, sói vào đây thì hẳn bọn chúng ở ngoài còn nhiều lắm, ta giết chúng quách rồi chuồn cho cho lẹ. Bề gì thì chúng ta cũng bị bọn Chàm khá phá ra, ta không thể ở đây được nữa.
Lão già cất tiếng khàn khàn nói với mụ già:
– Khoan! Ta thấy bước đi của hai đứa nhỏ theo quẻ Càn sang quẻ Cấn, thở hít theo nội công Đông-a, lại biết sai ưng, sói, hổ, thì e rằng liên quan đến cặp vợ chồng đó. Để hỏi cho ra lẽ đã.
Lão hỏi Lý-Đoan bằng tiếng Chàm:
– Thằng nhỏ kia, phải chăng mi học võ với sư phụ người Việt?
Lý-Đoan đáp bằng tiếng Việt:
– Chúng tôi là người Việt.
Mụ già giật mình kinh hãi:
– Bọn mi tên gì? Tại sao lại xua thú tấn công bọn ta? Bọn mi là chỗ thế nào với Khai-quốc vương, Khai-quốc vương phi?
Lý-Đoan thấy mụ già gọi Khai-quốc vương bằng chức tước, trong lòng nó nghĩ thầm:
– Dường như hai người này thân thiết với Quốc-phụ, như vậy thì tính mệnh bọn ta coi như chưa đến nỗi nào.
Tuy biết thế, nhưng để bảo mật, nó trả lời lờ mờ:
– Tôi họ Lý tên Đoan còn sư đệ của tôi họ Trần tên Ninh. Anh em chúng tôi rất thân với Khai-quốc vương, Khai-quốc vương phi.
Mụ già nhảy phắt lên:
– Thân là thế nào mới được chứ? Thế mi có phải là con của Lý Phật-Mã hay Lý Nhật-Tông không?
Phật-Mã là tên tục của vua Lý Thái-tông, Nhật-tông là tên tục của Thiên-huống bảo tượng hoàng đế, khắp một giải đất Việt đều phải kiêng húy, không ai được quyền nhắc tới; thế mà mụ già này gọi tên hai vua bằng giọng khinh miệt, khiến Lý-Đoan kinh hãi nghĩ thầm:
– Chắc mụ có thù oán gì với hai vua, mà lại chịu ơn của Quốc-phụ.
Vì vậy nó trả lời để dò dẫm:
– Vua Thái-tông băng hà đã lâu, tôi làm sao là con của người được? Còn đương kim thiên tử thì mới có hoàng nam đây. Tôi không phải là con của hai vua đó.
– Thế mi là con của vương tử nào trong triều Lý?
Lý-Đoan nói thực:
– Tôi vốn họ Lê. Khi mẹ tôi mang thai, thì bố tôi được lệnh xung quân đánh Tống, giúp Nhân-huệ hoàng đế Nùng-trí-Cao. Bố tôi tử trận ở Như-hồng. Đức vua ban ruộng tuất nuôi mẹ con tôi, ban cho tôi quốc tính Lý. Nhưng khi tôi lên năm, thì mẹ tôi lại qua đời, làng giao ruộng cho sư cụ, để sư cụ nuôi dạy tôi.
Nghe Lý-Đoan kể, hai quái nhân nhìn nhau, trên nét mặt hai người hiện ra vẻ thương tiếc nhìn về xa xưa, rồi lại cau mày quan sát Lý-Đoan từ đầu đến chân. Lão già vung tay lên như đe dọa, rồi hỏi:
– Mi nói cha mi tử trận ở Như-hồng có đúng thế không? Thế cha chi thuộc đạo binh nào? Do ai chỉ huy? Nếu mi nói láo, ta nhả chưởng lực thì đầu mi vỡ ngay tức khắc. Nói mau.
Lý-Đoan nghĩ thầm:
– Không biết lão già này là ai? Tại sao lão lại kính trọng Quốc-phụ, mà khinh khiến hai vua? Khi mình nói đến cha mình tử trận, lão lại tỏ ra thương yêu mình? Rồi lại đe dọa rằng nếu mình nói lão, lão sẽ giết chết. Bố mình chết vì nước là một danh dự, âu là mình cứ nói thực, rủi có chết cũng không sao.
Lý-Đoan thở dài:
– Bố tôi chết ba tháng, tôi mới ra đời, nhưng trên mộ chí của bố tôi ghi rằng: bố tôi tên Lê-Mậu, thuộc hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải tả, đo tướng Lý Nhân-Nghĩa chỉ huy, tử trận năm 23 tuổi tại Như-hồng.
Bàn tay lão già hạ xuống, hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má lão. Lão tiến đến nắm lấy tay Lý-Đoan:
– Trời ơi! Suýt nữa ta giết lầm giọt máu của người đã vì ta hy sinh mạng sống.
Lão vuốt tay một cái, huyệt đạo được giải, chân tay Lý-Đoan cử động được như thường, trong khi đó lão bà cũng giải huyệt cho Trần-Ninh.
Lý-Đoan kinh ngạc hỏi:
– Hai vị cao danh quý tính là gì xin cho bọn tiểu bối biết để tiện xưng hô.
Người đàn bà lắc đầu:
– Chúng ta là những người danh vang Hoa-Việt hồi mười mấy năm trước. Nhưng nay đã đi vào lãng quên, chẳng nên nói đến làm gì. Chúng ta đáng tuổi cha, tuổi mẹ các cháu. Các cháu cứ gọi chúng ta là bá bá được rồi. Ta chỉ có thể cho cháu biết: xưa kia bố cháu đã ở dưới quyền chúng ta, chẳng may tuẫn quốc, vì vậy chúng ta có bổn phận thương yêu cháu như con.
Bà già hỏi Lý-Đoan:
– Ban nãy cháu nói rằng cháu rất thân với Khai-quốc vương, với vương phi. Vậy nay hai vị đó... hai vị đó có được khoẻ mạnh không?
Đến đây dường như bà muốn khóc vậy. Lý-Đoan nói thực:
– Quốc-phụ, Quốc-mẫu vẫn bình an. Khi anh em cháu lên đường bình Chiêm, hai vị có tiễn đưa chúng cháu, dạy dỗ đủ điều.
– Bình Chiêm? Quân Đại-Việt lại đánh Chiêm nữa đấy à?
Bà già sửng sốt: Ai làm nguyên soái? Tại sao các cháu còn nhỏ mà đã xung quân? Các cháu thuộc đạo binh nào?
Trần-Ninh đáp thực:
– Thưa bá mẫu, anh em chúng cháu học được thuật chỉ huy thú của Bắc-biên, tình nguyện xung quân đánh giặc, chứ triều đình không hề bắt buộc. Nguyên soái bình Chiêm là Thái-bảo Lý-hường-Kiệt. Cháu thuộc đạo binh của Trung-thành vương.
Mặt người đàn bà đang căng thẳng lập tức đổi ra nhu mì, nét ửng hồng hiện trên đôi má bà. Bà nhìn lên trên nóc hang như tưởng nhớ điều gì xa xưa. Lão ông hỏi:
– Trung-thành vương là ai vậy?
– Vương có tên là Lý Hoằng-Chân, hoàng trưởng tử của Quốc-phụ.
Lão bà nói với lão ông:
– Ông muốn sao thì muốn, tôi phải xuất động ra giúp Trung-thành vương một chuyến cho trọn tình trọn nghĩa. Dù sao nó cũng là em mình.
Lý-Đoan vờ hỏi, để khai thác bí mật của cặp vợ chồng quái nhân:
– Hai vị lão bá là chỗ thế nào với Quốc-phụ, Quốc-mẫu?
Lão già cúi mặt xuống đáp rất ôn nhu, tay chỉ vào lão bà:
– Đây là vợ của ta. Ông nhạc ta là sư đệ của Khai-quốc vương. Hồi niên thiếu, vợ ta được Khai-quốc vương với vương phi thương mến như con gái. Người định hỏi vợ ta cho nghĩa tử của người là Lý Thường-Kiệt. Nhưng sau... nhưng sau sư huynh Thường-Kiệt bị kẻ gian ám hại, người lại gả vợ ta cho ta.
Nghe lão già kể, Lý-Đoan, Trần-Ninh bật lên tiếng kêu lớn:
--Như vậy lão bá là Nùng Trí-Cao, là Nhân-huệ hoàng đế nức danh Hoa-Việt thời trước sao?
Lão già gật đầu:
– Kiến thức các cháu rộng lắm nhỉ?
Lý-Đoan nhìn người đàn bà:
– Còn bá mẫu, dường như bá mẫu nhũ danh là Tạ Thuần-Khanh, trưởng nữ của Phụ-quốc thượng tướng quân, tước phong Kiểm hiệu thái phó, Cổ-loa quốc công sao?
– Sao cháu biết?
– Dạ, chúng cháu nghe Quốc-phụ, Quốc-mẫu kể chuyện hai vị hoài, nhất là công nghiệp hai vị được chép trong « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự ». Nếu đúng như vậy, thì năm nay hai lão bá tuổi khoảng năm mươi hơn là cùng, mà sao tóc đã bạc hết rồi, trong khi khuôn mặt lại như người mới ba mươi? Sách Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự chép rằng: sau khi bị Địch-Thanh đánh bại, hai lão bá trốn sang Đại-lý rồi qua đời ở đó, nên... nên... vạn vạn lần cháu cũng không ngờ hai lão bá ở đây.
Trần-Ninh nói với Lý-Đoan:
– Hèn chi, hai lão bá biết sai chim ưng, sai sói, phục hổ. Thì ra hai lão bá đã từng chỉ huy thú rừng ở nước Đại-Nam hồi trước.
Ghi chú:
Sự việc Lý-thường-Kiệt đính hôn với Tạ Thuần-Khanh, giữa lúc sắp làm đám cưới, thì Thường-Kiệt bị gian nhân đánh thuốc mê rồi đem thiến. Cho đến nay cũng chưa tìm ra manh mối thủ phạm, dù gần ba chục năm qua. Sau đó Thuần-Khanh được gả cho Nùng-trí-Cao. Khai-Quốc vương suất lĩnh tám vùng tộc Việt đánh chiếm lại vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, cho Trí-Cao làm vua, xưng nước là Đại-Nam, hiệu Nhân-huệ hoàng đế v.v. Những sự kiện đó được thuật trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ, gồm 4 quyển, do Xuân-thu Hoa-kỳ xuất bản 1994.
Nùng-trí-Cao thở dài:
– Sau khi thất bại, ta bỏ vùng Bắc, trốn vào đây cùng mấy người thân tín. Bọn thủ hạ của ta, kẻ thì lập ra gánh hát ảo thuật, người lập ra đội mãi võ. Riêng chúng ta, chúng ta giả làm vợ chồng thợ săn để tránh con mắt dòm ngó của người Tống. Chúng ta chẳng lý gì đến sự đời. Thành ra tình hình Tống, tình hình Việt, tình hình Chiêm ra sao, ta tuyệt không biết. Cháu có thể kể cho ta nghe được không?
Lý-Đoan tóm tắt tất cả những cuộc tiến binh của vua bà Bình-Dương, phò mã Thân-thiệu-Thái hồi mười năm trước (1059) ra sao, rồi tiếp đến họ Dương chuyên quyền bị Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn hòa thượng xử như thế nào, việc Ỷ-Lan nhập cung... cho đến ngày Nam chinh. Bên Tống thì việc Nhân-tông, Anh-tông băng, từ khi Hy-ninh hoàng đế lên ngôi, trọng dụng Vương-an-Thạch cải tổ pháp chế... Nhất nhất nó tóm lược cho vợ chồng Nùng-trí-Cao nghe.
Sau Lý-Đoan, Trần-Ninh lại thuật chi tiết cuộc bình Chiêm. Cuối cùng nó kết luận:
– Nghe ngôn từ của bá phụ, thì dường như bá phụ cực kỳ hiếu kính Quốc-phụ, Quốc-mẫu, mà không bằng lòng vua Thái-tông với đương kim thiên tử thì phải? Cháu e trung gian bên trong có gì bất thường. Bá phụ có thể cho cháu biết được không?
Trí-Cao nghiến răng kèn kẹt vào nhau:
– Cháu lầm rồi! Ta không có điều gì bất mãn với Nhật-Tông, vì ta với hắn biết nhau, có ơn với nhau trong vụ án Bắc-ngạn. Nhưng ta căm hận tên Phật-Mã. Tại sao? Vì anh hùng võ lâm tám vùng tộc Việt cùng mưu đòi lại cố thổ hời vua Hùng, vua An-Dương vương. Nhưng y thì chí quá nhỏ, nên y không muốn. Cuộc Bắc chinh chiếm lại lưỡng Quảng sở dĩ có là do Khai-Quốc vương với võ lâm. Phật-Mã bất đắc dĩ phải nhắm mắt để cho vương với chúng ta làm. Thảng hoặc thất bại, thì y đổ thừa cho vương. Còn thành công thì y hưởng.
Nói đến đây Trí-Cao nhổ nước bọt đến toẹt một cái:
– Cứ mỗi lần nói đến tên Phật-Mã là ta lợm giọng. Trong vụ Bắc chinh, y vừa đéo vừa run, vừa sướng vừa hét. Thực là trò đéo mèo. Y ngồi trên ngai vàng, luôn khệnh khạng, điệu bộ, kiêu căng, kiểu cách mà chả có tài con mẹ gì cả. Thu phục nhân tâm, giữ gìn mở rộng biên cương là Khai-Quốc vương. Bình Chiêm là sư thúc Tôn-Đản Cẩm-Thi. Bắc chinh là tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương. Còn y ư? Y chỉ biết cái « lộ phồ » con gái họ Dương. Y chui đầu vào cái lỗ đó rồi thành u mê, để đến nỗi thằng bố nó bắt giam thái-tử, định dâng nước cho Tống, mà cũng ù ù cạc cạc.
Nói đến đây mặt Trí-Cao đỏ gay, y nghiến răng:
– Cho đến khi chiếm lại được lưỡng Quảng, ta lên ngôi vua. Nước của ta lớn ngang với Đại-lý, Xiêm-la, nhỏ hơn Đại-Việt một chút, thế mà y dám sai sứ lên bắt ta quy phục. Con bà nó, quy phục cái « củ thìu » ông đây này. Ta bèn sai sứ về xin quy phục Khai-Quốc vương, và không thèm đáp lễ y.
Trí-Cao đưa mắt nhìn lên nóc hang, như nhớ lại chuyện xưa:
– Khi khởi binh, y đồng ý rằng tám vùng tộc Việt liên kết trong thế môi hở răng lạnh. Nếu Tống đánh một nước, thì bẩy nước kia cùng khởi binh. Thế nhưng sau khi ta lên ngôi vua, Tống sai bọn Địch-Thanh sang đánh ta. Ta loan báo cho bẩy nước khởi binh. Y...y... không những lờ đi, mà còn cản trở Xiêm-la, Lão-qua, Đại-lý đem quân giúp ta. Vì vậy ta thất bại, rồi vùng đất lưỡng Quảng lại thuộc về Tống. Cho đến nay y chết rồi, mà ta còn căm hờn y.
Tạ-thuần-Khanh an ủi chồng:
– Nay sự đã rồi, vua Thái-tông băng hà cũng lâu. Người làm vua là Nhật-tông chẳng từng có ơn với anh đó sao? Thường-Kiệt chẳng là sư huynh của anh đó sao? Nay hai người đó đem quân bình Chiêm, anh nên xuất động ra giúp cố nhân một phen.
Nghe đến Thường-Kiệt, Nhật-tông, mặt Nùng-trí-Cao hiện ra nét nhu mì, hiền hậu. Ông vỗ vai Lý-Đoan:
– Bọn cháu là hiện thân của sư thúc Tôn-Đản, Tự-Mai, Lê-Văn xưa. Ta yêu các cháu lắm. Được, ta vì phu nhân mà xuất động phen này. Ta sẽ trợ giúp các cháu.
Ông hỏi Trần-Ninh:
– Bọn cháu còn mấy đứa ở ngoài phải không? Để ta gọi chúng vào.
Ông tru lên mấy tiếng như tiếng sói, lập tức mười con sói đứng nhổm dậy gật đầu hành lễ rồi ra khỏi hang. Lát sau chúng dẫn Phạm-Dật, Hoàng-Nghi cùng bọn Kim-Liên, Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương vào. Sáu người ngơ ngơ ngác ngác như xẩm vào đám, không hiểu gì cả. Lý-Đoan phải tóm lược sự kiện đã xẩy ra trong hang, rồi giới thiệu hai bên.
Hoàng-Nghi là con mọt sách, hồi ở Thăng-long nó đã đọc đến thuộc làu bộ « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự », trong lòng nó cực kỳ kính trọng Nùng-trí-Cao, nay gặp ông, không giữ được cảm động, nó nắm lấy tay ông:
– Thưa bá phụ, cháu nghe trong các quan của triều đình Đại-Nam, có danh sĩ Phạm Đình-Huy, Phạm Văn-Nhân đều xuất thân bần hàn mà thành danh. Lại còn Đặng-vũ Nùng nổi tiếng Nam-phương túy ông, uống rượu không bao giờ biết say, nhưng gan lỳ cóc tía; Hồ Liên-Biện người nhỏ như Án-Anh của nước Tề, mà học thức thực bao la; Đinh Nho-Quan nguyên là cháu bốn đời vua Đinh thuộc giòng Nam-Việt vương Đinh-Liễn, làm chức Kiểm-hiệu tư-không của Đại-Nam. Không biết nay các vị ấy ra sao? Còn tại thế hay đã quy tiên?
– Những người ấy của ta thì chết thế chó nào được? Ta có chết thì họ mới có thể chết. Ta còn sống thi trăm mưu, nghìn kế ta phải cứu họ chứ! Tuy thua Địch-Thanh, sự nghiệp tan nát, nhưng ta đâu có bỏ nghĩa? Những người ấy bị Tống bắt giam. Ta chờ Địch-Thanh đưa họ về Biện-kinh hành tội, rồi nhờ sư phụ là tiên-nương Bảo-Hòa gửi sang hơn mười cao thủ phái Tản-viên, chúng ta đón đường giải thoát cho bọn bộ hạ, rồi cùng nhau vào tận cùng đất Chiêm là Pandurango ẩn thân. Những người ấy với vợ con hiện đều ở Pandurango cả.
Ghi chú,
Các bộ sử như: Tống-sử, Đại-Việt sử lý toàn thư, Việt-sử lược đều chép về cái chết của Nùng-trí-Cao rất lờ mờ. Sách thì nói Trí-Cao chết tại trận. Sách thì nói Trí-Cao chạy vào Đại-lý rồi chết ở đó.
Nhưng Quách-thị Nam-chinh và Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, chép như sau: Tháng giêng niên hiệu Sùng-hưng đại-bảo (1053) đời vua Lý Thái-tông, bênTrung-hoa là niên hiệu Hoàng-hữu thứ năm đời vua Tống Nhân-tông, Địch-Thanh đem đại quân, cùng chư tướng thiện chiến đang chống nhau với Tây-hạ xuống đánh nước Đai-Nam (Nùng-trí-Cao). Tư-mã Đại-Nam hiến kế rằng: quân của Thanh đa số là quân kị. Mà quân kị thì chỉ lợi hại ở đồng bằng, mà vô dụng ở rừng núi, vậy nên đem quân chặn Thanh ở ải Côn-lôn, là vùng rừng núi, không cho quân Tống xuống đồng bằng tiếp cứu Tân-châu, Ung-châu. Nhưng Nhân-huệ hoàng-đế Nùng-Trí-Cao không dám tung hết quân ra ngay, vì nếu tung hết quân ra thì để hở phía sau, là điều cấm kị của việc hành quân; ông có ý chờ quân Lý tiếp cứu. Vì ông trì nghi chậm mất một ngày, nên Địch-Thanh đã đem quân vượt qua Côn-lôn. Bất đắc dĩ ông phải xuất quân, vì vậy trận đánh ở Qui-nhân phố diễn ra, bộ binh của Đại-Nam bị kị binh Tống phá tan.
Sau khi bại trận, Nhân-huệ đế Trí-Cao đem tàn quân về đóng ở Đặc-ma (nay là Vân-Nam) chuẩn bị trởlại tái chiếm Ung-châu. Một mặt ông sai bộ hạ là Nùng Hạ-Thành thủ lãnh Đặc-ma mua thực nhiều ngựa, thao luyện kị-binh; một mặt sai Tư-đồ sang Đại-lý, Tư-không sang Xiêm-la, Lễ-bộ thượng thư Lương-Châu về Thăng-long...Xin các nơi cùng khởi binh tiếp cứu. Vua Lý Thái-Tông sai Tả-kim ngô lãnh vệ thượng tướng quân là Dương-Bình, giả xưng là Vũ-Nhĩ đem năm hiệu Thiên-tử binh lên Bắc-biên, ý định giúp Đại-Nam. Nhưng bấy giờ Khai-Quốc vương vắng nhà, tể tướng Dương Đức-Thành bàn rằng: Thế của Trí-Cao đã tàn, chẳng nên giúp y nữa, e gây thù với Tống. Vua Thái-tông nghe lời Thành, ra lệnh cho Dương Bình ngừng tiến quân. Đại-lý, Xiêm-la thấy Đại-Việt không tiếp cứu Đại-Nam, cũng không tiến binh.
Các bộ Tống-sử, Việt-sử lược chép rằng hai năm sau Dư-Tĩnh tiến quân vào Đặc-ma bắt được mẹ, em và con Trí-Cao. Còn Trí-Cao trốn vào Đại-lý rồi chết ở đó. Sự kiện này rất mơ hồ. Tôi cứ phân vân từ thời con thơ, mãi cho đến thời gian 1977-1992 mới tìm được ánh sáng sự thực. Thời gian đó, trong những lần hướng dẫn phái đoàn Pháp sang Trung-quốc nghiên cứu, trao đổi y-học, tôi lần mò vào các thư viện, viện bảo tàng văn hóa, viện văn học địa phương vùng Quảng-Tây, Vân-Nam, tìm được hai bộ Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thịchinh tiễu Giao-chỉ ký. Tôi cũng đọc hầu hết các bia đá, mộ chí (chép in thành sách), các bộ phổ, các bản xã chí, động-chí, tộc chí, tôi tìm ra sự thực. Tám trong ba mươi ba cuốn gia phả; bốn trong hơn trăm bia đá; chín trong tám mươi tư mộ chí, mười một trong hơn trăm xã-chí, động-chí, châu-chí, tộc-chí.. đã chép sự kiện giống nhau: Nhân-huệ hoàng-đế Nùng Trí-Cao, cùng hoàng hậu, tư mã, tư đồ, tư không, thái úy, tể tướng »di giá» vào Chiêm-thành lập nghiệp. Khi Đại-Việt bình Chiêm, đã giúp vua Lý bắt Chế-Củ. Những người này, sau là thủy tổ của giòng giống: mắt đen, tóc bóng, da trắng tại Chiêm. Khác hẳn với giống Mã-lị-á mắt sâu, da ngăm đen, tóc hơi quăn, vốn là dân bản sứ. Như vậy người Việt ở vùng Nam Hải-vân tới Phan-rang hiện nay hầu hết là con cháu di thần nước Đại-Nam?
Chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới biết rõ sự kiện lịch sử này.
Trí-Cao vừa nói, vừa nhìn Hoàng-Nghi chăm chú, đôi khi lông mày nhíu lại tỏ vẻ suy nghĩ. Hoàng-Nghi thấy có sự lạ, nó hỏi:
– Thưa bá phụ, không biết bá phụ có điều gì khó xử không mà đăm chiêu, bối rối trong lòng?
– Thoạt mới nhìn cháu, ta thấy một tình cảm rất thân ái, rất quen thuộc, nhưng ta không hiểu tại sao? Bây giờ ta mới tìm ra rằng cháu rất giống một người thân của ta. Giống đến như hai giọt nước vậy.
– Thưa vị đó là ai?
Nùng-trí-Cao không trả lời Hoàng-Nghi mà hỏi vợ:
– Em có thấy nó giống y không?
– Giống! Giống nhau quá.
Bà hỏi Hoàng-Nghi: cháu có người bác, người chú nào tên là Đinh Tùng không?
Từ nhỏ Hoàng-Nghi có mối hận canh cánh bên lòng vì không rõ bố mẹ là ai. Nó chỉ biết về gốc gác qua lời thuật của sư cụ Viên-Chiếu rằng: một đêm nọ, có kỵ mã bị thương đầy người, lưng địu đứa trẻ đến chùa. Sư cụ băng bó, điều trị cho y. Sau hai ngày, y xin gửi đứa trẻ lại nhờ sư cụ nuôi dùm, rồi bỏ đi. Vì vậy bây giờ Thuần-Khanh hỏi nó về gia thế, nó xịu mặt xuống, rồi thuật cho bà nghe. Cuối cùng nó kết luận:
– Cái tên Hoàng-Nghi là do sư cụ đặt cho cháu.
Trí-Cao vỗ lưng Hoàng-Nghi:
– Anh hùng đâu quản xuất thân? Ta nói cho cháu biết, ta có một người thân cách nay ba chục năm, mà từ khuôn mặt cho đến cử chỉ, tiếng nói đều giống cháu như hai giọt nước vậy. Thôi bỏ chuyện đó đi. Bây giờ ta sẽ dùng người của ta giúp cháu đánh Pandurango.
Nghe Trí-Cao nói, Hoàng-Nghi mừng muốn chảy nước mắt ra được. Bởi Long-biên ngũ hùng muốn lập kỳ công là đánh úp Pandurango, nhưng nó chưa tìm ra kế. Nay nghe nói, những đại thần triều Nhân-huệ đều kiều ngụ ở đấy, thì hẳn đường đi, nước bước phải thông thạo lắm. Nếu họ giúp thì việc bắt Chế-Củ không khó. Nó có thể nhờ vả họ qua Trí-Cao.
Nùng-trí-Cao là một thứ anh hùng thảo khấu, từng thành công, từng thất bại, nên mỗi sự việc xẩy ra, ông chỉ liếc qua là biết liền. Nghe Hoàng-Nghi hỏi, nhìn nét mặt nó, ông biết ngay nó muốn gì. Ông vỗ vai nó:
– Có phải trong quân của Nhật-tông hiện có hai khuynh hướng; một khuynh hướng muốn rút quân về; một khuynh hướng muốn đánh đến cùng... các cháu thuộc khuynh hướng thứ nhì phải không?
Bọn Phạm-Dật cúi đầu:
– Quả như lời bá phụ dạy.
– Nhưng hiện quân trải ra quá rộng, nên không đủ quân số đánh tới Pandurango. Các cháu tình nguyện đánh vùng này, mà gặp trở ngại về địa thế, về tình hình địch, về quân số. Có đúng thế không?
– Dạ.
Trí-Cao chỉ vào Hoàng-Nghi:
– Mưu trí như cháu mà đành bó tay sao?
Hoàng-Nghi lắc đầu:
– Hôm rồi bọn cháu đang đuổi theo Chế-Củ thì bị Nguyễn Nhược-Điểu dùng quân số đông gấp mười, giữa đêm tấn công thiếu chút nữa chúng cháu bỏ mạng. Bọn cháu phải lợi dụng đêm tối trốn sang Lão-qua, đi đường Tây Trường-sơn, rồi đột nhập vào đây. Chúng cháu định hội với đạo quân của Dư-Phi, rồi đánh Pandurango. Nhưng Dư tướng quân chỉ có hai đạo Lam-kỳ, Xích-kỳ quá ít, mà binh sĩ toàn là binh sĩ Chiêm đầu hàng, vì vậy chúng cháu nghĩ chưa ra kế.
Thuần-Khanh mỉm cười, bà nắm lấy tay Kim-Loan:
– Ta nghĩ, trường hợp này phải mạo hiểm, đánh táo bạo mới thành công. Vậy ta đề nghị: các cháu phải giả làm người Chàm, rồi thình lình kiềm chế Chế-Củ với cung quyến của y, bắt y ra lệnh cho binh tướng đầu hàng. Như thế thì mới thành công. Được, trước tiên ta dò thám quân tình Chế-Củ đã.
Bà moi trong hốc đá ra nào bút, nào mực, rồi viết một lúc mười lá thư. Bà trao cho Lý-Đoan:
– Cháu trao sai chim ưng mang đi những nơi này...nơi này... ở đó toàn là người của ta. Họ cũng biết chỉ huy chim ưng. Nhận được thư họ sẽ phúc đáp tình hình Chiêm. Bấy giờ chúng ta mới có thể thiết kế.
Lý-Đoan mang thư ra ngoài, sai Ưng-binh chuyển đi.
Trời dần sáng.
Đến trưa thì cả mười chim ưng đều mang thư về. Lý-Đoan mở ra trình cho Trí-Cao. Trí-Cao đọc một lượt rồi cười:
– À, ta có đủ tin tức rồi đây, chuyến này chúng ta mạo hiểm một lần cho bọn Tống nể mặt.
Trí-Cao đưa ra hai phong thư:
– Thư của Phạm Đình-Huy cho biết Tống đã can thiệp vào chiến cuộc Chiêm-Việt. Dường như chúng đoán được ý định của Đại-Việt, chúng thành lập một đội cảm tử binh gửi vào giúp Chiêm. Hy-Ninh đế ban chỉ ân xá cho bọn du thủ, du thực, bọn trộm cướp giết người không gớm tay. Bọn này võ công cực cao, lại can đảm, đặt dưới quyền hai danh tướng Yên-Đạt, Tu-Kỷ. Mục đích của Tống là bảo vệ Chế-Củ lẩn trốn vào dân chúng, hầu hô hào kháng chiến, cần vương; kéo dài cuộc chiến. Chúng dùng thuyền đổ vào bờ biển cực Nam Chiêm. Bọn này hiện đang ở Pandurango. Trong khi Chế-Củ để hết binh tướng lại Nỏng-khà; y với triều đình, cung quyến vượt Trưởng-sơn, đang ở đèo Rundari rất gần đây. Phía Nam Rundari là thành Phong-sa-trang. Không chừng y sẽ tới nghỉ ở thành này, rồi đi Pandurango. Thành Phong-sa-trang chỉ có hơn nghìn quân đồn trú, trong khi tại Pandurango có trọng binh trấn thủ. Vậy ta phải bắt y ở Phong-sa-trang. Chứ nếu để y đi Pandurango thì khó mà đánh được.
Hoàng-Nghi nhảy phắt lên:
– Thực là trời giúp chúng ta!
Trí-Cao bật cười:
– Cháu định sao?
– Cháu nghĩ, Chế-Củ muôn nghìn lần không ngờ bọn cháu dám đột nhập vào vùng Rundari, nên y để quân lại trấn thủ mặt Bắc là Nỏng-khà. Còn mặt Nam y có đại quân ở Pandurango. Bây giờ quanh y chỉ có đội thị-vệ với cung quyến. Ta mạo hiểm đánh chớp nhoáng bắt sống y, rồi dí dao vào cổ bắt y ra lệnh đầu hàng, thế là mọi chuyện êm.
Lý thì như thế, nhưng chúng ta cũng phải nghĩ đến trường hợp có biến, vì: tướng trấn thủ Pandurango là Thâm Phúc-Dũng, Phan Vũ-Tỉnh tham vọng không vừa. Tuy chúng là người Việt, nhưng lại mang tên Chiêm. Từ lâu chúng cũng ngấp nghé ngôi vua Chiêm. Nếu bây giờ nghe tin Chế-Củ bị bắt, chúng có thể hô hào binh tướng hy sinh tính mệnh, đánh ta để cứu chúa; dù ta có kề gươm vào cổ Chế, Chế ra lệnh cho chúng buông vũ khí, chúng cũng không buông. Nếu ta giết Chế, thì là điều chúng mong mỏi, để chúng có chính nghĩa lên làm vua thay Chế.
Trí-Cao suy nghĩ một lúc, rồi nói với vợ:
– Bây giờ thế này: phía Nam Rundari là thị trấn Phong-sa-trang, ở đó có gánh ảo thuật của Đặng-vũ Nùng, đội mãi võ của Phạm Văn-Nhân. Ta viết thư cho họ, để họ đem xe đến khu rừng cạnh đèo Rundari chờ ta. Thuần-Khanh dẫn Phạm-Dật Kim-Liên, Lý-Đoan Ngọc-Liên, Trần-Ninh Ngọc-Hương đem theo mấy chục hổ, mấy chục giả làm nhân viên đoàn ảo thuật. Còn ta với Hoàng-Nghi mang đội võ sĩ Long-biên với đội thú đợi Dư-Phi còn phục ở ngoài thành Phong-sa-trang. Chờ khi Chế-Củ tới Phong-sa-trang, trong đêm, Khanh muội với đám trẻ tung thú, người đánh quân canh, mở cửa cho chúng ta vào. Như thế ắt ta bắt được Chế-Củ. Thôi chúng ta xuất động.
Trí-Cao hô lên một tiếng, đôi cọp, đội sói đứng dổ dậy, chúng rời khỏi hang. Trong khi Thuần-Khanh lấy ra ba cái túi nhỏ, một cái mầu đỏ, một cái mầu vàng, một cái mầu xanh. Bà mở miệng túi ra ném xuống đất, rồi cầm một ống tre thổi lên điệu nhạc du dương. Mấy con trăn chui vào trong cái túi đỏ, trong khi những con rắn lớn chui vào trong cái túi mầu vàng, còn mấy con rắn nhỏ thì chui vào cái túi mầu xanh. Trí-Cao cầm đòn gánh xỏ vào quai ba cái túi, rồi trao cho Trần-Ninh:
– Ta cho cháu đấy.
Trần-Ninh tuy ớn da gà, nhưng nó phải làm gan, tay đỡ đòn gánh, quảy ba túi rắn đi theo Trí-Cao.
Vừa tới chỗ đóng quân, thì có chim ưng mang thư tới. Phạm-Dật mở ra coi, thì là lệnh của Trung-thành vương:
«... Đại quân phá vỡ phòng tuyền trên bến Thi-nại, đã đổ bộ xong. Trận chiến diễn ra kinh hồn táng đởm. Giữa lúc đại quân Việt, Chiêm dằng co xung sát, thì có tin báo Trần-đông-Thiên với Tây-hồ thất kiệt đánh được hai đồn bên Tây-ngạn sông Tu-mao. Mặt trận Chiêm bị vỡ. Các đồn Chiêm từ Thi-nại tới Tu-mao, đều ra hàng. Trong trận này quân sư Tôn-Đản, quan tổng lĩnh thị vệ Đỗ-Oanh, đô-đốc Hoàng-Kiện, Trần-Lâm đều bị trúng tên thương tích khá nặng. Lê-Lưu tức Bố-bì Đà-na bị sư thúc Ngô-cẩm-Thi giết chết. Về trận chiến ở Bồng-sa, sau khi các sư đệ rút đi, Nguyễn-nhược-Điểu đem quân đuổi theo định tiêu diệt, ta lệnh cho hai hiệu Quảng-vũ, Bổng-nhật chặn đường. Trận chiến diễn ra thực khủng khiếp. Đô-thống Lưu-trọng-Kiệt, Trần-lam-Thanh đều tử thương. Hãy cố gắng hoàn thành sứ mạng... »
Một lát lại có chim ưng mang thư của nguyên soái Thường-Kiệt tới:
«... Hoàng-thượng cùng đại quân tiến về Đồ-bàn. Đích thân ta với Thường-Hiến, Nguyễn-An mang hạm đội Động-đình đổ bộ Pandurango. Sư thúc Tôn-Đản, Cẩm-Thi đem quân đánh Nỏng-khà. Bất cứ giá nào cũng phải bắt cho được Chế-Củ. Chờ tin lành của Long-biên ngũ hùng... »
Bấy giờ là tháng tư, niên hiệu Thiên-huống Bảo-tượng thứ ba đời vua Thánh-tông nhà Lý của nước Đại-Việt (1069). Từ hơn nửa tháng nay rồi, dân chúng thành Phong-sa-trang (nay là tỉnh lỵ Nha-trang), dân chúng Chàm náo loạn về tin đại quân Việt đã chiếm xong Thi-nại, Tu-mao, Đồ-bàn, nhà vua Chế-Củ cùng cung quyến bỏ Đồ-bàn rút lui, nhưng không biết hiện nay ra sao? Đang ở đâu? Viên quan trấn thủ tên Chế-đa-Mạc là người trong hoàng tộc vội sai quân đem loa đi trấn an dân chúng rằng: đức vua hiện đang ở một nơi an toàn để lãnh đạo cuộc cần vương chống bọn Việt xâm lăng.
Giữa cái không khí ồn ào, hốt hoảng đó, không hiểu sao chẳng hẹn mà đoàn mãi võ xứ Quảng-Đông của Phạm-thúc-Tề, đoàn ảo thuật xứ Triều-châu của Đặng-túy-Ông lại từ Pandurango tới để trình diễn. Trong những lần trước, khi đoàn ảo thuật tới, thì đoàn mãi võ ra đi, như vậy để khỏi bị cái cảnh tranh khách của nhau, rồi đưa đến hàng thịt ngúyt hàng cá. Nhưng lần này hai đoàn hợp làm một cùng trình diễn, mà giá tiền vào cửa vẫn như cũ.
Hai người trưởng đoàn đều là Hoa-kiều, sang Chiêm lập nghiệp đã lâu, nói tiếng Chàm như người chàm. Cả hai đều là những người văn hay, chữ tốt, kiến thức bao la, lại nổi tiếng hào hoa, chi tiêu rộng rãi, giao du với hầu hết quan chức. Cho nên lần này đến Phong-sa-trang, hai người được dành cho khu hội quân ngay cửa Bắc làm nơi trình diễn. Xung quanh khu vực được rào bằng mấy cái cọc chăng dây. Ai có tiền thì được vào trong, ai không có tiền thì đứng ở ngoài mà nhìn xa xa vậy. Hôm nay hai đoàn trình diễn nhiều màn thực hấp dẫn: nào khỉ đánh võ, cọp đi trên thang dây. Dân chúng tạm quên đi cái kinh hoàng, kéo đến xem. Người người chen nhau, đến nỗi bít cả lối vào cổng Bắc thành. Đoàn ảo thuật đang diễn tới màn hấp dẫn nhất là dùng đội chó sói, đội cọp, đội voi múa theo điệu của xứ Lão-qua, thì một toán kị mã hơn mười người, bụi bám đầy y phục từ ngoài thành phi vào như bay. Tới dinh tổng trấn, toán kỵ mã ngừng lại, xuống ngựa, vào trong. Không biết những gì đã diễn ra, nhưng lát sau một viên quan trong tòa tổng trấn đến gặp trưởng đoàn mãi võ, ban lệnh:
– Đoàn phải di chuyển sang phía Nam thành trình diễn, bởi sắp có đại quan tới, mà dân chúng đứng xem nghẽn mất lối đi.
Sau khi nhận lệnh, Phạm-thúc-Tề vội lên đài cung tay hướng khán giả xin lỗi phải tạm ngừng trình diễn để di chuyển tới cửa Nam thành, và hẹn tối sẽ có những màn xuất sắc khác.
Thế rồi đoàn mãi võ, ảo thuật phải gỡ sân khấu, thu dọn, đánh xe tới cửa Nam. Dân chúng tản đi khắp nơi.
Lát sau, một đội thiết kị hơn trăm người từ phía Bắc rầm rập nhập thành. Vừa vào trong thành, đội thiết kị dàn ra xung quanh dinh tổng trấn. Tiếp theo tới đội thị-vệ tiền hô, hậu ủng hơn trăm cỗ xe. Trên xe nào đàn bà, nào trẻ con, quần áo quý phái, ngọc ngà vàng bạc đeo đầy người. Dân chúng đứng ven đường thì thầm bàn tán, chỉ chỏ, nhưng họ không biết xe đó chở những vị phu nhân nào? Những công tử, tiểu thư nào? Có người tinh ý nhận ra, nói nho nhỏ:
– Xiêm y của mấy bà thế kia, thì đích thị là hoàng hậu, phi tần rồi. Vậy chắc đây là xa giá đức vua cùng cung quyến rút từ Đồ-bàn trở về chứ không sai đâu!
Tin này lan truyền thực mau, chỉ hơn giờ dân chúng khắp Phong-sa-trang đều biết đức vua cùng cung quyến đang ở trong thành. Tại cửa Nam, trưởng đoàn mãi võ đang cùng nhân viên dựng sân khấu, thì một thị-vệ tới hỏi:
– Có phải ông là Phạm Thúc-Tề không?
– Thưa vâng.
– Quan tổng trấn mời ông vào dinh có việc khẩn.
– Xin tuân lệnh.
Phạm Thúc-Tề trang phục như nho sĩ Trung-quốc rồi vào dinh tổng trấn. Viên tổng trấn Chế-đa-Mạc ra đón khách. Lễ tất, Đa-Mạc nói nhỏ:
– Ông có nghe biết quan đại-tư-đồ Lục-Đình không?
– Dạ thưa biết chứ, dường như người cũng là Hoa-kiều như tôi. Từ sau khi tể tướng Lục-chương-Anh hiện nguyên hình là ma đầu Vũ-chương-Hào rồi phản triều đình... thì quan đại tư-đồ kiêm luôn chức tể-tướng thì phải?
– Đúng thế, đức vua cùng với tể tướng Lục-Đình hiện ở trong thành này. Tể tướng có việc muốn thương lượng với tiên sinh. Mời tiên sinh vào.
Đa-Mạc dẫn Thúc-Tề sang phòng bên cạnh, một người tóc bạc như cước trong y phục đại thần ra đón khách. Biết đây là tể tướng, Thúc-Tề cung tay:
– Hoa dân Phạm Thúc-Tề xin tham kiến đại quan.
Lục-Đình xua tay, y nói bằng tiếng Quảng:
– Lão phu vốn người Quảng như tiên sinh, sang kiều ngụ ở Chiêm. May được hoàng thượng tin dùng cất nhắc mà có chút công danh. Từ lâu, lão phu nghe tiên sinh vốn người cùng quê, cũng có ý làm quen, nhưng đường từ Đồ-bàn vào Pandurango hiểm trở, xa diệu vợi nên chưa có dịp. Hôm nay được tin tiên sinh lưu diễn tại đây, nên mạo muội mời tiên sinh vào uống chung trà, trước đàm đạo quốc sự, sau thỏa tình đồng hương.
Thế rồi hai người nói chuyện về xứ Quảng-Đông... từ những danh nhân từng vùng, tới thổ sản, phong tục, cuối cùng là thơ văn. Lục-Đình vốn là tiến sĩ xuất thân, nức tiếng văn chương, bác học một thời. Thế mà khi ông ta đàm đạo với Phạm Thúc-Tề, ông nhận thấy Thúc-Tề quả là nhân vật xuất chúng. Nhưng khi bàn về chính sự, thì Lục mới bật ngửa ra rằng Phạm không biết gì về thời cuộc Tống, Việt, Chiêm.
Lục nghĩ thầm:
– Người này kiến thức bao la, lưu diễn khắp Chân-lạp, Lão-qua, Chiêm, thì hẳn phải biet rõ tình hình các nơi chứ, có đâu mù tịt. Không chừng y giả bộ cũng nên.
Cuối cùng Lục-Đình khẩn khoản nói với Thúc-Tề:
– Tôi mời tiên-sinh vào đây để chúng ta cùng đàm đạo về quê hương. Sau một lúc luận bàn, tôi nhận thấy tiên sinh quả là người có tấc lòng với xã tắc, vì vậy tôi xin đem tim gan ra để nói với tiên sinh.
Lục bưng chung trà mời Phạm. Phạm cạn hết chung trà rồi, Lục tiếp:
– Tôi xuất thân tiến-sĩ, được làm việc tại Khu-mật viện dưới thời vua Nhân-tông. Rồi nhờ công lao tôi được bổ về đồng trấn Quảng-châu. Vì tôi chủ trương đánh chiếm Đại-Việt, nên bị Ưng-sơn song hiệp kết án tử hình. May thay, giữa lúc đó Nùng-trí-Cao làm loạn chiếm Lưỡng-Quảng, tôi cùng gia đình lấy thuyền sang kiều ngụ ở Chiêm, mở trường dạy học. Sau Nùng-trí-Cao bị phá, triều đình cho tìm tôi về phục chức. Nhưng Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai vẫn còn có, tôi không dám trở về cố quốc nữa. Vua Nhân-tông thương tình phong cho tôi làm kiểm-hiệu thái-phó, trấn Nam thượng tướng quân, Việt quốc công, truyền cho tôi giúp triều đình Chiêm, biến Chiêm thành phên dậu của Tống, đánh sau lưng Đại-Việt.
Giọng lão trở lên nhỏ như tơ:
– Đấy là bề ngoài, chứ bề trong thì tôi được mật chỉ của Khu-mật viện rằng: sau khi quân tan, nước mất, thì Nùng-trí-Cao với bọn dư đảng chạy trốn vào đất Chiêm ẩn thân. Bổn phận tôi là phải tìm ra tung tích chúng, rồi dùng binh lực Chiêm trừ đi. Còn như dùng binh Chiêm không được, thì mật tấu về triều đình, để cử cao thủ sang giết chúng.
Lục ngừng lại, nhìn thẳng vào mặt Phạm:
– Triều đình ban chỉ cắt Nghệ-an phong cho Chiêm vương, rồi truyền Chiêm đem quân đánh Nghệ-an. Chiêm vương cùng tôi thượng biểu về triều rằng Chiêm không đủ sức đương đầu với Đại-Việt. Triều đình ban dụ hứa: nếu Đại-Việt đem quân đánh Chiêm, thì quân Lưỡng-Quảng sẽ đánh vào Đại-Việt ngay. Chính vì thế, mà Chiêm mới chuẩn bị đánh Nghệ-an. Không ngờ chúng tôi chưa kịp khởi binh, thì Đại-Việt biết được, mang quân đánh trước; mà quân Thiên-triều thì chưa rục rịch gì!
– Như vậy là triều đình thất hứa rồi!
Phạm Thúc-Tề chua chát: Tính ra đến nay Đại-Việt tiến binh sang đã hơn bốn tháng, mà quân triều vẫn chưa thấy động tĩnh, không biết tiểu nhân luận có đúng không?
– Không phải thế!
Lục-Đình giải thích: Khi quân Đại-Việt mới vượt biên, tôi đã tâu với Chiêm vương rằng ít ra mình phải cầm cự được sáu tháng, thì quân Thiên-triều mới có thể can thiệp. Vì đường từ đây về Biện-kinh, xa diệu vợi, mình sai sứ thượng biểu đi đường mất hai tháng. Triều đình ban chỉ cho kinh-lược sứ Lưỡng-Quảng cũng mất một tháng. Lưỡng-Quảng chỉnh bị binh mã mất ba tháng nữa. Nhưng... nhưng quân Đại-Việt đánh thần tốc quá, tính cho đến nay, mới ba tháng mà kinh đô Đồ-bàn đã thất thủ.
– Như vậy quân Thiên-triều có sang cũng vô ích thôi!
Thúc-Tề than dài, rồi bàn: tiểu nhân thấy từ trước đến nay mỗi lần quân Đại-Việt đánh Chiêm thì chỉ chiếm Đồ-bàn rồi bỏ về. Lần này chắc cũng thế.
– Tiên sinh luận sai rồi.
Lục-Đình lắc đầu, phân tích: Lần này quân Việt không chỉ chiếm Đồ-bàn, mà còn chiếm hết các quận huyện, tổ chức cai trị. Họ định đuổi bắt bằng được Chiêm vương. Cho nên tôi bàn với Chiêm vương rằng mình phải ban hịch cần vương, kêu gọi nhà nhà, người người nổi lên chống Việt. Mặt khác Chiêm vương ẩn thân, tổ chức kháng chiến, để chờ quân Thiên-triều nhập Việt, ắt quân Việt phải rút về giữ nước. Bấy giờ ta truy kích theo, chiếm lại phần đất mất. Cứu binh như cứu hỏa, trong lúc đại quân chưa ra, Hy-Ninh hoàng đế sai hai đại tướng là Yên-Đạt, Tu-Kỷ đem ba trăm võ sĩ thuộc loại giang hồ, cao thủ đi đường biển tới Pandurango, nội trong ba ngày nữa sẽ tới đây, mục đích bảo giá Chiêm vương ẩn vào dân chúng kháng chiến. Với ba trăm cao thủ này cùng đội thị vệ Chiêm theo hộ tống, thì quân Việt không thể nào hại được vương. Chỉ còn vấn đề sao cho cung quyến được an toàn.
Độ chừng Phạm Thúc-Tề không hiểu được ý mình, Lục-Đình tiếp:
– Người Việt ở Chiêm chiếm đến ba phần mười dân số. Hồng-thiết giáo quy tụ chúng theo Chiêm, nhưng nay quân Việt sang, họ lại phản Chiêm hướng về cố lý hết rồi. Người Hoa của ta cũng khá đông. Tôi có cho tổ chức họ thành đội ngũ. Người Việt hướng về đất tổ thì người Hoa cũng hướng về Trung-nguyên. Nay tôi trao tổ chức người Hoa cho tiên sinh để đối phó với quân Việt.
– Tể tướng trao cho tiểu nhân?
Thúc-Tề kinh ngạc: Tiểu nhân thì biết gì về quân sự?
– Không khó. Tiên sinh có hơn trăm đệ tử võ công cao cường, lại thêm Đặng-túy-Ông cũng có hơn trăm đệ tử nữa. Đoàn ảo thuật có nhiều thú dữ. Hai tiên sinh sẽ chỉ huy đội ngũ người Hoa, đệ tử đoàn mãi võ ảo thuật cùng thú dữ trấn thủ thành Phong-sa-trang, bảo vệ cung quyến. Còn tôi thì đem đội thị vệ, đoàn cao thủ Thiên-triều với Chiêm vương ẩn vào núi lưu động kháng chiến.
Phạm-thúc-Tề đứng dậy cung tay:
– Kẻ giang hồ này xin tuân lệnh Tể-tướng. Nhưng xin Tể-tướng ban cho một ơn huệ.
– Tiên sinh cần gì?
– Nguyên đám Hoa-kiều gốc Quảng của tiểu nhân có năm người kết bạn với nhau rất thân. Nếu như nay tiểu nhân lĩnh nhiệm vụ giữ thành Phong-sa-trang, thì xin cho tất cả năm người đều xuất mã hầu tể tướng.
– Được chứ! À, tôi thực hủ lậu, trong năm vị thì tiên sinh là một, Đặng Túy-Ông là hai. Vậy còn ba vị nữa là những vị nào?
– Năm đứa trong bọn tiểu nhân tự xưng là « Quảng-Đông ngũ cái ».
Lục-Đình lắc đầu:
– Các vị tiên sinh thực là người đạt nhân, khiêm khiêm quân tử. Rõ ràng các vị là những người học thức uyên thâm, kiến văn rộng rãi. Nếu các vị đi thi thì không đỗ trạng-nguyên cũng đỗ bảnh nhãn, thám hoa. Nhưng lại khiêm tốn xưng là năm người ăn mày vong quốc. Hà, vàng trong cát ai hay. Các vị hãy đổi tên là Quảng-Đông ngũ kiệt thì hơn. Thế năm vị là những vị nào?
– Thưa ngài, trong năm anh em tiểu nhân, thì người lớn tuổi nhất tên Phạm Bá-Di, tiểu nhân đứng thừ nhì. Thứ ba là Đặng Túy-Ông, thứ tư là Hồ Đơn-Á, thứ năm là Đinh Môn. Tất cả đều đang ở Phong-sa-trang.
– Vậy thì được rồi, tiên-sinh hãy ra bàn giao chức vụ tổng trấn Phong-sa-trang với Chế-đa-Mạc rồi điều động binh tướng, huynh đệ, gia thuộc. Còn Chế-đa-Mạc phải theo bảo giá Chiêm vương.
Đến đó quân hầu mang vào một cái hộp sơn son thiếp vàng, cung kính trao cho Lục-Đình:
– Trình đại nhân, có người đem cái hộp này tới, nói rằng của cố nhân gửi từ Trung-nguyên sang dâng tể-tướng.
Lục-Đình cau mày:
– Người đó đâu rồi?
– Y trao hộp xong, lại lên ngựa đi mất. Tuổi y vào khoảng ba chục.
Mặt Lục-Đình tái xanh như tầu lá, tay y cầm hộp mà run run, cơ hồ đứng muốn không vững. Thúc-Tề vội đỡ Lục Đình ngồi xuống rồi hỏi:
– Không biết đại nhân có gì bất như ý?
Lục Đình chỉ cái hộp: trên nắp hộp vẽ hình con chim ưng xòe cánh bay trên ngọn núi. Ông ta nói thều thào không ra hơi:
– Ưng-sơn song hiệp! Rốt cuộc tôi trốn không khỏi lưỡi gươm của Kinh-Nam vương Trần-tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu.
Ông mở cái hộp ra, thì bên trong có một cái đùi chó luộc chín, mấy lát riềng thái mỏng, vài chục lá mơ tươi, một dúm muối, một con dao bằng vàng mà chuôi chạm trổ con chim ưng bay qua núi, nét chạm rất tinh vi. Chân tay Lục-Đình run lập cập:
– Rút cuộc Ưng-sơn song hiệp với Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng cùng truy lùng tung tích lão phu.
Thúc-Tề an ủi:
– Tuy Ưng-sơn với Mộc-tồn đã tìm ra đại nhân thực. Nhưng này đại nhân, đại nhân đừng theo Chiêm vương bôn ba kháng chiến nữa, mà cứ ẩn ở trong thành này với anh em chúng tôi. Thành này được canh phòng rất cẩn thận, thì hai người đó dễ gì hại nổi đại nhân!
Lục Đình lắc đầu:
– Ưng-sơn với Mộc-tồn là hai người khác nhau, xưa nay hai người chưa từng hành động chung bao giờ, mà nay cùng hợp sức thì lão phu... lão phu khó có thể thoát nổi. Tiên sinh không biết đấy thôi. Khi hai người này tuyên án, thì họ đã nghiên cứu đường đi nước bước, ăn chắc có thể hành động được, họ mới lên án tội nhân. Nhưng thôi, lão phu đành gửi cái mạng nhỏ bé này cho tiên sinh, làm thằng khờ ẩn trốn trong thành này vậy. Thôi tiên sinh ra bàn giao chức vụ ngay đi.
Phạm Thúc-Tề cáo từ Lục Đình ra ngoài, thì gặp Chế-ma-Đa. Cuộc bàn giao thực mau chóng. Bởi lực lượng phòng vệ Chàm tại Phong-sa-trang chỉ có khoảng hơn nghìn bộ binh, dưới quyền viên lữ-trương tên Yan-Dung.
Thúc-Tề tổ chức ngay lập tức buổi họp tại dinh tổng-trấn phân chia nhiệm vụ xong, thì vào yết kiến Chiêm vương Chế-Củ với triều đình để tường trình công cuộc phòng thủ: Phạm Bá-Di trấn cửa Tây, Đặng Túy-Ông trấn cửa Bắc, Đinh Môn trấn cửa Đông, Hồ Đơn-Á trấn cửa Nam, Phạm Thúc-Tề điều động trung ương. Các đệ tử, bang hội người Hoa được phân chia cho bốn cửa, mỗi cửa ba trăm người, với hổ, báo, voi v.v. Riêng đội quân của Yan-Dung đóng tại trung-ương, tùy nghi điều động tiếp cứu các mặt. Những nữ đệ tử của Quảng-Đông ngũ cái thì được xung vào bảo vệ nội cung. Còn dân chúng thì đàn ông con trai tuổi từ mười lăm đến năm mươi phải ở lại giữ thành. Đàn bà, con gái, người gìa thì tạm cho tản về trang ấp. Vì lương thực chỉ có thể đủ nuôi quân, nuôi dân quân, cung quyến trong hai tháng. Thúc-Tề đã cho chuyển kho lương ở miền Nam Runsari về tích trữ trong thành, một là để nuôi quân, hai là để giặc không thể cướp mất.
Lục Đình kinh ngạc vô cùng khi thấy Thúc-Tề điều động, tổ chức phòng thủ mau chóng, đúng binh pháp Tống, như một đại tướng quân kinh nghiệm.
Chế-Củ ban chỉ dụ:
– Chiều mai thì đội cao thủ Tống sẽ đến. Vậy Phạm tiên sinh dẫn người chỉ huy cao nhất vào yết kiến trẫm, trẫm cùng y kiểm điểm lại, bàn kế sách. Sau đó trẫm cùng thị vệ, cao thủ Tống rút vào khu rừng phía Tây. Còn tể tướng thì trấn ở đèo Runsari. Như vậy có trời mà biết, chứ đừng nói là bọn Việt.
Thấy Thúc-Tề tỏ vẻ trầm ngâm, Chế-Củ hỏi:
– Phạm tiên sinh có gì nghi hoặc chăng?
– Thần hơi lấy làm lo lắng về đoàn cao thủ Tống. Theo tể tướng cho biết, chỉ có hai vị là quan chức triều đình, còn lại là phường vong mạng, đầu trộm đuôi cướp bị tù, mới được ân xá. Nay đưa họ vào thành, vạn nhất mà họ quen thói cũ, thì làm sao mà kiềm chế được?
– Ý khanh ra sao?
– Đêm nay bệ hạ ban hịch cần vương phải không? Khi bệ hạ ban hịch đến các thôn trang, mà ở đó không có người tổng chỉ huy, thì dân chúng mạnh ai nấy làm, người nọ dẫm chân lên người kia, có khi đánh lẫn nhau thì nguy vô cùng. Theo ý thần, thì bệ hạ phân các đại thần mỗi người tổng chỉ huy một vùng, lãnh đạo cuộc kháng chiến phục quốc. Nhưng liệu dân chúng có nghe theo chư vị đó không?
Chế-Củ gật đầu:
– Tiên sinh luận đúng.
– Vậy bệ hạ hãy phân chia cho mỗi vị: người thì năm, người thì mười thị-vệ, để các vị ấy có một sức mạnh tối thiểu khiến quần chúng khuất phục. Đợi đám cao thủ Tống tới, bệ hạ lại phân chia họ thành ba mươi toán, mỗi toán mười người đi theo chư đại thần. Như vậy ta có thể lợi dụng cái sức của họ, nhưng không sợ cái bất lợi trong họ, vì ta có thị vệ bên cạnh kiềm chế.
– Kiến thức tiên sinh thực vĩ đại.
– Bằng nay bệ hạ đem cả ba trăm cao thủ, mấy trăm thị vệ mà muốn âm thầm di chuyển thôn này, qua trang kia, thì có khác gì vác loa gọi cho quân Việt: trẫm ở đây, đến mà bắt đi?
Chế-Củ dơ tay lên trời:
– Trời Phật đem tiên sinh cho ta. Cái mà tiên sinh nhìn thấy, quả ta không thấy. Vậy ngay bây giờ Lục tể tướng hãy nghiên cứu xem ta nên gửi các đại thần tới thôn nào, ấp nào, rồi chia toán thị-vệ. Đêm nay chúng ta cùng các đại thần âm thầm ra đi. Khi đám võ lâm cao thủ Tống tới, thì chỉ việc phân chia họ thành từng toán nhỏ, rồi gửi thẳng tới thôn ấp. Như vậy khỏi lo lắng về hành vi bất lợi của họ.
Thế rồi hịch cần vương ban ra, rồi lệnh của Phạm Thúc-Tề truyền cho dân chúng rời thành, để tránh gươm đao. Dân dân chúng lũ lượt kéo nhau rời Phong-sa-trang về các trang ấp xung quanh. Còn lại thì binh sĩ, đệ tử Quảng-Đông ngũ cái, trai tráng được phân chia trấn thủ bốn cửa thành. Chế-Củ, Lục-Đình duyệt một vòng thành, cả hai đều kinh ngạc, vì đám đệ tử của Quảng-Đông ngũ cái ngoài kiến thức rộng, võ công cao, họ lại đều giỏi về binh sự như những đội trưởng, lữ trưởng. Họ điều khiển tráng đinh phân chia nhiệm vụ đâu ra đấy.
Sau đó Lục-Đình, cùng hai chục thị-vệ trang phục dân dã, hộ tống Chiêm-vương rời khỏi thành bằng bốn chiếc xe ngựa tiến vào dẫy núi phía Tây, là căn cứ để Chiêm vương điều động cuộc kháng chiến. Trong khi cung quyến để trong dinh tổng trấn.
Đến chiều, Lục Đình lại trở về thành, trong y phục dân dã, đến thị vệ, cùng quân canh cửa cũng không nhận ra ông. Ông đến nhà Thúc-Tề. Thúc-Tề ra đón ông vào. Ông xoa hai tay vào nhau:
– Bây giờ Ưng-sơn, Mộc-tồn đều tưởng hoàng thượng trao cho tiên sinh trấn thủ Phong-sa-trang bảo vệ cung quyến. Còn tôi thì ẩn thân, tổ chức trấn thủ đèo Runsari. Nhưng họ đâu có ngờ tôi bỏ Runsari về đây!
Thúc-Tề sai dọn cơm đãi khách, trong khi ăn uống, Lục Đình nói trong vẻ mừng rỡ:
– Tôi giao cho Chế-ma-Đa trấn thủ Runsari, để tôi lưu động di chuyển liên lạc giữa hoàng thượng với các đại thần. Trong khi tôi về ẩn ở đây, ngay vợ con tôi cũng không biết tôi ở đâu, thì Ưng-sơn với Mộc-tồn lào sao mà tìm ra tôi cho được!
Hai người ăn uống đàm đạo, sau bữa ăn, người nhà bưng món điểm tâm lên, Lục-Đình đưa tay ra đỡ lấy. Bất giác mặt ông tái xanh: con dao cắt bánh là mũi tên bằng vàng trên khắc hình chim ưng bay qua núi.
Thúc-Tề kinh hãi vội gọi đầu bếp với thị nữ lên tra hỏi xem mũi tên bằng vàng đó ở đâu? Thì cả hai cùng ngơ ngơ ngác ngác không hiểu tại sao? Ai đã lấy con dao đi, rồi thay bằng mũi tên?
Thúc-Tề nghiến răng vào nhau, ghé miệng vào tai Lục Đình:
– Ưng-sơn thực kinh khủng, quả danh bất hư truyền. Qua hai lần gửi tên, dường như Ưng-sơn chỉ muốn đe dọa đại nhân, chứ chưa muốn xuống tay. Bằng họ xuống tay, thì giờ này đại nhân đâu có còn tại thế? Bây giờ, tốt hơn hết khi tiểu nhân đi đâu, thì đại nhân đi bên cạnh là an toàn nhất.
Lục Đình run run:
– Đành vậy.
Hai hôm sau, bấy giờ là giờ Ngọ, trên con đường thiên lý từ phía Nam dẫn tới thành Phong-sa-trang tự nhiên có đám bụi bốc lên như đám khói đỏ. Trong đám bụi ấy mờ mờ ẩn hiện đội kị mã phi như bay. Người võ sinh trưởng toán canh gác vội lên vọng đài quan sát. Sau khi suy nghĩ, y cầm dùi đánh ba tiếng trống. Lập tức Hồ Đơn-Á từ dưới thành tung mình lên vọng lầu hỏi:
– Cái gì vậy?
– Trình sư phụ, một đội kị mã hỗn độn đang phi tới.
Hồ Đơn-Á mở to mắt nhìn đám bụi, đoàn kị mã, rồi cau mày:
– Đám kị mã này y phục không giống người Chàm, quân không ra quân, dân không ra dân, trong khi ngựa thì lại là ngựa chiến của Pandurango. Hãy thúc trống báo động.
Người đệ tử vội cầm dùi đánh trống. Lập tức các cửa khác cũng thúc trống vang trời. Bốn cửa thành đóng lại. Võ-sinh, binh-sĩ, dân quân đều vào vị trí phòng vệ. Đến đó, thì đội kị mã đã tới. Người chỉ huy ngửa mặt nhìn lên vọng lầu, rồi nói một tràng tiếp ộp ệp. Nghe qua, Hồ Đơn-Á biết viên chỉ huy này nói tiếng Hoa vùng Biện-kinh. Một kị mã trong y phục võ quan Chiêm đi cạnh người chỉ huy thông dịch:
– Đại quan Thiên-triều muốn nói chuyện với tướng trấn thủ.
– Trấn cửa thành Nam là tôi.
Hồ Đơn-Á đáp lại bằng tiếng Biện-kinh: Nhưng tôi không phải là tướng trấn thủ thành. Dám hỏi các vị là ai?
Kị mã đó ngước mắt nhìn lên, thấy Hồ Đơn-Á là một trung niên Hán tử, trang phục như nho sĩ Trung-quốc. Y nói lớn:
– Ta là chinh Nam thượng tướng quân Tu Kỷ của Thiên-triều. Ta được chỉ dụ của Hy-Ninh hoàng đế đem đội võ sĩ sang trợ giúp cho Chế-Củ để đánh bọn Giao-chỉ.
Chế-Củ là tên tục của Chiêm-vương, khắp nước Chiêm, không ai dám gọi như vậy. Nay Tu-Kỷ hô hoán lên là điều cực kỳ vô phép. Cạnh Tu-Kỷ có năm hán tử to lớn, râu ria xồm xoàm, trang phục theo ngũ hành: vàng, trắng, đen, xanh, đỏ. Nghe Tu-Kỷ hống hách Đơn-Á phát bực mình. Ông nghĩ thầm:
– Đám cao thủ của Tống viện trợ đã tới. Viên tướng này tỏ vẻ hách dịch, đã vậy ta làm bộ ngớ ngẩn trêu y cho bõ ghét.
– Ông tên là Chinh Thượng-Kỷ hả? Ông là lái buôn ngựa phải không?
Đơn-Á nói với Tu-Kỷ: Ông định bán bao nhiêu tiền một con ngựa?
Tu-Kỷ nổi giận, y nhắc lại:
– Ta là tướng quân Thiên-triều sang giúp chúa người. Người mau vào gọi tướng trấn thủ ra nói chuyện với ta.
– Tướng trấn thủ của tôi khó tính lắm, ông phải nói cho rõ thân phận thì tôi mới dám vào thưa lại.
Tu-Kỷ nổi cáu:
– Chế-Củ dâng biểu sang xin Thiên-triều trợ giúp chống bọn Việt. Cho nên Thiên-tử sai chúng ta sang cứu chúa người. Ta họ Tu tên Kỷ, lĩnh chức Chinh Nam thượng tướng quân. Nghe chưa. Mau vào báo với chúa người, để y mở cửa đón ta!
Thấy Tu-Kỷ càng hạch dịch, nổi nóng, Đơn-Á càng trêu già:
– Vua kiêu căng thì mất nước, quan kiêu căng thì mất chức, tướng kiêu căng thì bại trận. Này Tu tướng quân, nếu tôi là người Chiêm, thì tôi sẽ khinh bỉ tướng quân là phường vô học bất thuật, là bọn võ phu cục cằn. Còn tôi, thì tôi cũng là người Hoa như tướng quân, tôi xin mạo muội góp mấy câu, mong tướng quân để vào tai.
Ông nói khoan thai như thầy dạy trò:
– Dù tướng quân có là Hy-Ninh hoàng đế đi nữa, thì khi tới Chiêm cũng là khách. Là khách thì nên nói năng từ tốn, nhã nhặn, tỏ ra là người Trung-quốc, vốn làm chủ Hoa-hạ, chứ có đâu vô phép, gọi tên chúa nước Chiêm ra loạn xạ như vậy? Tôi cũng là người Hoa như tướng quân, tuy xa cố quốc lâu ngày, nhưng cũng dám chê tướng quân nói năng như thế là không phải vậy! Tôi không báo với tướng trấn thủ thành đâu. Vì báo, rồi ông ta ra đây để thấy một người Hoa thô lỗ cục cằn như tướng quân à?
Một người từ phía sau phi ngựa vọt lên, cung tay lễ phép, y nói bằng tiếng Biện-kinh:
– Xin lỗi tiên sinh, chúng tôi từ Pandurango tới. Khi đi đường chúng tôi được tin quân Việt đã hạ xong thành Nỏng-khà, hiện đang đem quân vượt đèo Rundari đến đây. Một đạo thủy bộ khác sắp đổ bộ Pandurango, như vậy ngay cả chúng tôi, tiền hậu đều thọ địch, chứ không phải mình tiên sinh đâu! Vì lẽ đó Tu tướng quân hơi nóng nảy, mong tiên sinh bỏ quá đi cho.
– À thì ra thế. Tu tướng quân vì sợ giặc quá, thọt dế lên cổ, nên muốn vào thành ẩn thân, thế mà Tu tướng quân cứ nói quanh co mãi. Tu tướng quân ơi, giặc đã đến đâu mà tướng quân quá kinh hãi vậy? Tướng quân kinh hãi như thế rồi chim teo lại, e đức vua tuyển làm tổng lĩnh thái giám không chừng.
Nghe Đơn-Á nói, đám võ sĩ đi theo Tu Kỷ cùng cười ồ lên, làm y ngượng chín cả người. Nguyên thời niên thiếu, Tu Kỷ được Khu-mật viện Tống bố trí sang tranh chức châu trưởng ở Bắc-biên Đại-Việt. Trong trận đấu, y bị đối thủ bóp dương v*t đến hư hai quả ngọc hành, cho nên sau y ứng tuyển làm phò mã ở Biện-kinh bị loại. Chuyện này võ lâm đều biết. Nay vô tình Đơn-Á đùa y, mà lại trúng vào cố tật, nên mọi người đều bật cười, khiến y ngượng quá, tưởng muốn chui xuống đất như con giun. (Xin đọc Anh hùng Bắc-cương, của Yên-Tử cư-sĩ).
Đơn-Á vẫn vô tình:
– Xin tướng quân cho biết cao danh quý tính?
Hồ Đơn-Á hỏi viên tướng đó: nghe ngôn từ của tướng quân, thì rõ ra là người văn võ kiêm toàn.
– Tôi là Yên Đạt, hiện lĩnh chức Trấn-viễn đại tướng quân.
– Vậy xin đại giá Yên tướng quân chờ một lát, để tôi vào báo với Phạm tiên sinh là người trấn thủ thành này.
Lát sau Hồ Đơn-Á với Phạm Thúc-Tề cùng lên cổng thành. Thúc-Tề cung tay hành lễ:
– Vong quốc Quảng-châu Hoa nhân Phạm-Thúc-Tề kính chào nhị vị đại tướng quân. Thành này hiện không do quân Chiêm trấn giữ, mà đo bọn Hoa kiều chúng tôi đảm trách. Vậy chúng tôi kính mời đại giá nhị vị đại tướng quân vào thành, còn quý vị võ-sĩ hãy tạm dừng bước chờ đợi.
Một võ-sĩ râu rậm, y phục mầu vàng tỏ vẻ bực mình:
– Chúng ta đem mạng sống đi ngàn dặm cứu chúa người, mà người còn nghi ngờ ư?
Thúc-Tề cung tay:
– Xin tráng-sĩ miễn chấp. Bởi theo quân luật bản triều lập ra từ thời vua Thái-tông chinh tiễu Thái-nguyên, U-tô đã định rằng: « Trong lúc có chiến tranh, bất cứ quân tướng nào mới tới, đều phải ở ngoài thành chờ đợi, chỉ chúa tướng được vào để bàn luận kế sách hay nhận lệnh mà thôi ». Nay dù các vị với chúng tôi rời cố quốc muôn dậm, cũng không thể không giữ luật nước, bằng không người Chiêm họ cười chúng ta rằng: bọn vai u thịt bắp vô pháp vô thiên.
Yên-Đạt, Tu-Kỷ thấy Thúc-Tề đem quân luật của Đại-Tống ra để ước thúc viên võ sĩ của mình bằng ngôn từ ôn nhu văn nhã, lại chửi khéo y là bọn vai u thịt bắp, thì không dám coi thường. Tu-Kỷ quay lại nói với đám võ sĩ:
– Các vị hãy tạm chờ chúng tôi ngoài thành. Sau khi yết kiến quốc vương, chúng tôi sẽ trở ra để phân chia nhiệm vụ cho các vị.
Thúc-Tề sai mở cửa thành. Tu-Kỷ, Yên-Đạt với năm võ sĩ râu rậm vừa vào thành, thì cổng đóng lại. Võ-sinh, dân quân trở về vị trí của mình để canh gác. Tới dinh tổng trấn, Thúc-Tề mời Tu, Yên với năm võ sĩ râu rậm vào trong. Phân ngôi chủ khách xong, Thúc-Tề giới thiệu Quảng-Đông ngũ cái, rồi trình bầy kế hoạch cần vương mục đích: kéo dài cuộc chiến để chờ quân Tống đánh sang Đại-Việt, bấy giờ Chiêm mới phản công. Ông đề nghị phân chia võ sĩ làm ba mươi toán như kế hoạch đã định.
Tu-Kỷ nổi giận:
– Thế là thế nào? Chúng tôi là đại diện Thiên-triều sang đây trợ giúp Chiêm vương, thì vương phải chờ bọn tôi sang rồi mới định kế sách mới phải chứ? Có đâu đặt cái cầy trước con trâu? Tôi không đồng ý phân chia như vậy. Việc trước mắt, yêu cầu tiên sinh cho anh em chúng tôi vào thành nghỉ ngơi, ăn uống đã. Sau đó tôi xin yết kiến quốc vương để luận kế sách.
Thúc-Tề đành chấp thuận. Ông truyền cho chư đệ tử mở cổng thành đưa đám võ sĩ vào cư ngụ trong trại quân; sai binh sĩ làm cơm đãi khách, sai người tắm ngựa, cho ngựa ăn.
Riêng Tu-Kỷ, Yên-Đạt với năm võ sĩ râu rậm được mời vào dinh tổng-trấn. Tu-Kỷ nóng nảy:
– Quốc vương của người đâu? Ta muốn được gặp y ngay.
Phạm Bá-Di đưa mắt nhìn Tu-Kỷ, rồi nói bằng giọng lạnh như băng:
– Này Tu tướng quân. Cái gì là « quốc vương của người »? Chúng tôi đã thưa với tướng quân rằng chúng tôi là dân Tống, thì chúa của chúng tôi là Hy-Ninh hoàng đế. Hy-Ninh đế hiện đang ở Biện-kinh chứ đâu có ở đây?
Từ lúc đến Phong-sa-trang Tu-Kỷ hết bị Hồ Đơn-Á giả bộ ngơ ngơ ngẩn ngẩn trêu chọc, bây giờ lại đến Phạm-bá-Di nói ngang, y chịu hết nổi. Điên tiết, y vung tay chặt vào góc cái án thư. Một mảnh án thư bị tiện đứt ngon, bằng phẳng. Y nói với Yên-Đạt trong giận dữ:
– Thật là xui cùng mạng, khi chúng ta vào cái xứ thấp nhiệt này lại gặp bọn ngớ ngớ ngẩn ngẩn.
Phạm Bá-Di lẳng lặng cúi xuống nhặt miếng gỗ bị chém đứt để lên bàn, rồi nói bâng quơ:
– Ối chao! Cái bàn dễ thường làm từ đời ông Bành-tổ mục nát cả rồi nên Tu tướng quân mới chạm tay vào, đã bị gẫy như thế này đây.
Nghe Bá-Di nói, Tu-Kỷ mới hiểu rằng mình đang đối diện với bọn hủ nho, không có một chút kiến thức gì về võ công. Cơn giận của y tiêu tan ngay:
– Ta nói cho các người biết, hai ta là đại tướng quân, đem những võ sĩ vô địch sang đây giúp Chiêm vương, thế mà Chiêm vương với các người lại lập kế trốn chui, trốn nhủi, thì chúng ta không chấp thuận. Chúng ta muốn đối trận với bọn Việt, rồi chỉ cần một hai chiêu, chúng ta giết hết bọn tướng của chúng, sau đó không cần đánh, bọn quân sĩ cũng chạy như vịt.
Y chỉ năm võ sĩ râu rậm:
– Không cần nói đâu xa, ngay Trường-bạch ngũ hùng đây mà ra tay, thì không một cao thủ Việt nào chịu nổi lấy quá hai chiêu. Bây giờ ta muốn các người đưa ta đi gặp Chiêm vương.
Nguyên bọn năm người râu rậm là năm tên đại đạo khét tiếng xuất thân từ phái Trường-bạch, hai chục năm qua, chúng tung hoành suốt một giải Quan-ngoại tới Liêu-đông. Dù hắc đạo, dù bạch đạo nghe đến tên chúng đều kinh hồn táng đởm. Hy-Ninh đế phải tốn không biết bao nhiêu tiền bạc mới chiêu hàng được chúng. Nay nhân cứu Chiêm-thành, nhà vua sai chúng theo Tu-Kỷ để lập chút công, rồi phong chức tước cho sau. Tu-Kỷ tưởng đem tên chúng ra, thì bọn Thúc-Tề phải rét run, không ngờ năm người vẫn thản nhiên như không, vì không biết gì về ân oán giang-hồ ở Trung-nguyên.